Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng tại thành phố Long Xuyên
Nghiên cứu được thực hiện nhằm: (1) Xác định tiêu chí phân khúc thị trường
tín dụng tiêu dùng. (2) Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng. (3) Xác định
đặc điểm của khách hàng trong mỗi phân khúc. Nghiên cứu tiến hành khảo
sát 100 khách hàng có dự định sử dụng sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng
của các ngân hàng tại Thành phố Long Xuyên. Kết quả của nghiên cứu xác
định được 05 phân khúc khách hàng có thái độ khác nhau đối với sản phẩm
tín dụng tiêu dùng: (1) Phân khúc khách hàng thích lãi suất cho vay thấp, (2)
Phân khúc khách hàng vay trả góp khi cần thiết, (3) Phân khúc khách hàng
vay trả góp thích khuyến mãi, (4) Phân khúc khách hàng ngại đi vay và (5)
Phân khúc khách hàng thích vay trả góp dài hạn.
Bạn đang xem tài liệu "Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng tại thành phố Long Xuyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng tại thành phố Long Xuyên
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 18 PHÂN KHÚC THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN Hồ Bạch Nhật1, Nguyễn Hữu Ngẫm1 1Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM Thông tin chung: Ngày nhận bài: 16/07/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 06/12/2018 Ngày chấp nhận đăng: 02/2020 Title: Market segmentation of the consumer credit in Long Xuyen city Keywords: Market segmention; Long Xuyen city; Consumer credit Từ khóa: Phân khúc thị trường; Thành phố Long Xuyên; Tín dụng tiêu dùng ABSTRACT The research is conducted to: (1) Identify criteria for market segmentation of consumer credit. (2) Segment consumer credit. (3) Determine the characteristics of customers in each segment. The study is conducted with 100 customers who intend to use consumer credit services of banks in Long Xuyen city. The results of the study identified five customer segments with different attitudes towards consumer credit: (1) Customers prefer low loan interest rate, (2) Customers prefer to pay by installments when needed, (3) Customers prefer to pay by installments when having promotion, (4) Customers hesitate to borrow money and (5) Customers prefer long-term installment loans. TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm: (1) Xác định tiêu chí phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng. (2) Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng. (3) Xác định đặc điểm của khách hàng trong mỗi phân khúc. Nghiên cứu tiến hành khảo sát 100 khách hàng có dự định sử dụng sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng của các ngân hàng tại Thành phố Long Xuyên. Kết quả của nghiên cứu xác định được 05 phân khúc khách hàng có thái độ khác nhau đối với sản phẩm tín dụng tiêu dùng: (1) Phân khúc khách hàng thích lãi suất cho vay thấp, (2) Phân khúc khách hàng vay trả góp khi cần thiết, (3) Phân khúc khách hàng vay trả góp thích khuyến mãi, (4) Phân khúc khách hàng ngại đi vay và (5) Phân khúc khách hàng thích vay trả góp dài hạn. 1. GIỚI THIỆU Những năm qua, sự ổn định và phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là hoạt động tín dụng của các ngân hàng, trong đó tín dụng tiêu dùng có vai trò đóng góp đối với kinh tế xã hội, các khoản vay tiêu dùng giúp kích thích nhu cầu trong nền kinh tế, nâng cao hiệu quả và sử dụng vốn, đẩy mạnh sản xuất trong nước. Tín dụng tiêu dùng còn đóng góp vào việc khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội và sau đó lưu hành các quỹ này một cách trôi chảy và hiệu quả, điều này tạo ra việc làm, tạo ra sự khác biệt tích cực, tăng khả năng thu hút lao động và xây dựng công ăn việc làm và với các mục tiêu xã hội như giảm nghèo, tạo thu nhập, giảm đóng góp để ổn định trật tự xã hội. Theo các chuyên gia kinh tế, hoạt động cho vay tiêu dùng được coi là động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, hợp lý hóa quá trình AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 19 luân chuyển hàng hóa trên thị trường; giúp tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính thức cho người dân, đặc biệt là nhóm khách hàng dưới chuẩn vay ngân hàng, góp phần đẩy lùi “tín dụng đen”; giúp người nghèo, người thu nhập thấp có điều kiện tích lũy tài sản nhờ sự linh hoạt, đáp ứng nhanh, kịp thời nhu cầu tiêu dùng của người dân và hộ gia đình với nhiều sản phẩm, dịch vụ đa dạng, phong phú (Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Trần Minh Trí, 2018). Ngoài ra, trong những năm gần đây, phương thức thanh toán trả góp ngày càng trở nên phổ biến và nhiều người lựa chọn: Cho vay xe máy và điện tử với số tiền nhỏ, trên 50 triệu đồng; cho vay tiêu dùng trong lĩnh vực bất động sản, mua xe hơi, cho vay xe máy, đôi khi lên đến một tỷ đồng. Theo Vietcombank (2017), vào tháng 11 năm 2017 tổng dư nợ cho vay tiêu dùng ước tính tăng 59% so với cuối năm 2016, chiếm 16% tổng dư nợ của nền kinh tế. Cụ thể là cho vay mua nhà; cho thuê hoặc thuê mua nhà; xây dựng và sửa chữa nhà; việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất để xây nhà chiếm 52,9% (cuối năm 2016 là 49,5%). Phân khúc bán lẻ có nhiều lợi thế nhất định, do vậy, thị trường bán lẻ được đánh giá là phân khúc tiềm năng chưa được khai thác của ngành Ngân hàng. Vào năm 2018, theo dự báo Vietcombank tăng trưởng tín dụng dự báo trong năm tới sẽ ở mức 18%, trong đó tín dụng bán lẻ sẽ được đẩy mạnh, cho vay tiêu dùng sẽ tăng trưởng nhanh. Do đó, các tổ chức tín dụng đánh giá cao triển vọng phát triển tín dụng tiêu dùng tập trung vào hoạt động này và coi đó là một phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng để bù đắp khoảng trống do các khoản nợ vay từ công ty đang bị chặn. Hiện nay, các tổ chức cung cấp tín dụng khá đa dạng, theo báo cáo thường niên năm 2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính đến cuối năm 2016 có 4 ngân hàng thương mại nhà nước, 28 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 ngân hàng liên doanh và 51chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 16 công ty tài chính, 11 công ty cho thuê tài chính thuộc khối tín dụng phi ngân hàng và 1.166 quỹ tín dụng nhân dân có hoạt động tài chính tín dụng cá nhân. Thành phố Long Xuyên là một thành phố thuộc tỉnh An Giang, đồng thời cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà không ít các ngân hàng đã xuất hiện trong đó có các thương hiệu như: Ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Agribank, BIDV, SHB, DongA Bank, Eximbank, v.v Song song đó, thị trường tín dụng hiện nay cũng phát triển rất sôi nổi nên nhu cầu của khách hàng đòi hỏi về các tiêu chí dịch vụ tín dụng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Vì thế, sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng là điều tất yếu diễn ra nhằm đạt được mục tiêu thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ, giữ chân khách hàng cũ và cạnh tranh với các đối thủ cùng ngành. Ngân hàng cần hiểu được nhu cầu của khách hàng để có kế hoạch hành động bắt kịp những xu hướng mới, nâng cao chất lượng phục vụ gia tăng lợi thế cạnh tranh; do đó việc phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng và mô tả những đặc điểm chung của nhóm khách hàng là cơ sở để ngân hàng đánh giá nhu cầu và có những chương trình phù hợp cho từng nhóm khách hàng mục tiêu khác nhau là cần thiết đối với các ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lý thuyết Phân khúc thị trường được một số tác giả trong và ngoài nước định nghĩa ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Thứ nhất, McDonald và Dunbar (2004) đưa ra khái niệm phân khúc thị trường là quá trình tách khách hàng hiện có hay khách hàng tiềm năng không đồng nhất thành nhiều đoạn thị trường đồng nhất, trong một đoạn thị trường, những người tiêu dùng có sự giống nhau tương đối và có sự khác biệt với nhau giữa các phân khúc thị trường. Thứ hai, theo Kotler (2003), phân khúc thị trường là việc chia nhỏ một thị trường không đồng nhất thành nhiều thị trường nhỏ hơn và thuần nhất hơn nhằm thỏa mãn tốt nhất các khách hàng có những thuộc tính tiêu dùng và nhu cầu khác nhau. Mục đích của phân khúc thị AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 20 trường là nhóm các khách hàng đơn lẻ vào một phân khúc tùy theo khác nhau hay giống nhau về nhu cầu sản phẩm.Thứ ba, theo Nguyễn Thị Minh Hiền (2003), phân khúc thị trường ngân hàng là kỹ thuật chia thị trường thành những đoạn khác biệt và đồng nhất theo những tiêu thức nhất định mà mỗi khúc thị trường đó có thể được lựa chọn như là một mục tiêu cần đạt tới nhờ một chính sách Marketing hỗn hợp riêng biệt. Căn cứ trên cơ sở lý thuyết của (Kotler, 2003), cơ sở phân khúc thị trường cá nhân thường được dùng như phân khúc theo tiêu chí địa lý, phân khúc theo tiêu chí nhân khẩu học, phân khúc theo tiêu chí tâm lý, phân khúc theo hành vi: [1] Phân khúc theo yếu tố địa lý là việc chia thị trường thành nhiều khu vực địa lý khác nhau như quốc gia, bang, vùng, làng quê, thành phố hay vùng phụ cận (Kotler, 2003). Một số ngân hàng nhỏ thực hiện theo tiêu chí này vì không thể cung cấp cho toàn bộ một quốc gia, vì thế, khách hàng này buộc phải hạn chế cung cấp, phân phối các sản phẩm dịch vụ tài chính của mình ở thị trường cụ thể thuộc tỉnh, vùng, quốc gia (Trịnh Quốc Trung, 2013); [2] Phân khúc thị trường theo tiêu chí nhân khẩu học là việc phân chia nhiều nhóm hoặc gộp các cá nhân dựa trên cơ sở như tuổi tác, quy mô gia đình, giới tính, thu nhập, nghề nghiệp, trình độ học vấn (Kotler, 2003); [3] Phân khúc thị trường theo yếu tố tâm lý, người mua được chia thành những nhóm khác nhau căn cứ vào tầng lớp xã hội, lối sống hay nhân cách. Những người trong cùng một nhóm nhân khẩu học có thể có những đặc điểm tâm lý rất khác nhau. Tầng lớp xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sở thích của một người về các sản phẩm ôtô, quần áo, đồ đạc trong nhà, hoạt động nghỉ ngơi, thói quen đọc sách báo, cách lựa chọn người bán lẻ. Nhiều công ty thiết kế sản phẩm hay dịch vụ cho những tầng lớp xã hội nhất định. Lối sống, sự quan tâm đến sản phẩm của mọi người chịu ảnh hưởng của lối sống của khách hàng này. Ngày càng có nhiều người làm Marketing phân khúc thị trường theo lối sống của người tiêu dùng. Nhân cách, phân khúc thị trường nhằm tạo cho sản phẩm của mình những nhân cách theo nhãn hiệu tương ứng với những nhân cách của người tiêu dùng (Kotler, 2003); [4] Cuối cùng là phân khúc thị trường theo hành vi, người mua được chia thành nhiều nhóm căn cứ vào trình độ hiểu biết, thái độ, cách sử dụng và phản ứng đối với lợi ích sản phẩm mang lại. Ngoài ra, theo Trịnh Quốc Trung (2013), một số yếu tố như: Thái độ, quan điểm, sự hiểu biết, kiến thức và sự thành thạo. Theo Kotler (2003), lợi ích người mua có thể được phân nhóm theo lợi ích mà khách hàng này đang tìm kiếm và xem xét nhiều lợi ích mà khách hàng này tìm kiếm trong cùng một sản phẩm. Thái độ là một khuynh hướng được học hỏi để phản ứng với một thực thể theo cách thuận lợi hay bất lợi. Thái độ của chúng ta thể hiện đánh giá về một điều gì đó dựa trên một tập hợp các liên tưởng kết nối với nó. Đó là lý do tại sao có sự ưa thích hay không thích đối với một thương hiệu, chủng loại sản phẩm, dịch vụ. Có năm nhóm thái độ trên một thị trường: Vui mừng, tốt, bàng quan, xấu và thù ghét (Mai Thị Huyền, 2014). Theo Dolnica, Grun và Leisch (2018), tiêu chí phân đoạn thị trường có thể là một đặc điểm của người tiêu dùng, chẳng hạn như: Tuổi tác, giới tính, quốc gia xuất xứ hoặc giai đoạn trong vòng đời của gia đình. Ngoài ra, nó có thể chứa một tập hợp các đặc điểm tiêu dùng lớn hơn, chẳng hạn như: Một số lợi ích được tìm kiếm khi mua sản phẩm, một số hoạt động được thực hiện khi tiến hành tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ cụ thể nào đó. Để xây dựng cơ sở lý thuyết về phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng thì ngoài tham khảo những lý thuyết liên quan phân khúc thị trường như của Kotler (2003), Trịnh Quốc Trung (2013), Baldejahn và Scholderer (2007) cũng tham khảo một số công trình nghiên cứu về phân khúc thị trường trong và ngoài nước với nhiều loại hình sản phẩm/dịch vụ ở nhiều khu vực khác nhau như: Đinh Công Thành, Nguyễn Văn Mến, Phạm Lê Hồng Nhung và Võ Hồng Phượng (2012) đã phân khúc thị trường khách du lịch tại Phú Quốc; Hồ Lê Thu Trang và Lại Ngọc Linh (2012) phân khúc thị trường dịch vụ tour du lịch trọn gói tại TP. Cần Thơ; Phạm Lê Hồng Nhung, Đinh Công Thành và AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 21 Nguyễn Quỳnh Như (2012) phân khúc thị trường du lịch sinh thái tại TP. Cần Thơ; Đỗ Thị Bạch Yến (2013) phân khúc thị trường khách du lịch nội địa đến thành phố Nha Trang; Hồ Lê Thu Trang và Kullada Phetveroon (2009) phân khúc thị trường khách du lịch tại Andaman-Thái Lan; Thomas A.Brunner và Michael Siegrist (2011) phân khúc thị trường cho sản phẩm ruợu vang tại thị trường Thụy Sỹ - tác giả đã kết hợp những quan điểm về lối sống, động cơ, sự tham gia và hành vi để thực hiện phân đoạn thị trường. Đối với lĩnh vực tài chính nghiên cứu Hakimi (2014) xác định các yếu tố tốt nhất cho phân đoạn thị trường ngân hàng bán lẻ, nghiên cứu của Funfgeld và Wang (2009) về thái độ và hành vi tài chính hằng ngày tại Thụy Sĩ; nghiên cứu của Mylonakis (2007) muốn kiểm tra các yếu tố phân đoạn thị trường, cũng như niềm tin đối với các khoản vay; nghiên cứu của Mai Thị Huyền (2014) phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng - ứng dụng cho Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á tại Đà Nẵng làm cơ sở xây dựng thang đo phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng tại TP. Long Xuyên. Nghiên cứu của Hakimi (2014) cho thấy có bảy cụm được xác định là định hướng đa dạng, độc đoán, định hướng độc lập, chuyên quyền, định hướng gia đình, định hướng thời trang và định hướng theo sự hài lòng. Mỗi cụm đã được mô tả về hành vi tài chính, hoạt động ngân hàng và sự khác biệt giữa các nhóm đã được xác định và so sánh theo độ tuổi, giáo dục và giới tính. Nghiên cứu của Funfgeld và Wan (2009) kiểm tra các yếu tố cơ bản của thái độ và hành vi liên quan đến vấn đề tài chính hằng ngày và phân loại các cá nhân dựa trên các yếu tố cơ bản đó dựa vào 5 thành phần độc lập: Lo lắng, lợi ích về tài chính, ra quyết định, tiết kiệm và chỉ tiêu nhân khẩu học, tác giả đã xác định được năm cụm riêng biệt với thái độ khác nhau về hành vi tài chính. Đồng thời, chỉ ra các biến số như khủng hoảng, giới tính, tuổi tác và giáo dục có tác động đáng kể đến hành vi tài chính và xu hướng hành vi. Nghiên cứu cũng dựa vào thái độ của khách hàng đối với các khoản vay tiêu dùng cá nhân để xác định các phân khúc khác nhau, nhưng độc lập với các biến phân khúc theo nhân khẩu học được dùng để lựa chọn thị trường mục tiêu và truyền thông từ các tổ chức tài chính. Kết quả nghiên cứu đưa ra 5 phân khúc thị trường: Người tiêu dùng hợp lý, người tiêu dùng thiển cận, người tiết kiệm một cách lo lắng, người có cảm xúc đi theo, người chi tiêu lo lắng. Nghiên cứu của Mylonakis (2007) kiểm tra xu hướng tiêu dùng, thái độ và sở thích liên quan đến các dịch vụ thế chấp ở Hy Lạp, tiến hành khảo sát bằng một bảng câu hỏi với số lượng 20 câu tại khu vực Athens với 183 người được hỏi về sự thông dụng của dịch vụ tài chính, thái độ (tích cực hoặc tiêu cực) về nguồn tài chính cho bất động sản và sự lựa chọn của các bên giao dịch để có được thông tin. Tác giả sử dụng các tiêu thức phân khúc gồm: [1] Nhân khẩu học: Tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, việc làm, thu nhập gia đình; [2] Dịch vụ ngân hàng và hành vi khách hàng: Ý định nhận một khoản vay thế chấp, lý do lựa chọn ngân hàng cung cấp dịch vụ; [3] Đặc điểm tài chính thế chấp: Lãi suất, thời gian thu phí, tỷ lệ tài chính, phạt tiền thanh toán. Kết quả cho thấy đáp viên có xu hướng thiên về các khoản cho vay mua nhà và một nửa để mua đất. Những người trẻ tuổi có định hướng vay để mua nhà ở và đất đai, trong khi phụ nữ tích cực hơn đối với việc mua đất. Các tiêu chí chính để lựa chọn một ngân hàng là hợp tác với ngân hàng do các nhà môi giới bất động sản đề xuất. Nghiên cứu ... ồng về giới tính và đa phần có độ tuổi từ trên 35 tuổi, phần lớn có trình độ THPT. Khách hàng này chủ yếu là công nhân và thu nhập khá ở mức trung bình từ 5 triệu đến 7 triệu. Nhóm khách hàng ngại đi vay thường có nhu cầu mua sắm phương tiện đi lại, mua sắm các vật dụng giải trí, vật dụng sinh hoạt nội trợ. AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 29 Riêng đối với khách hàng có đội tuổi từ 45 tuổi thì có nhu cầu về nhà ở, còn đối với nhóm khách hàng có độ tuổi dưới 45 tuổi thì đa phần lại có nhu cầu về các vật dụng thể thao, du lịch. 3.3.5 Phân khúc thứ 5 Nhóm khách hàng này có giá trị trung bình cao nhất đối với yếu tố “thường chọn các khoản vay mà có khả năng trả dần hàng tháng” và có giá trị trung bình tương đối cao với yếu tố “thời hạn cho vay mua hàng trả góp kéo dài”. Nhóm khách hàng thứ 5 cũng có dự định sử dụng các sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng để mua các vật dụng cần thiết cho gia đình khách hàng này cảm thấy bình thường khi vay trả góp. Nhưng khi vay chỉ chọn những khoản vay có khả năng trả dần hàng tháng và thời gian vay kéo dài. Nhóm khách hàng này sẽ được đặt tên là “phân khúc khách hàng thích vay trả góp dài hạn”. Nhóm khách hàng thích vay trả góp dài hạn tương đồng về giới tính và độ tuổi chủ yếu của nhóm khách hàng này không thuộc khoảng tuổi từ 25 tuổi đến 44 tuổi, phần lớn độc thân hoặc đã kết hôn có con độ tuổi học sinh, trình độ chủ yếu là THPT. Khách hàng này phần lớn là sinh viên, công nhân và lao động tự do. Nhóm khách hàng có độ tuổi dưới 25 tuổi có các nhu cầu về mua/xây nhà, mua sắm phương tiện, mua sắm vật dụng thể thao, du lịch và giải trí. Nhóm khách hàng có độ tuổi trên 44 tuổi có nhu cầu cải tạo nhà và mua sắm các vật dụng sinh hoạt nội trợ. 3.4 Phân tích biệt số 3.4.1 Ước lượng hệ số hàm sai biệt Các giá trị trung bình nhóm của các yếu tố cho thấy có sự khác biệt giữa các phân khúc về thái độ đối với sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng. Các giá trị sig. ứng với các tỉ số F của từng biến đều có giá trị nhỏ hơn 0,05; cho thấy 18 biến dự đoán được xem xét riêng lẽ thì tất các các biến đều có ý nghĩa phân biệt các phân khúc. Bảng 5. Kiểm định giá trị trung bình của các yếu tố giữa các nhóm Biến dự đoán SCT1 SCT2 STL1 STL2 STL3 STL4 Sig. 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 Biến dự đoán SLL1 SLL2 SLL3 SPB1 SPB2 SPB3 Sig. 0,00 0,029 0,00 0,00 0,00 0,00 Biến dự đoán SP1 SP2 SP3 SP4 SP5 SP6 Sig. 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 Ma trận hệ số tương quan nội bộ nhóm chung cho thấy yếu tố “các khoản vay giúp mua được những gì mình muốn ngay lập tức” tương quan với “nhờ có dịch vụ tài chính, mà có thể tận hưởng được cuộc sống” và “các khoản vay giúp có thể mua nhiều thứ hơn cùng một lúc”; “các khoản vay giúp có thể mua nhiều thứ hơn cùng một lúc” tương quan với “cảm thấy xấu hổ khi vay mượn tiền”; “vay hay mua trả góp là bình thường” tương quan với “cảm thấy xấu hổ khi vay mượn tiền”; “vay một khoản vay với lãi suất thấp nhất” tương quan với “thích thủ tục cho vay/mua hàng trả góp đơn giản, không tốn nhiều thời gian”; “thích có những chương trình khuyến mại kèm theo khi đi vay/mua hàng trả góp” tương quan với “bất cứ khi nào có thể” và “sẽ vay ngân hàng và các hình thức vay khác”. Tuy nhiên, các tương quan này đều nhỏ hơn 0,5 nên sự tương quan giữa các yếu tố khá lỏng lẻo do đó vấn đề đa cộng tuyến không đáng kể. AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 30 Bảng 6. Tóm tắt các giá trị biệt số Eigenvalues Hàm Giá trị riêng Eigenvalue Phân trăm biến động phương sai Phân trăm tích lũy Tương quan Canonical 1 11,770 80,7 80,7 0,960 2 1,385 9,5 90,2 0,762 3 1,245 8,5 98,8 0,745 4 0,177 1,2 100,0 0,388 Do có 5 phân khúc và 18 biến dự đoán được đưa vào phân tích biệt số nên chỉ có 4 hàm được ước lượng. Các giá trị Eigenvalues của hàm thứ nhất là 11,77 và hàm này chiếm 80,7% phương sai của dữ liệu. Hàm thứ hai có giá trị Egienvalue là 1,385 và chiếm 9,5% phương sai của dữ liệu. Hàm thứ ba có giá trị Egienvalue là 1,245 và chiếm 8,5% phương sai của dữ liệu và thứ tư có giá trị Eigenvalues là 0,177 và chiếm 1,2% phương sai của dữ liệu. Như vậy, hai hàm đầu tiên có giá trị Eigenvalues chiếm đến 90,2% phương sai giải thích được nguyên nhân. 3.4.2 Xác định mức ý nghĩa của các hàm sai biệt Trị số của đại lượng Wiks’Lamda là 0,012 trong việc xem xét cả 4 hàm từ hàm 1 đến hàm 4, tương đương với đại lượng chi- square là 403,714 với bậc tự do là 32 và có giá trị sig. nhỏ hơn mức ý nghĩa 0,05. Do đó, cả 4 hàm cùng một lúc có khả năng phân biệt với 5 phân khúc một cách có ý nghĩa. Khi hàm thứ nhất được lấy ra, Wiks’Lamda của 3 hàm, xét từ hàm 2 đến hàm 4 là 0,159 và có ý nghĩa quan sát nhỏ hơn 0,05. Tất nhiên, cả 3 hàm đều phân biệt với 5 phân khúc một cách có ý nghĩa nên cả 3 hàm cùng một lúc có khả năng phân biệt với 5 phân khúc một cách có ý nghĩa. Tương tự, khi hàm thứ hai và thứ ba lần lượt được lấy ra, thì Wiks’Lamda của 2 hàm (từ hàm 3 đến hàm 4) và 1 hàm (hàm 4) lần lượt là 0,378 và 0,850, đều có ý nghĩa quan sát nhỏ hơn 0,05 vì vậy, sự phân biệt giữa các phân khúc có ý nghĩa thống kê. Bảng 7. Giá trị kiểm định Wilk’s lambda Các hàm được kiểm tra Giá trị Wilks' Lambda Giá trị Chi-square Bậc tự do Sig, Hàm 1 đén hàm 4 0,012 403,714 36 0,00 Hàm 2 đến hàm 4 0,159 169,379 24 0,00 Hàm 3 đến hàm 4 0,378 89,404 14 0,00 Hàm 4 0,850 14,994 6 0,02 Các hệ số chuẩn hóa cho thấy “bất cứ khi nào có thể, sẽ vay ngân hàng và các hình thức vay khác” có hệ số lớn trong hàm thứ nhất; hàm thứ nhất cũng gắn kết với các yếu tố như: “Nhờ các khoản vay mà có thể mua sản phẩm mong muốn với chất lượng tốt”, “bất cứ khi nào có thể, sẽ vay ngân hàng và các hình thức vay khác”, “nhờ có dịch vụ tài chính, mà có thể tận hưởng được cuộc sống”, “muốn giải ngân nhanh để đáp ứng ngay được nhu cầu mua sắm” và “mua hàng trả góp cho những vật dụng thật sự cần thiết”. Hàm thứ hai có hệ số lớn nhất đối với “vay/mua hàng trả góp là cần thiết đối với gia đình”. Hàm thứ ba có hệ số lớn đối với “thường chọn các khoản vay mà anh chị có khả năng trả dần hàng tháng” và gắn kết với yếu tố “thích có những chương trình khuyến mại AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 31 kèm theo khi đi vay/mua hàng trả góp”, “thích thời hạn cho vay/mua hàng trả góp kéo dài”, “cảm thấy xấu hổ khi vay mượn tiền” và yếu tố muốn vay một khoản vay với lãi suất thấp nhất”. Cuối cùng hàm thứ tư có hệ số lớn đối với “tỷ lệ cho vay thì quan trọng”. Hàm 4 cũng gắn kết với các yếu tố: “Các khoản vay giúp có thể mua nhiều thứ hơn cùng một lúc”, “các khoản vay giúp mua được những gì mình muốn ngay lập tức”, “luôn có sẵn nơi để vay tiền”. Bảng 8. Giá trị trung tâm Hàm số 1 2 3 4 Phân khúc 1 -1,634 2,037 0,326 -0,104 Phân khúc 2 -1,413 -0,518 -2,227 -0,337 Phân khúc 3 6,188 -0,372 0,694 -0,470 Phân khúc 4 -3,751 -1,206 1,075 -0,037 Phân khúc 5 1,993 -0,123 -0,319 0,698 Bảng 9. Kết quả dự đoán phân biệt các phân khúc dựa trên toàn bộ mẫu 1 2 3 4 5 Tổng 1 20 1 0 1 0 22 2 0 16 0 0 0 16 3 0 0 16 0 0 16 4 1 1 0 21 0 23 5 0 0 0 0 23 23 Các kết quả phân biệt dựa trên toàn bộ mẫu cho thấy có (20+16+16+21+23)/100 = 90% các quan sát đã được phân loại đúng, vậy mô hình phân tích biệt số này là tốt. 4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ So với các nghiên cứu trước như nghiên cứu của Hakimi (2014), Funfgeld và Wan (2009), Mylonakis (2007), Mai Thi Huyền (2014), v.v nghiên cứu này giữ lại các biến quan sát đo lường thái độ của khách hàng đối với sản phẩm tín dụng tiêu dùng. Đồng thời các thang đo thuộc về nhân khẩu học, hành vi tài chính thông qua nghiên cứu định tính đã điều chỉnh một số thông tin phù hợp với thị trường khu vực TP. Long Xuyên. Kết quả của nghiên cứu này cũng xác định được 5 phân khúc khách hàng, tuy nhiên, ở khu vực TP. Long Xuyên chưa xuất hiện nhóm khách hiện đại như ở Đà Nẵng mà chỉ có nhóm khách hàng mong muốn và cho rằng sử dụng sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng là cần thiết và quan tâm đến các yếu tố như lãi suất thấp, thời gian vay kéo dài, kèm theo khuyến mãi. Kết quả phân tích cho thấy 18 biến quan sát đều đạt yêu cầu về độ tin cậy, không có sự điều chỉnh mô hình nghiên cứu ban đầu. Các yếu tố cùng đo lường thành phần thái độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm tài chính tiêu dùng vẫn được giữ nguyên. Khi đưa các yếu tố vào phân tích cụm kết quả phân tích xác định được 5 phân khúc khách hàng gồm có: “Phân khúc khách hàng thích lãi suất thấp”, “phân khúc khách hàng vay trả góp khi cần thiết”, “phân khúc khách hàng vay trả góp thích khuyến mãi”, “khách hàng ngại đi vay” và “phân khúc khách hàng thích vay trả góp dài AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 32 hạn”. Phân tích biệt số này là đạt yêu cầu, đồng thời cũng chỉ ra 5 phân khúc khách hàng có khả năng phân biệt và đạt ý nghĩa thống kê. Trong những năm gần đây, các ngân hàng tập trung đẩy mạnh tín dụng, đặc biệt là vay tiêu dùng, vay trả góp cho các nhu cầu mua xe, nhà ở. Qua nghiên cứu các phân khúc được mô tả chi tiết các đặc điểm nhân khẩu học, thái độ gắn với một số nhu cầu chủ yếu của từng phân khúc. Từ đó, đưa ra những kiến nghị một số hàm ý quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp cận khách hàng tạo sự khác biệt, trước tiên ngân hàng cần hợp tác với cửa hàng như Nguyễn Kim, Thế giới di động, FPT shop, Điện máy xanh, Điện máy Chợ Lớn, các siêu thị điện thoại và xe máy, showroom ôtô, công ty bất động sản, chung cư... để quảng bá và thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ vay/mua hàng trả góp mua xe máy, ôtô, điện thoại mới, máy tính xách tay, đồ gia dụng gia đình. Trong 5 phân khúc thì ngân hàng không cần thiết quan tâm nhóm “phân khúc khách hàng ngại đi vay” vì họ cảm thấy xấu hổ khi đi vay hoặc mua hàng trả góp và cho rằng sử dụng sản phẩm dịch vụ tín dụng tiêu dùng là không cần thiết cho gia đình và bản thân. Riêng các phân khúc còn lại như sau: - “Phân khúc thích lãi suất thấp” thường xem xét kỹ các yếu tố lãi suất, nơi vay, hình thức vay để lựa chọn được cho mình mức lãi suất thấp nhất. Ngân hàng nên thêm vào danh mục sản phẩm các món vay mua nhà, mua xe, đa dạng về lãi suất và linh hoạt về hình thức vay với các mức vay ưu đãi để tạo lợi thế cạnh tranh về mặt lãi suất. - “Phân khúc khách hàng vay trả góp khi cần thiết” chỉ chọn vay những khoản trong khả năng chi trả, không quan tâm nhiều đến lãi suất, tỷ lệ vay hay những ưu đãi khi vay. Ngân hàng cần tiếp tục liên kết các cửa hàng, siêu thị, đẩy mạnh truyền thông quảng bá sản phẩm và đưa ra nhiều lựa chọn của sản phẩm, dịch vụ như mức trả trước linh hoạt hơn, thời gian thanh toán linh hoạt hơn, mức vay linh hoạt hơn Cần chú ý thêm về thủ tục đăng ký đơn giản hơn. - “Phân khúc khách hàng vay trả góp thích khuyến mãi” thường chọn các khoản vay có khả năng trả dần hàng tháng và quan tâm nhiều đến các yêu tố liên quan khi lựa chọn vay như lãi suất thấp, tỷ lệ cho vay. Đa dạng hóa các chương trình khuyến mãi, chú ý những giá trị tăng thêm của sản phẩm nhằm thu hút sự quan tâm đối tượng này và lưu ý nhóm khách hàng này thích các chương trình xúc tiến mang tính ngắn hạn tác động nhanh chóng. - “Phân khúc khách hàng thích vay trả góp dài hạn” thường chọn những khoản vay có khả năng trả dần hàng tháng và thời gian vay kéo dài. Ngân hàng cần đưa ra nhiều lựa chọn của sản phẩm và dịch vụ như mức trả trước linh hoạt hơn, thời gian thanh toán linh hoạt hơn, gia hạn thời gian vay linh hoạt. Đặc biệt quan tâm kết hợp những công ty kinh doanh những mặt hàng giá trị cao như nhà ở, bất động sản, ô tô. Cần chú ý thêm về thủ tục đăng ký đơn giản và nhanh chóng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Brunner T.A and Siegrist M. (2011). A consumer – oriented segmentation study in the Swiss wine market. British Food Journal, 113 (3), 353 -337. Dolnica, S., Grun, B. & Leisch, F. (2018). Marketing segmentation Analysis. Springer Singapore. Đỗ Thị Bạch Yến. (2013). Phân khúc thị trường khách du lịch nội địa đến thành phố nha trang. Trường Đại học Nha Trang. Nha Trang. Việt Nam. Đinh Công Thành., Nguyễn Văn Mến., Phạm Lê Hồng Nhung., & Võ Hồng Phượng. (2012). Phân khúc thị trường khách du lịch tại Phú Quốc. Kỷ yếu khoa học Đại học Cần Thơ, 70- 80. AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 18 – 33 33 Hakimi H. (2014). Retail Banking Customer’s Market Segmentation Based on Psychological Factors: Case Study in Islamic Republic of Iran: Bank Mellat. 9th International Business and Social Science Research Conference. Retrieved from conference-2014/banking Hoàng Trọng., & Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức. Hồ Lê Thu Trang., & Kullada Phetveroon (2009). In-bound Tourism Market Segmentaion in the Andaman Cluster, Thailand. Korea: Asia Pacific Forum in Tourism, 8, 243-255. Funfgeld, B., & Wang, M. (2009). Attitudes and behaiviourin everyday finance: evidence from Swinerland. International Journal of Bank Markeing, 27(2), 108-128. Hồ Lê Thu Trang., & Lại Ngọc Linh. (2012). Phân khúc thị trường dịch vụ tour du lịch trọn gói tại TP. Cần Thơ. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, 23b, 232-243. Mai Thị Huyền. (2014). Phân khúc thị trường tín dụng tiêu dùng-ứng dụng cho ngân hàng Đông Á tại Đá Nẵng. Trường Đại học Đà Nẵng. Đà Nẵng. Việt Nam. McDonald, M., & Dunbar, I. (2004). Market segmentation. British: Butterworth- Heinemann. Mylonakis, J. (2007). A bank customer analysis and mortgage services evaluation: implications of market segmentation policies. Banks and Bank Systems. Sumy, 2 (3), 157- 172. Nguyễn Minh Phong, & Nguyễn Trần Minh Trí. (2018). Những cơ hội, thách thức và đề xuất giải pháp trong hoạt động ngân hàng năm 2018. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Tạp chí Ngân Hàng. số 3-4.. Truy cập từ https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/m enu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?leftWidth=20% 25&showFooter=false&showHeader=false&d DocName=SBV329577&rightWidth=0%25&c enterWidth=80%25&_afrLoop=23604835335 6000#%40%3F_afrLoop%3D2360483533560 00%26centerWidth%3D80%2525%26dDocNa me%3DSBV329577%26leftWidth%3D20%25 25%26rightWidth%3D0%2525%26showFoote r%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf .ctrl-state%3D1axzv737ah_281 Nguyễn Thị Minh Hiền. (2003). Marketing Ngân hàng. Hà Nội: NXB Thống Kê. Kotler P. (2003). Marketing Essentials.Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Lao động - xã hội Phạm Lê Hồng Nhung., Đinh Công Thành., & Nguyễn Quỳnh Như. (2012). Phân khúc thị trường du lịch sinh thái tại TP. Cần Thơ. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, 21a, 169-179. Trịnh Quốc Trung. (2013). Marketing ngân hàng. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Vietcombank. (2017). Tín dụng 2018 dự báo tăng trưởng 18%, trọng tâm phân khúc bán lẻ. Truy cấp từ https://www.bsc.com.vn/News/NewsDetail/59 2067-vcbs-tin-dung-2018-du-bao-tang-truong- 18-trong-tam-phan-khuc-ban-le
File đính kèm:
- phan_khuc_thi_truong_tin_dung_tieu_dung_tai_thanh_pho_long_x.pdf