Phân loại tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và vấn đề tiếp tục hoàn thiện chế định này trong tương lai

Bài viết đề cập đến việc phân tích khoa học sáu (06) nhóm vấn đề về phân loại

tội phạm (PLTP) theo pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam và việc hoàn thiện chế

định nhỏ về PLTP trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 là: §1. Ý nghĩa của việc

nghiên cứu; §2. PLTP trong tư pháp hình sự (TPHS); §3. Những tiêu chí PLTP trong

PLHS; §4. PLTP theo PLHS Việt Nam đã hiện hành thời kỳ 70 năm trước pháp điển

hóa lần thứ ba (1945-2015); §5. Thực trạng của các quy phạm về PLTP theo PLHS

Việt Nam hiện hành và; §6. Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy phạm về PLTP

theo BLHS Việt Nam năm 2015.

pdf 10 trang kimcuc 3000
Bạn đang xem tài liệu "Phân loại tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và vấn đề tiếp tục hoàn thiện chế định này trong tương lai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân loại tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và vấn đề tiếp tục hoàn thiện chế định này trong tương lai

Phân loại tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và vấn đề tiếp tục hoàn thiện chế định này trong tương lai
8PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
§1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu về 
phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự 
Việc nghiên cứu thực tiễn tư pháp hình 
sự (TPHS) nói chung (bao gồm cả thực tiễn 
lập pháp hình sự - LPHS) và lý luận về 
phân loại tội phạm (PLTP) trong pháp luật 
hình sự (PLHS) đã cho phép khẳng định ý 
nghĩa của chế định nhỏ này trên các bình 
diện chủ yếu dưới đây. 
1. Một là, PLTP đúng là tiền đề cơ bản 
cho việc áp dụng chính xác các biện pháp 
(hành vi) trong hoạt động tư pháp hình sự 
(TPHS) như: 1) truy cứu trách nhiệm hình 
sự (TNHS); 2) khởi tố bị can; 3) xác định 
thẩm quyền điều tra, thẩm quyền truy tố 
và thẩm quyền xét xử; 4) cá thể hóa hình 
phạt; 5) lựa chọn loại trại cải tạo đối với 
người đã bị kết án; v.v... Trong khi đó, các 
quy phạm về PLTP mà vì việc thực hiện nó 
pháp nhân thương mại (PNTM) phải chịu 
TNHS được ghi nhận tại khoản 2 Điều 9 
BLHS Việt Nam năm 2015 hiện hành rõ 
ràng là chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp 
(KTLP) vì các quy phạm đó chưa khẳng định 
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
VÀ VẤN ĐỀ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH NÀY TRONG TƯƠNG LAI
LÊ CẢM* - MẠC MINH QUANG**
* Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Giám đốc Trung tâm 
Luật hình sự & Tội phạm học Khoa Luật trực 
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
** Thạc sĩ, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
Bài viết đề cập đến việc phân tích khoa học sáu (06) nhóm vấn đề về phân loại 
tội phạm (PLTP) theo pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam và việc hoàn thiện chế 
định nhỏ về PLTP trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 là: §1. Ý nghĩa của việc 
nghiên cứu; §2. PLTP trong tư pháp hình sự (TPHS); §3. Những tiêu chí PLTP trong 
PLHS; §4. PLTP theo PLHS Việt Nam đã hiện hành thời kỳ 70 năm trước pháp điển 
hóa lần thứ ba (1945-2015); §5. Thực trạng của các quy phạm về PLTP theo PLHS 
Việt Nam hiện hành và; §6. Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy phạm về PLTP 
theo BLHS Việt Nam năm 2015. 
Từ khóa: 1) PLTP trong TPHS; 2) PLTP theo PLHS; 3) Những tiêu chí PLTP; 
4) Thực trạng về PLTP; 5) Hoàn thiện việc PLTP theo BLHS Việt Nam năm 2015.
Ngày nhận bài: 23/10/2019; Ngày biên tập xong: 05/11/2019; Ngày duyệt đăng: 
17/02/2020.
This article analyses 6 issues on crime classification under Vietnamese criminal 
laws and the completion of small institution on crime classification in the 2015 
Penal Code, namely: §1. The study’s significance, §2. Crime classification in 
criminal justice; §3. Criteria to classify crime in criminal justice; §4. Crime 
classification in Vietnamese criminal laws before the third legalization (1945-2015); 
§5. Reality of norms on crime classification under current Vietnamese criminal law; 
§6. Orientations to continue completing norms on crime classification according to 
the 2015 Penal Code.
Keywords: 1) Crime classification in criminal justice; 2) Crime classification 
under criminal laws; 3) Crime classification norms; 4) Reality of crime classification; 
5) Completing criminal classification under the 2015 Penal Code.
9Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
LÊ CẢM - MẠC MINH QUANG
được một cách dứt khoát và công khai chế tài 
pháp lý hình sự mà PNTM phải chịu TNHS 
sẽ bị xử phạt cụ thể là các loại hình phạt nào 
(?). Vì rõ ràng, tuy không phải là chủ thể 
của tội phạm do không thể nào thực hiện 
được các hành vi phạm tội giống cá nhân 
(như: cầm dao chặt phá cây rừng hay cầm 
vô lăng lái xe đổ chất thải xuống sông, v.v...) 
nhưng PNTM vẫn phải liên đới chịu TNHS 
về hành vi phạm tội tương ứng do cá nhân thực 
hiện (nếu PNTM đó có đầy đủ những điều 
kiện chịu TNHS như quy định tại khoản 1 
Điều 75 BLHS năm 2015). 
2. Hai là, việc PLTP đúng theo PLHS 
không chỉ là một trong các căn cứ quan trọng 
để phân hóa và các thể hóa TNHS và hình 
phạt, cũng như áp dụng chính xác một loạt 
các chế định pháp lý khác trong Phần chung 
(như: miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo, 
xác định tái phạm, v.v...), mà còn tạo điều 
kiện thuận lợi cho việc xây dựng một cách 
chính xác và khoa học các chế tài pháp lý 
hình sự trong Phần riêng. 
3. Chính vì thế, ba là, ở một chừng 
mực nhất định, việc nhà làm luật ghi nhận 
trong PLHS thực định quốc gia chế định 
nhỏ về PLTP có nhiều ưu điểm với các quy 
phạm khả thi sẽ là điều kiện quan trọng cho 
việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến 
bộ của PLHS trong Nhà nước pháp quyền 
(NNPQ) như: pháp chế, công minh, nhân 
đạo, trách nhiệm do lỗi, v.v... và bằng cách 
đó, góp phần bảo vệ vững chắc các quyền 
và tự do của công dân trong lĩnh vực TPHS. 
4. Bốn là, mặc dù trong khoa học luật 
hình sự Việt Nam cũng đã có một số bài 
báo nghiên cứu về vấn đề PLTP ở các mức 
độ khác nhau(1), nhưng cho đến nay, vấn đề 
1 Xem cụ thể hơn: 1) Trần Văn Luyện. Về một số dạng 
phân loại tội phạm - Tạp chí TAND, số 5/1998. tr.9-12; 
2) Khuất Văn Nga. Một số ý kiến về sự thay đổi cách 
phân chia tội phạm và bổ sung hình phạt trục xuất 
- Báo Pháp luật (Bộ Tư pháp) số 32, ngày 14/3/1999, 
này vẫn chưa được nghiên cứu một cách 
đầy đủ và thỏa đáng với tính chất là một chế 
định nhỏ độc lập thuộc chế định lớn về tội 
phạm. Chẳng hạn như: 1) Chưa có bài viết 
nào đề cập đến việc nhận xét về PLTP mà 
theo đó PNTM phải chịu TNHS tại khoản 
2 Điều 9 BLHS năm 2015 hiện hành; 2) Vẫn 
còn thiếu sự phân biệt rõ ràng các dạng và 
những tiêu chí (căn cứ) PLTP trong hoạt 
động TPHS nói chung; 3) Thậm chí ngay 
trong lĩnh vực PLHS nói riêng cũng chưa 
có định nghĩa của khái niệm tiêu chí phân loại 
tội phạm là gì (?); 4) Vẫn chưa có sự phân tích 
riêng biệt những tiêu chí PLTP nào thường 
được sử dụng trong Phần chung, cũng như 
trong Phần riêng PLHS (?); 5) Vẫn chưa có 
công trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ tính 
quyết định xã hội của từng tiêu chí đó; v.v. 
5. Và cuối cùng, năm là, như vậy, tất cả 
những điều trên đây khẳng định ý nghĩa xã 
hội - pháp lý, cũng như ý nghĩa khoa học - thực 
tiễn quan trọng của việc cần phải tiếp tục 
nghiên cứu về mặt lý luận chế định PLTP 
trong khoa học luật hình sự Việt Nam để 
qua đó đưa ra những kiến giải lập pháp 
(KGLP) cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện 
các quy phạm về PLTP tại khoản Điều 9 
BLHS năm 2015 hiện hành. 
§2. Nhận thức khoa học về phân loại 
tội phạm trong tư pháp hình sự 
1. Khái niệm PLTP trong TPHS (nói 
chung) tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, 
nhưng theo chúng tôi có thể được định 
nghĩa là: Sự phân loại dựa trên những tiêu chí 
(căn cứ) nhất định tương ứng với các lĩnh vực 
hoạt động của nó nhằm đảm bảo cho hiệu quả 
của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống 
tội phạm (PN & ĐTrCTP). Về cơ bản, PLTP 
trong TPHS có thể phân chia ra 04 lĩnh vực 
tương ứng với 04 phạm trù nghiên cứu chủ 
tr.3; 3) Trần Văn Độ. Vấn đề phân loại tội phạm - Tạp 
chí Nhà nước và pháp luật, số 4/1999, tr.26-32; v.v...
10
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
yếu là: 1) PLTP trong tội phạm học; 2) PLTP 
trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS); 
3) Phân loại tội phạm trong pháp luật thi 
hành án hình sự (THAHS) và 4) Phân loại 
tội phạm trong PLHS. Dưới đây chúng ta 
sẽ lần lượt tìm hiểu nội dung cơ bản của 
từng khái niệm về 03 dạng PLTP đầu tiên, 
còn riêng dạng PLTP thứ 4 (trong PLHS) vì 
là quan trọng hơn cả nên sẽ được nghiên 
cứu riêng biệt. 
1.1. PLTP (mà chính xác hơn - phân loại 
tình trạng phạm tội) trong tội phạm học là sự 
phân loại dựa trên những tiêu chí như các 
dấu hiệu thể hiện tính chất của xu hướng 
(định hướng) trái xã hội của nhân thân 
người phạm tội, hoặc cơ chế hay phương 
pháp (thủ đoạn) xâm hại của tội phạm (Ví 
dụ: tình trạng phạm tội của phụ nữ, tình 
trạng phạm tội của người chưa thành niên, 
tình trạng phạm tội có tính chất tái phạm, 
tình trạng phạm tội có tính chất vụ lợi, tình 
trạng phạm tội có tính chất bạo lực, v.v...).
1.2. PLTP trong pháp luật TTHS là sự 
phân loại dựa trên những tiêu chí quy định 
thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử của 
các cơ quan tiến hành tố tụng. 
1.3. PLTP (mà chính xác hơn - phân 
loại những người phạm tội) trong pháp luật 
THAHS là sự phân loại dựa trên những 
tiêu chí phản ánh các đặc điểm của việc 
chấp hành hình phạt và cải tạo phạm nhân 
(Ví dụ: các tội phạm do nữ giới thực hiện, 
các tội phạm do nam giới thực hiện, các tội 
phạm do người chưa thành niên (NCTN) 
thực hiện hay các tội phạm do những người 
đã có tiền án thực hiện, v.v...). 
2. Khái niệm PLTP trong PLHS. Để tội 
phạm hóa, tức là để đưa một hành vi nào đó 
vào danh mục những hành vi nguy hiểm 
cho xã hội bị PLHS cấm - quy định nó là 
tội phạm và, hình sự hóa - quy định hình phạt 
đối với việc thực hiện hành vi đó một cách 
có lỗi (cố ý hoặc vô ý), vấn đề đầu tiên mà 
nhà làm luật cần phải làm là phân chia 
những hành vi đó thành các loại (nhóm) 
tội phạm khác nhau. Vì vậy, dưới góc độ 
khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định 
nghĩa của khái niệm đang nghiên cứu như 
sau: Phân loại tội phạm trong PLHS việc chia 
những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị PLHS 
cấm thành từng loại (nhóm) nhất định theo 
những tiêu chí này hoặc những tiêu chí khác để 
làm tiền đề cho việc cá thể hóa TNHS và hình 
phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt. 
§3. Nhận thức khoa học về những 
tiêu chí phân loại tội phạm trong pháp 
luật hình sự
1. Khái niệm tiêu chí PLTP. Dưới góc 
độ khoa học luật hình sự có thể hiểu: Tiêu 
chí PLTP là dấu hiệu để làm cơ sở nhận biết sự 
khác nhau khi chia những hành vi nguy hiểm 
cho xã hội bị PLHS cấm thành các loại (nhóm) 
nhất định. Thông thường, sự PLTP trong 
PLHS được nhà làm luật tiến hành trong 
cả Phần chung và Phần riêng, mà trong 
đó việc PLTP trong Phần chung là cơ sở, 
là tiền đề cho việc PLTP trong Phần riêng. 
Đồng thời, ở mỗi phần này của PLHS đều 
có những tiêu chí PLTP riêng của nó, vì để 
có được một chế định PLTP khả thi, nhà 
làm luật cần phải dựa trên những tiêu chí 
nhất định. Do vậy, trên cơ sở các quy phạm 
PLHS về PLTP, đồng thời xuất phát từ việc 
nghiên cứu thực tiễn xét xử và lý luận về 
PLTP, theo quan điểm của chúng tôi ta có 
thể chỉ ra 06 tiêu chí cơ bản dưới đây (trong 
đó Phần chung có 04 tiêu chí và Phần riêng 
- 02 tiêu chí).
1.1. Những tiêu chí PLTP trong Phần 
chung PLHS bao gồm 04 tiêu chí như sau: 
1) Tiêu chí thứ nhất - tính chất nguy hiểm 
cho xã hội của tội phạm; 2) Tiêu chí thứ hai 
- mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của tội 
phạm; 3) Tiêu chí thứ ba - tính chất lỗi (cố 
ý hoặc vô ý) của tội phạm hoặc còn gọi là 
11Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
LÊ CẢM - MẠC MINH QUANG
hình thức lỗi của tội phạm và; 4) Tiêu chí 
thứ tư - chế tài do PLHS quy định đối với 
việc thực hiện loại tội phạm tương ứng. 
Mỗi tiêu chí PLTP này trong Phần chung 
PLHS đều có tính quyết định xã hội riêng của 
mình, mà cụ thể là:
1) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của 
tội phạm là tiêu chí khách quan về lượng, 
phản ánh thuộc tính vật chất và cơ bản nhất 
(nội dung chính) của hành vi phạm tội và 
thể hiện trong khả năng gây nên (hoặc đe 
dọa thực tế gây nên) thiệt hại cho các quan 
hệ xã hội - QHXH (khách thể) - các lợi ích 
của con người, của xã hội và của nhà nước 
- được bảo vệ bằng PLHS, vì tiêu chí này 
chính là dấu hiệu khách quan khẳng định bản 
chất xã hội (nội dung vật chất) của tội phạm 
mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan 
của nhà làm luật. 
2) Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội 
phạm là tiêu chí khách quan về số, có tính 
chất bổ sung để phân biệt rõ hơn từng loại 
tội phạm, đồng thời là sự biểu hiện cụ thể 
của tiêu chí thứ nhất và nó có thể cho các 
cơ quan thực tiễn TPHS thấy rằng: Hậu 
quả của sự gây nguy hiểm cho xã hội của tội 
phạm đến chừng mực nào (không lớn, lớn, 
rất lớn hay là đặc biệt lớn) cho các khách 
thể được bảo vệ bằng PLHS (riêng trong 
các cấu thành tội phạm - CTTP vật chất, 
thì chính tiêu chí này xác định mức độ gây 
nguy hiểm cho xã hội của hậu quả phạm tội 
xảy ra đến đâu?). 
3) Tính chất lỗi (cố ý hoặc vô ý) của tội 
phạm hay còn gọi là hình thức lỗi của tội 
phạm đã được thực hiện là tiêu chí chủ 
quan có tính chất bổ sung để phân biệt rõ 
hơn từng loại tội phạm, nó là sự biểu hiện 
cụ thể thái độ tâm lý của người phạm tội 
đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó 
gây ra, đồng thời góp phần thực thi có hiệu 
quả một loạt các nguyên tắc tiến bộ của 
PLHS (như: TNHS trên cơ sở lỗi, cá thể hóa 
và phân hóa TNHS), vì tiêu chí này là dấu 
hiệu chủ quan phản ánh ở một mức độ đáng 
kể tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân 
thân người phạm tội như thế nào khi thực 
hiện tội phạm. 
4) Chế tài (có thể quy định mức tối đa 
hoặc mức tối thiểu là tùy nhà làm luật) do 
PLHS quy định đối với việc thực hiện loại 
tội phạm tương ứng là tiêu chí pháp lý có 
tính chất bổ sung với tư cách là thước đo để 
các cơ quan TPHS phân biệt được rõ ràng 
nhất từng loại tội phạm, đồng thời phản 
ánh cụ thể nhất kỹ thuật lập pháp (KTLP), 
niềm tin nội tâm, trình độ khoa học, sự hiểu 
biết về pháp luật và thực tiễn đời sống xã 
hội của nhà làm luật trong việc nhận thức 
03 tiêu chí trên đây như thế nào. Vì khi xây 
dựng các chế tài pháp lý hình sự trong các 
cấu thành tội phạm (CTTP) ở Phần riêng 
BLHS, tiêu chí này hoàn toàn phụ thuộc 
vào ý chí chủ quan của chính nhà làm luật.
5) Nếu đi sâu phân tích tiếp tục nữa thì 
có thể nhận thấy là toàn bộ 04 tiêu chí PLTP 
tại Phần chung đã được xem xét ở trên đều 
được thể hiện tương ứng trên 03 khía cạnh 
(hay còn gọi là 03 mặt hay 03 góc độ) tương 
ứng của 01 hành vi phạm tội là: a) Khía 
cạnh khách quan bao gồm 02 tiêu chí đầu 
(thứ nhất và thứ hai) còn được gọi chung 
là “tính tội phạm” của hành vi; b) Khía cạnh 
chủ quan - tiêu chí thứ ba và; c) Khía cạnh 
pháp lý - tiêu chí thứ tư (cuối cùng). 
1.2. Những tiêu chí PLTP trong Phần 
riêng PLHS bao gồm 02 tiêu chí như sau: 
1) Tiêu chí thứ nhất - tính chất và tầm quan 
trọng của các khách thể (loại) được bảo vệ 
bằng PLHS tương ứng với các chương 
được nhà làm luật quy định trong Phần 
riêng BLHS và; 2) Tiêu chí thứ hai - sự tái 
phạm vi phạm pháp luật (VPPL) hành chính 
hoặc là mức độ gây nguy hiểm cho xã hội (sự 
12
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
gây thiệt hại) đã vượt quá giới hạn tối đa bị 
xử phạt bằng chế tài hành chính đối với 
chính vi phạm ấy (thông thường đây là vi 
phạm lần thứ 02 ở mức độ tương tự hoặc 
ở mức độ nghiêm trọng hơn so với mức độ 
của lần vi phạm thứ nhất trong thời hạn 
01 năm kể từ khi bị xử phạt hành chính). 
Cũng như mỗi tiêu chí PLTP trong Phần 
chung, mỗi tiêu chí PLTP này trong Phần 
riêng PLHS cũng có tính quyết định xã hội 
riêng của mình, cụ thể là:
1) Tính chất và tầm quan trọng của các 
khách thể (loại) được bảo vệ bằng PLHS 
tương ứng với các chương được nhà làm 
luật quy định trong Phần riêng BLHS là 
tiêu chí cho phép khẳng định ý nghĩa chính 
trị, xã hội, đạo đức, truyền thống, v.v..., cũng 
như giá trị của các khách thể ấy được nhà 
làm luật nhân danh nhà nước đánh giá theo 
thứ tự nào và đến mức nào (?) - ở đây thể 
hiện rõ sự so sánh giữa các khách thể với 
nhau theo ý chí chủ quan của nhà làm luật. 
2) Sự tái phạm VPPL hành chính hoặc 
mức độ gây nguy hiểm cho xã hội (sự gây thiệt 
hạ ... chỉ dựa trên 01 tiêu chí 
và là duy nhất - chế tài do luật định đối với 
việc thực hiện loại tội phạm tương ứng 
(ngoài ra không kết hợp với tiêu chí nào khác 
nữa) nên tại Hội thảo về Dự án BLHS sửa 
đổi do Hội luật gia Việt Nam tổ chức (Hà 
2 Xem cụ thể hơn: Lê Cảm. Luật hình sự Việt Nam 
và sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền: Một 
số vấn đề hoàn thiện các quy phạm Phần chung - 
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1997, tr.1-3.
14
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
Nội, 25-26/3/1999), đa số các ý kiến đưa ra 
câu hỏi rằng: Như thế nào là tội phạm “ít 
nghiêm trọng”, tội phạm “nghiêm trọng”, 
tội phạm “rất nghiêm trọng” hoặc tội phạm 
“đặc biệt nghiêm trọng” được quy định tại 
khoản 2 Điều 8 Dự án BLHS sửa đổi (?). Rõ 
ràng đây là câu hỏi rất khó trả lời đối với 
các tác giả BLHS năm 1999 trước đây (cũng 
như BLHS năm 2015 hiện nay) nếu như sự 
PLTP trong Phần chung PLHS không có 
sự kết hợp những tiêu chí khác nhau như 
đã nêu trên (mà rõ ràng là cần kết hợp cả 
tiêu chí hình thức lỗi khi thực hiện hành vi 
tương ứng là rất cần thiết).
2.5. Nhiều lần sau đó, trong các buổi 
Hội thảo khoa học và sách báo pháp lý 
hình sự(3) chúng tôi đã cố gắng luận chứng 
cho tính có căn cứ của chế định PLTP (mà 
sau này mới được nhà làm luật chính thức 
điều chỉnh lần cuối trong BLHS năm 1999), 
3 Cụ thể đó là 06 lần trong: 1) Báo cáo tại Hội thảo 
khoa học về Dự án BLHS sửa đổi do Viện nhà nước 
& pháp luật tổ chức (Hà Nội, 20/3/1999) và bài báo 
sau đó “Về một số quy định của Phần chung Dự 
thảo BLHS sửa đổi” - Tạp chí Nhà nước & pháp 
luật, 1999, số 4; 2) Báo cáo tại Hội thảo khoa học về 
Dự thảo BLHS sửa đổi do Hội luật gia Việt Nam 
tổ chức (Hà Nội, 25- 26/3/1999); 3) Lần tác giả được 
cố Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban TWMTTQ Việt 
Nam Lê Quang Đạo mời đến trụ sở của TWMTTQ 
Việt Nam ngày 28/4/1999 để trực tiếp nghe trình 
bày Báo cáo của tác giả về những vấn đề liên quan 
đến Dự thảo BLHS sửa đổi lần thứ 14 trước khi cụ 
Lê Quang Đạo chuẩn bị tham dự kỳ họp thứ năm 
Quốc hội khóa X; 4) Báo cáo “Suy ngẫm về một số 
vấn đề cơ bản của Phần chung Dự thảo BLHS sửa 
đổi tháng 2/1999” được tác giả sửa lại sau Hội thảo 
khoa học đã nêu của Hội luật gia Việt Nam mà đã 
được Hội gửi lên Văn phòng UBTV Quốc hội qua 
UBTW MTTQ Việt Nam cùng với Bản tổng hợp 
kết quả cuộc Hội thảo đó; 5) Sách chuyên khảo: 
Lê Cảm. Hoàn thiện PLHS Việt Nam và trong giai 
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền (Một số vấn 
đề cơ bản của Phần chung. NXB Công an nhân 
dân, Hà Nội, 1999.–230 tr.) và; 6) Báo cáo tại Hội 
thảo khoa học về Dự án BLHS sửa đổi do Khoa 
Luật-Trường Đại học KHXH & NV thuộc ĐHQG 
Hà Nội tổ chức (Hà Nội, 02/4/1999).
và vì vậy nên cuối cùng thì chế định PLTP 
trong BLHS năm 1999 (khoản 2 Điều 8) 
cũng đã thể hiện theo đúng quan điểm 
của chúng tôi. Thiết nghĩ, ở đây cần phải 
khẳng định rằng, để đạt được sự ghi nhận 
chế định PLTP như vậy trong PLHS Việt 
Nam lúc bấy giờ là cả một quá trình cọ xát 
của các quan điểm khoa học khác nhau và 
quá trình không đơn giản ấy đã cho thấy sự 
dân chủ trong khoa học nhờ đường lối đổi mới 
của Đảng trong lĩnh vực chính sách hình sự 
(CSHS) là hoàn toàn đúng đắn.
2.6. Mặc dù vậy, chúng ta cũng cần 
nhìn nhận một cách nghiêm túc và thẳng 
thắn rằng: dưới góc độ KTLP, sự PLTP 
trong Phần chung BLHS năm 1999 (khoản 
2 Điều 8) lúc đó vẫn còn tồn tại một số 
nhược điểm cơ bản sau đây: 
1) Tuy về mặt hình thức tên gọi (tiêu đề) 
của Điều 8 BLHS năm 1999 là “Khái niệm 
tội phạm”, nhưng về mặt nội dung thì nhà 
làm luật vẫn còn giữ nguyên nhược điểm 
trong PLHS đã hiện hành trước đây - tiếp 
tục ghi nhận các quy phạm của 01 chế định 
nhỏ riêng biệt khác (đó là PLTP) chung vào 
cùng tại Điều 8 “Khái niệm tội phạm” (các 
khoản 2-3), trong khi không thể và không 
được hòa lẫn chung vào trong khái niệm tội 
phạm vì chế định nhỏ về PLTP lẽ ra cần 
được quy định tại điều luật riêng biệt khác.
2) Mặc dù tại khoản 1 liệt kê rất dài một 
loạt các khách thể loại được bảo vệ bằng 
PLHS, nhưng vẫn còn thiếu một trong các 
khách thể loại rất quan trọng vẫn chưa 
chưa được nhà làm luật liệt kê - “hòa bình 
và an ninh của nhân loại” - trong khi thực tế 
là nó vẫn được bảo vệ bằng các quy phạm 
Phần riêng PLHS Việt Nam (vì các tội xâm 
phạm đến khách thể loại này được quy 
định hẳn 01 chương riêng biệt cuối cùng 
trong Phần các tội phạm BLHS).
3) Quy phạm tại khoản 4 chứa đựng sự 
15Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
LÊ CẢM - MẠC MINH QUANG
mâu thuẫn vì: a) trong mệnh đề trước của 
nó khi đề cập đến hành vi tuy “có dấu hiệu 
của tội phạm” - rõ ràng hành vi đó phải là 
tội phạm (mặc dù “tính chất nguy hiểm cho xã 
hội không đáng kể”) nhưng tiếp theo, a) ngay 
trong mệnh đề sau lại khẳng định rằng 
hành vi đó “không phải là tội phạm” - như 
vậy, rõ ràng là bản chất pháp lý (BCPL) của 
hành vi đó phải hoàn toàn khác xa với BCPL 
của tội phạm. 
§5. Phân loại tội phạm trong Bộ luật 
hình sự Việt Nam năm 2015 
Việc phân tích khoa học nội hàm của chế 
định nhỏ về PLTP tại khoản 2 Điều 9 BLHS 
năm 2015 hiện hành cho phép đưa ra một 
số nhận xét chung dưới đây:
1. Sự PLTP mà theo đó PNTM phải 
chịu TNHS về cơ bản dựa trên sự PLTP do 
cá nhân thực hiện nên tại khoản 1 Điều 9 
BLHS năm 2015 (theo 04 loại) nhưng vẫn 
còn điểm hạn chế là chưa đề cập gì đến chế 
tài xử phạt đối với PNTM, mà đây mới chính 
là điểm cơ bản nhất để phân biệt sự khác 
nhau giữa 02 cách PLTP.
2. Phạm trù cuối cùng tại khoản 2 Điều 
9 BLHS năm 2015 “tương ứng đối với các tội 
phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật này” thì 
chỉ ngụ ý nói đến 33 CTTP mà PNTM phải 
chịu TNHS mà thôi, chứ chưa làm rõ được 
tội phạm đó do ai (chủ thể nào) thực hiện (?). 
3. Vì vấn đề quan trọng nhất là phải 
khẳng định cho được tội phạm mà PNTM 
phải chịu TNHS là do ai (chủ thể nào) thực 
hiện vì rõ ràng là: 1) PNTM chỉ có thể phải 
liên đới chịu TNHS về việc thực hiện 01 
trong 33 CTTP nêu tại Điều 76 BLHS năm 
2015; 2) Còn chủ thể nào thực hiện tội phạm 
đó thì cần phải làm rõ nhưng chắc chắn là 
PNTM không thể thực hiện tội phạm được 
(vì PNTM không phải là một thực thể sinh 
học → không có mắt, mũi, chân tay và nhất 
là bộ não → không thể tính toán, suy nghĩ 
được nên → không có lỗi; nhưng vì PNTM 
đã để cho cá nhân (tức là người đại diện 
hoặc người được ủy quyền của PNTM với 
đầy đủ các điều kiện nêu tại Điều 75 BLHS 
năm 2015 thực hiện tội phạm nêu tại Điều 
76) nên nó phải liên đới chịu TNHS cùng với 
cá nhân đó.
4. Từ sự phân tích trên cho thấy, việc 
chịu TNHS thực hiện đối với việc thực hiện 
loại tội phạm trong số 33 CTTP nêu tại Điều 
76 BLHS năm 2015 suy cho cùng cần phải 
có 02 hệ thống chế tài xử phạt tương ứng: 1) 
Nếu là cá nhân (với đầy đủ các điều kiện 
nêu tại khoản 1 Điều 75 BLHS) thì sẽ căn 
cứ vào 04 mức chế tài tương ứng với 04 loại 
tội phạm trên cơ sở sự PLTP đã được ghi 
nhận tại khoản 1 Điều 9 rồi; 2) Còn nếu là 
PNTM thì sẽ căn cứ vào đâu đây trong khi 
khoản 2 Điều 9 chưa hề có sự khẳng định dứt 
khoát và rõ ràng về vấn đề này (?). 
5. Bởi lẽ, sự PLTP đối với PNTM tại 
khoản 2 Điều 9 sự thật là chưa đi đến cùng để 
giải quyết vấn đề đã nêu trên (vì việc sử dụng 
các thuật ngữ “theo quy định tại khoản 1 Điều 
này” tức Điều 9 BLHS năm 2015 dưới góc 
độ KTLP là chưa rõ nghĩa do chưa chặt chẽ 
về cấu trúc và chưa chính xác về mặt khoa 
học nên dễ gây hiểu nhầm vì tại khoản 1 
chỉ quy định 04 mức chế tài đối với riêng cá 
nhân phạm tội). Chính vì vậy, trên cơ sở các 
hình phạt đối với PNTM đã được ghi nhận 
tại Điều 33 BLHS năm 2015, thiết nghĩ các 
nhà hình sự học của đất nước hãy cùng 
nhau suy ngẫm về hệ thống chế tài xử phạt 
riêng đối với PNTM phải chịu TNHS trong 
khái niệm tội phạm sao cho đảm bảo sức 
thuyết phục về mặt KTLP. 
§6. Định hướng tiếp tục hoàn thiện 
các quy phạm về phân loại tội phạm trong 
pháp luật hình sự Việt Nam tương lai
1. Từ sự phân tích khoa học trên đây 
về các quy phạm trong BLHS năm 2015 
16
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
liên quan đến sự PLTP mà theo đó PNTM 
phải liên đới chịu TNHS (khoản 2 Điều 9), 
theo quan điểm của chúng tôi dưới góc độ 
KTLP, những KGLP cụ thể nhằm tiếp tục 
sửa đổi-bổ sung (SĐBS) để hoàn thiện các quy 
phạm này trong tương lai cần được triển 
khai theo hướng như sau:
1.1. Để góp phần thể hiện rõ hơn xu 
hướng cá thể hóa và phân hóa TNHS tối đa 
trong LPHS nhằm tạo điều kiện thuận lợi 
cho thực tiễn áp dụng PLHS có liên quan 
đến cùng một lúc 03 chế định lớn, nhỏ của 
PLHS (như: PLTP, định tội danh và quyết 
định hình phạt-QĐHP), nhà làm luật nên 
thực hiện phương án tối ưu hơn cả của việc 
PLTP do cá nhân thực hiện là sự kết hợp cả 
03 tiêu chí trong Phần chung PLHS - tính 
nguy hiểm cho xã hội của hành vi (1), chế tài 
do PLHS quy định đối với việc thực hiện 
loại tội phạm tương ứng (2) và, hình thức 
lỗi của chủ thể khi thực hiện tội phạm (3). 
1.2. Riêng việc quy định giới hạn mức 
tối thiểu và mức tối đa của hình phạt do luật 
định đối với tội do vô ý thì khi PLTP nên 
theo phương án là: 
1) Nhà làm luật chỉ nên quy định tội 
do vô ý thuộc hai loại đầu tiên (các khoản 
2-3 Điều luật) - tội phạm ít nghiêm trọng và 
tội phạm nghiêm trọng (tùy theo hình phạt 
mà luật định đối với mỗi loại) chứ không 
nên xếp nó vào hai loại sau (các khoản 4-5 
Điều luật) - tội phạm rất nghiêm trọng và tội 
phạm đặc biệt nghiêm trọng (vì hai loại này 
chỉ nên quy định đối với các tội do cố ý).
2) Riêng hình phạt đối với tội do vô ý, 
nhà làm luật chỉ nên quy định mức hình phạt 
cao nhất - phạt tù đến 15 năm (hoặc cùng 
lắm là tù đến 20 năm), chứ không nên quy 
định các loại hình phạt khác nặng hơn hình 
phạt tù (như tù chung thân hoặc tử hình); 
và dù mức hình phạt mà luật định đối với 
tội do vô ý là tù đến 15 năm thì cũng chỉ 
nên xếp nó vào loại tội phạm nghiêm trọng 
(mà không nên xếp nó vào 02 loại sau - rất 
nghiêm trong và đặc biệt nghiêm trọng), 
vì thông thường trong những điều kiện như 
nhau, tội phạm do vô ý bao giờ cũng ít nguy 
hiểm cho xã hội hơn tội phạm do cố ý.
1.3. Và chính là trên cơ sở này mà 
chúng tôi đã tiến hành đưa ra KGLP cụ thể 
về các quy phạm của sự PLTP do cá nhân 
thực hiện (sau ngày 01/01/2018 khi BLHS 
năm 2015 chính thức có hiệu lực) nhưng do 
sự hạn chế của số trang Tạp chí nên ở đây 
không đề cập đến các quy phạm tại khoản 
1 Điều 9 BLHS năm 2015 nữa. 
2. Còn đối với sự PLTP mà theo đó, 
PNTM phải chịu TNHS tại khoản 2 Điều 9 
BLHS năm 2015 thì theo quan điểm của 
chúng tôi: 1) Vì PNTM chỉ là thực thể pháp 
lý (do con người lập ra) chứ không phải là 
chủ thể sinh học như cá nhân (nên nó không 
có mắt để quan sát, không có tay để cầm 
nắm, không có bộ óc để suy nghĩ tính toán, 
v.v... như con người được) và chính vì vậy, 
nó không thể thực hiện tội phạm được hay nói 
cách khác, không phải và không thể là chủ 
thể của tội phạm; 2) Nhưng do nó (PNTM) 
đã để cho cá nhân (với đầy đủ những điều 
kiện chịu TNHS nên tại khoản 1 Điều 75 BLHS 
năm 2015) thực hiện tội phạm nên theo 
nguyên tắc quy tội khách quan (mà PLHS của 
tất cả các quốc gia trên thế giới có quy định 
TNHS của pháp nhân thừa nhận chung) 
nên vì vậy, về mặt khách quan PNTM phải 
liên đới chịu TNHS cùng với cá nhân là hoàn 
toàn hợp lý; 3) Vấn đề là ở chỗ chúng ta 
cần tiếp tục có những SĐBS sao cho thỏa 
đáng đối với BLHS năm 2015 (nói chung) 
và Điều 9 (nói riêng) sao cho hợp lý. 
3. Những KGLP cụ thể nhằm tiếp tục 
hoàn thiện các quy phạm về PLTP trong 
BLHS Việt Nam tương lai. Theo chúng 
tôi cần có một số SĐBS trong Phần chung 
BLHS tương lai theo hướng như sau:
17Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
LÊ CẢM - MẠC MINH QUANG
3.1. Bổ sung vào BLHS tương lai 01 
Điều mới luật hoàn toàn với tên gọi “Giải 
thích các thuật ngữ” để giải quyết đầy đủ 
khoảng từ 25 đến 30 mục từ cần có sự giải 
thích của nhà làm luật. (Vấn đề này có thể 
là sẽ rất khó đối với các thành viên Tổ biên 
tập BLHS tương lai nào còn trẻ, thiếu kinh 
nghiệm LPHS nhưng nếu có tâm vì Tổ quốc 
thì phải cố gắng làm cho được để làm sao tạo 
điều kiện thuận lợi cho thực tiễn áp dụng 
PLHS của đất nước, chứ không nên bỏ qua 
vì không lý gì PLTTHS từ lần pháp điển hóa 
năm 2003 và sau đó năm 2015 có Điều luật 
riêng này rồi mà PLHS cũng đã qua 03 lần 
pháp điển hóa rồi mà lại không có). 
3.2. Tại Điều luật “Giải thích các thuật 
ngữ” trong số 25-30 mục từ cần được nhà 
làm luật giải thích, cần ghi nhận ít nhất là 
03-04 mục từ có liên quan đến việc áp dụng 
các quy phạm về PLTP đối PNTM như sau: 
1) “Chủ thể của tội phạm” là người có 
năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu 
trách nhiệm hình sự và đã có lỗi (cố ý hoặc vô 
ý) trong việc thực hiện hành vì phạm tội do Bộ 
luật này quy định. 
2) “Pháp nhân” tùy theo từng trường hợp 
tương ứng cụ thể trong Bộ luật này được hiểu 
là pháp nhân thương mại. 
3) “Pháp nhân phạm tội” là pháp nhân 
thương mại đã có sự liên đới trong việc để cho 
người khác(4) nhân danh mình, vì lợi ích của 
mình và với sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp 
thuận của mình thực hiện tội phạm do Bộ luật 
này quy định.
4) “Pháp nhân chịu trách nhiệm hình 
sự” là pháp nhân thương mại đã để cho người 
khác(5) nhân danh mình và với sự chỉ đạo, điều 
4 & 5 Trên đây là Phương án 1 (ngắn gọn), nhưng 
cũng có thể sử dụng Phương án 2 (cụ thể hơn) bằng 
cách thay từ “khác” bằng các từ “đại diện hoặc/và 
được ủy quyền của mình”. 
hành hoặc chấp thuận của mình thực hiện tội 
phạm do Bộ luật này quy định vì lợi ích của 
mình nên bị liên đới xử lý hình sự.
3.3. Tại Điều luật về “Phân loại tội 
phạm” (tương ứng như Điều 9 BLHS năm 
2015) thì theo hướng: 1) Có thể tạm giữ 
nguyên nội dung tại Khoản 1 về sự PLTP 
đối với cá nhân; 2) Bổ sung thêm Khoản 2 
như sau: 
“Điều... Phân loại tội phạm
1. (Khoản 1 có thể vẫn giữ nguyên như 
khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015). 
........................................................... 
2. Tội phạm mà pháp nhân thương mại 
phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự là tội 
phạm cụ thể được quy định tại Điều____Bộ 
luật này (tức Điều 76 BLHS năm 2015) trên 
cơ sở bốn (04) loại tội phạm tương ứng như tại 
khoản 1 Điều này mà cá nhân người đại diện 
hoặc/và người được ủy quyền của pháp nhân 
đã thực hiện, đồng thời căn cứ theo chế tài xử 
phạt riêng đối với pháp nhân đó tại các điểm từ 
“a” đến “d” khoản 2 dưới đây:.
a) Tội phạm ít nghiêm trọng mà pháp 
nhân phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự là 
tội phạm mà pháp nhân bị xử phạt từ 50 triệu 
đồng đến 5 tỷ đồng.
b) Tội phạm nghiêm trọng mà pháp nhân 
phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự là tội 
phạm mà pháp nhân bị xử phạt từ trên 5 tỷ 
đồng đến 15 tỷ đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động 
có thời hạn từ 06 tháng đến 18 tháng.
c) Tội phạm rất nghiêm trọng mà pháp 
nhân phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự là 
tội phạm mà pháp nhân bị xử phạt từ trên 15 tỷ 
đồng đến 25 tỷ đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động 
có thời hạn từ trên 18 tháng đến 03 năm.
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà pháp 
nhân phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự là 
tội phạm mà pháp nhân bị xử phạt từ trên 25 tỷ 
đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn”./.

File đính kèm:

  • pdfphan_loai_toi_pham_theo_phap_luat_hinh_su_viet_nam_va_van_de.pdf