Ổn định chính trị - Xã hội - Nguồn lực đặc biệt để phát triển đất nước

Lý luận chung về ổn định chính trị - xã hội

ở nước ta

Ổn định chính trị - xã hội không phải là

trạng thái đứng yên, trì trệ, mà là trạng thái động,

phát triển, thực chất là quá tr nh thường xuyên

giải quyết được những mâu thuẫn nảy sinh về

chính trị - xã hội, về kinh tế, văn hóa Ổn định

chính trị - xã hội là một trạng thái xã hội mà ở đó

có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính

chất, tr nh độ của lực lượng sản xuất; giữa kiến

trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của xã hội và

sự phù hợp cơ bản đó biểu hiện và trên thực tế là

sự thống nhất giữa những lợi ích của giai cấp

cầm quyền với những lợi ích của đại đa số thành

viên trong xã hội trong những điều kiện lịch sử

cụ thể. Đối với Việt Nam, Đảng ta luôn xác định

ổn định chính trị - xã hội là vấn đề hàng đầu

trong phát triển bền vững đất nước qua hơn 30

năm đổi mới và những chặng đường phát triển

tiếp theo. Ổn định chính trị - xã hội là điều kiện,

là cơ sở vững chắc để Việt Nam đạt được tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao, đồng đều, có được một

nền hòa bình thịnh vượng.

pdf 5 trang kimcuc 16420
Bạn đang xem tài liệu "Ổn định chính trị - Xã hội - Nguồn lực đặc biệt để phát triển đất nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ổn định chính trị - Xã hội - Nguồn lực đặc biệt để phát triển đất nước

Ổn định chính trị - Xã hội - Nguồn lực đặc biệt để phát triển đất nước
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
5 
ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI - NGUỒN LỰC ĐẶC BIỆT ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 
Nguyễn Quang Bình 
Tóm tắt 
Bài viết tập trung làm rõ vị trí, ý nghĩa của việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội đối với sự phát triển 
đất nước. Đây là một nguồn lực đặc biệt quan trọng, là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển 
bền vững. Trên cơ sở đánh giá tổng quan tình hình chính trị - xã hội của đất nước (Chủ yếu dưới góc độ 
thời cơ và thách thức sau hơn 30 năm đổi mới), tác giả đề xuất bốn giải pháp chính nhằm tiếp tục bảo 
vệ và giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Chính trị, đất nước, nguồn lực, phát triển, xã hội. 
STABILITY OF POLITICS AND SOCIETY – A SPECIAL RESOURCE 
FOR COUNTRY DEVELOPMENT 
Abstract 
The article focuses on clarifying the role and importance of maintaining socio - political stability for the 
country’s development. This is an especially important resource and a prerequisite for sustainable 
development. Based on an overview of the socio - political situation of the country (mainly from the 
perspective of opportunities and challenges after more than 30 years of innovation), the author proposed 4 
main solutions to continue to protect and maintain the socio - political stability in Vietnam today. 
Keywords: Politics, country, resources, develop, society. 
JEL classification: A14; P16
1. Đặt vấn đề 
Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi 
mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá tr nh đó diễn ra 
trong bối cảnh toàn cầu hóa, vừa có những thuận 
lợi và cơ hội to lớn, vừa có những khó khăn và 
thách thức không nhỏ. Để thực hiện thắng lợi 
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, việc giữ 
vững ổn định chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo 
của Đảng trở thành tiền đề, điều kiện tiên quyết và 
là một nguồn lực đặc biệt quan trọng. 
2. Nội dung 
2.1. Lý luận chung về ổn định chính trị - xã hội 
ở nước ta 
Ổn định chính trị - xã hội không phải là 
trạng thái đứng yên, trì trệ, mà là trạng thái động, 
phát triển, thực chất là quá tr nh thường xuyên 
giải quyết được những mâu thuẫn nảy sinh về 
chính trị - xã hội, về kinh tế, văn hóa Ổn định 
chính trị - xã hội là một trạng thái xã hội mà ở đó 
có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính 
chất, tr nh độ của lực lượng sản xuất; giữa kiến 
trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của xã hội và 
sự phù hợp cơ bản đó biểu hiện và trên thực tế là 
sự thống nhất giữa những lợi ích của giai cấp 
cầm quyền với những lợi ích của đại đa số thành 
viên trong xã hội trong những điều kiện lịch sử 
cụ thể. Đối với Việt Nam, Đảng ta luôn xác định 
ổn định chính trị - xã hội là vấn đề hàng đầu 
trong phát triển bền vững đất nước qua hơn 30 
năm đổi mới và những chặng đường phát triển 
tiếp theo. Ổn định chính trị - xã hội là điều kiện, 
là cơ sở vững chắc để Việt Nam đạt được tốc độ 
tăng trưởng kinh tế cao, đồng đều, có được một 
nền hòa bình thịnh vượng. Sự ổn định chính trị - 
xã hội ở nước ta được biểu hiện tập trung thông 
qua ba trạng thái cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, sự ổn định về tư tưởng chính trị. 
Giữ vững và phát triển nền tảng tư tưởng của xã 
hội - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh. Nhất quán về đường lối chiến lược, 
sách lược cách mạng - mục tiêu độc lập dân tộc 
và chủ nghĩa xã hội. Kiên trì cụ thể hóa và thực 
hiện mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam 
trong giai đoạn mới - xây dựng và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khơi 
dậy những tư tưởng, giá trị truyền thống tốt đẹp 
của dân tộc. Đấu tranh với những tư tưởng lạc 
hậu, cơ hội, bảo thủ, phản động, sai trái. 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
6 
Thứ hai, giải quyết hài hòa mối quan hệ 
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội và các dân 
tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước. Có đường 
lối, chính sách phù hợp để xây dựng, không 
ngừng củng cố khối liên minh giữa giai cấp công 
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan 
tâm giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các 
giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Các dân tộc bình 
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng 
phát triển. Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín 
ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo, quyền 
sinh hoạt tôn giáo b nh thường theo đúng hiến 
pháp, pháp luật. 
Thứ ba, hệ thống chính trị được đổi mới, 
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, 
định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững, tăng 
cường. Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc 
đổi mới đất nước được củng cố, phát huy. Tổ 
chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ 
quốc và các đoàn thể nhân dân thường xuyên 
được đổi mới. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc 
biệt là việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 
không ngừng được mở rộng, nâng cao. Đảng, 
Nhà nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa 
trong phát triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản 
xuất, trong phát triển nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống văn hóa, tinh 
thần của nhân dân không ngừng được cải thiện 
và nâng cao. 
Mối quan hệ giữa ổn định chính trị - xã hội 
với phát triển đất nước là một trong những mối 
quan hệ lớn, quan trọng. Đất nước muốn phát 
triển, thịnh vượng thì phải ổn định chính trị - xã 
hội, hay nói một cách khác, ổn định chính trị - xã 
hội chính là môi trường, điều kiện để phát triển. 
Ổn định chính trị - xã hội là điểm khởi đầu, là 
phương thức để phát triển, có ổn định thì mới có 
phát triển. Ngược lại, phát triển chính là mục tiêu, 
là động lực quan trọng cho sự ổn định chính trị - 
xã hội của đất nước. Phát triển đồng bộ về kinh tế, 
chính trị, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường 
vừa là yêu cầu, vừa là nguồn lực cho sự ổn định 
chính trị - xã hội. Nhưng phát triển không có 
nghĩa sẽ tạo ra sự ổn định, mà phải xác lập được 
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của 
Nhà nước, niềm tin vào những mục tiêu phát triển 
đất nước, vào những giá trị phát triển con người - 
văn hóa - xã hội. Trong đó, lợi ích, nghĩa vụ, trách 
nhiệm của mỗi người gắn kết bền chặt với sự phát 
triển đất nước, trở thành đồng thuận xã hội, tính tự 
chủ tự quản xã hội cao. 
2.2. Thực trạng tình hình chính trị - xã hội của 
đất nước hiện nay 
“Nh n tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất 
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý 
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [1]. Dưới sự lãnh đạo 
của Đảng, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo 
vệ đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, kinh 
tế - xã hội có bước phát triển vượt bậc, đời sống 
nhân dân được cải thiện, quốc phòng - an ninh 
được tăng cường, vị thế của Việt Nam trên 
trường quốc tế được khẳng định. “Đất nước ta 
chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày 
nay” [2]. Đồng thời, “...còn nhiều vấn đề lớn, 
phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập 
trung giải quyết, khắc phục...” [1]. 
Thời gian tới, “tình hình chính trị - an ninh 
thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất 
phức tạp, khó lường Cộng đồng quốc tế phải 
đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách 
thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc 
biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh 
kiểu mới Ở trong nước, bốn nguy cơ mà 
Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại Bảo vệ chủ 
quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, 
thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một 
số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định” 
[4]. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước đã 
chỉ ra rằng, nhờ duy tr và bảo đảm đươc môi 
trường chính trị - xã hội ổn định, mà nội lực đất 
nước được khơi dậy và phát huy, ngoại lực được 
tiếp nhận và sử dụng một cách hiệu quả. Kinh 
nghiệm của thế giới cũng như của Việt Nam cho 
thấy, tình hình chính trị - xã hội có ổn định, thì 
mọi nguồn lực của đất nước mới được tập trung 
cao nhất và sử dụng có hiệu quả cho phát triển 
nhanh và bền vững. 
2.3. Giải pháp giữ vững ổn định chính trị - xã 
hội để phát triển đất nước hiện nay 
“Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi 
với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải 
gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất b nh đẳng 
xã hội. Chúng ta cần một xã hội hướng tới các giá 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
7 
trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, 
tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh 
thắng - thua vì lợi ích vị kỷ của cá nhân và các 
phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, 
hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường 
sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương 
lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài 
nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và hủy hoại môi 
trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà 
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân 
và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải 
chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng đó chính 
là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội” 
[5]. Trong “Tầm nhìn Việt Nam 2030 và 2045”, 
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phấn đấu đến năm 
2030, Việt Nam hướng tới một xã hội khá giả, 
thịnh vượng thuộc nhóm có thu nhập trung bình 
cao; năm 2045, Việt Nam trở thành một quốc gia 
phồn vinh, thịnh vượng, hạnh phúc, gia nhập 
nhóm nước có thu nhập cao, nơi người dân có 
cuộc sống hạnh phúc, an toàn. Hiện nay, “t nh 
hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời 
cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều 
vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối 
với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo 
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh 
thổ của Tổ quốc” [1]. Vì vậy, yêu cầu bảo vệ an 
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong 
thời gian tới là hết sức nặng nề, quyết liệt, đòi hỏi 
chúng ta trong bất kỳ tình huống nào cũng phải 
giữ vững bằng được chủ quyền quốc gia và sự ổn 
định chính trị - xã hội, tạo môi trường hòa bình và 
điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đất 
nước. Muốn vậy, cần tập trung thực hiện có hiệu 
quả một số biện pháp cốt lõi sau đây: 
Một là, tiếp tục giữ vững sự ổn định về tư 
tưởng chính trị, thường xuyên phát huy sức mạnh 
đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi 
mới đất nước. 
Tiếp tục đổi mới nhận thức, vận dụng và phát 
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng 
Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, tinh thần của xã 
hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chú trọng 
nghiên cứu, phát huy những giá trị truyền thống 
trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Thường xuyên và 
tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền việc thực 
hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa 
XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, 
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết 
Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây 
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy 
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, 
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” 
trong nội bộ”, gắn với các quy định về nêu gương 
trên các phương tiện truyền thông, nhất là Quy 
định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban 
Chấp hành Trung ương về “Trách nhiệm nêu 
gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên 
Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban 
Chấp hành Trung ương”. 
Thực hiện đoàn kết rộng rãi, thực chất trong 
mọi tầng lớp nhân dân. Củng cố và phát triển 
khối liên minh công - nông - trí thực sự là nền 
tảng vững chắc cho việc xây dựng khối đại đoàn 
kết toàn dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết gắn 
với dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo 
của Đảng. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chủ 
trương, chính sách, giải quyết triệt để, hài hòa 
những mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc, tôn 
giáo trong công cuộc đổi mới. Tăng cường công 
tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi cán 
bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ 
Chí Minh và tầm quan trọng của việc giữ gìn sự 
đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Gắn tăng cường 
đoàn kết, thống nhất trong Đảng với củng cố 
khối đại toàn kết toàn dân tộc. Lấy củng cố, tăng 
cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm hạt 
nhân để củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết 
dân tộc, trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập dân 
tộc, thống nhất Tổ quốc. 
Hai là, đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị 
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa, đặc biệt là hệ thống chính trị và quy chế 
dân chủ ở cơ sở. 
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, 
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của 
Đảng. Chú trọng cải cách tổ chức và hoạt động 
của Nhà nước, Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể 
nhân dân. Các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, 
đảng viên phải nâng cao tr nh độ, năng lực lãnh 
đạo và sức chiến đấu; nhạy b n trước t nh h nh 
chung, khắc phục khó khăn, kịp thời nắm bắt vận 
hội, khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, 
thế mạnh của địa phương, đơn vị trong quá trình 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
8 
quản lý, điều hành thực hiện các chỉ tiêu phát 
triển. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt thật sự 
đủ năng lực và tr nh độ chuyên môn, cũng như 
phẩm chất đạo đức, đảm bảo yêu cầu lãnh đạo, 
chỉ đạo từng mặt công tác, đáp ứng yêu cầu về 
hiệu quả, chất lượng trong công tác lãnh đạo, 
quản lý, điều hành sự phát triển kinh tế - xã hội. 
Dân chủ phải dựa trên cơ sở lý luận chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 
Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, quan điểm của 
Đảng, quy chế, quy định, nghị quyết của tổ chức 
đảng các cấp; mở rộng dân chủ phải đi đôi với 
giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp 
chế. Đảm bảo thực hiện nghiêm túc cơ chế tập 
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục 
tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới 
phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung 
ương. Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng 
rãi, đảm bảo công khai, cởi mở, b nh đẳng, dân 
chủ giữa cấp trên và cấp dưới; dân chủ trên mọi 
lĩnh vực; kết hợp hài hòa giữa dân chủ gián tiếp 
và dân chủ trực tiếp, nhất là trong xây dựng, ban 
hành các chỉ thị, nghị quyết, chính sách. Bảo 
đảm và phát huy quyền tự do dân chủ, gắn với kỷ 
luật, kỷ cương, trật tự an toàn xã hội. Mỗi tổ 
chức cơ sở Đảng phải nỗ lực phấn đấu đạt tiêu 
chuẩn “trong sạch - vững mạnh”, mỗi đảng viên 
phát huy vai trò tiên phong trên từng lĩnh vực 
công tác. Đó cũng là điều kiện để đảm bảo sự 
lãnh đạo của Đảng trong thực hiện mục tiêu phát 
triển đất nước nói chung, phát triển kinh tế - xã 
hội nói riêng. 
Ba là, bảo đảm kết hợp chặt chẽ sự phát 
triển giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, 
xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. 
Tiếp tục kiên định phát triển kinh tế theo mô 
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa; kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới hệ 
thống chính trị, gắn phát triển kinh tế với phát 
triển xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực 
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. “Phải coi trọng 
kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với 
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; gắn phát 
triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc 
phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, 
thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc” [3]. Thống nhất chính sách 
kinh tế với chính sách xã hội, không chờ đến khi 
kinh tế đạt tới tr nh độ phát triển cao rồi mới thực 
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không 
“hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy 
theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. 
“Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, huy 
động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền 
kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội 
nhanh và bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng 
xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc 
phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước 
công nghiệp theo hướng hiện đại, tiến tới trở 
thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa” [4]. Mỗi chính sách kinh tế đều 
phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi 
chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc 
đẩy phát triển kinh tế. Kết hợp tăng trưởng kinh tế 
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời 
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện 
tiến bộ và công bằng xã hội. Gắn kết chặt chẽ giữa 
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc 
phòng - an ninh và cải thiện, bảo vệ môi trường. 
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá 
đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công, 
những người có hoàn cảnh khó khăn. 
Bốn là, hạn chế, loại trừ tiến tới triệt tiêu 
những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - 
xã hội của đất nước. 
Từng bước giải quyết tốt các vấn đề xã hội, 
thu hẹp dần khoảng cách về tr nh độ phát triển, 
mức sống và chất lượng cuộc sống giữa các tầng 
lớp dân cư trong xã hội, giữa các vùng, miền, 
tạo nên sự thống nhất về lợi ích cơ bản trong xã 
hội. Chủ động nhận thức, đấu tranh đẩy lùi 
những nhân tố tiềm ẩn có thể gây mất ổn định 
chính trị - xã hội như tệ quan liêu, tham nhũng; 
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ 
tụt hậu về kinh tế và phòng, chống “diến biến 
hòa b nh”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự 
chuyển hóa” trong nội bộ Giải quyết kịp thời, 
hài hòa những vấn đề bức xúc trong xã hội hiện 
nay như tệ nạn xã hội, khiếu kiện vượt cấp, sự 
xuống cấp về đạo đức, văn hóa 
Giải quyết đúng đắn, hài hòa giữa lợi ích cá 
nhân và lợi ích tập thể; kiên quyết chống chủ 
nghĩa cá nhân, xóa bỏ “lợi ích nhóm”, xóa bỏ 
tình trạng đặc quyền, đặc lợi về điều kiện sinh 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019) 
9 
hoạt và các chế độ đãi ngộ. Đẩy mạnh công tác 
kiểm tra, giám sát, bảo đảm có trọng tâm, trọng 
điểm với tinh thần quyết tâm cao, bản lĩnh vững 
vàng, giữ vững nguyên tắc “không có vùng 
cấm”, “không có ngoại lệ” để sớm phát hiện 
những biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung 
dân chủ, những biểu hiện đoàn kết hình thức, giả 
hiệu, “bằng mặt không bằng lòng”,... Đồng thời, 
tập trung xử lý dứt điểm tình trạng mất đoàn kết 
nội bộ, những việc lợi dụng bất đồng ý kiến, mâu 
thuẫn trong nội bộ dẫn đến nguy cơ “tự diễn 
biến”, “tự chuyển hóa”, làm tan rã khối đoàn kết, 
thống nhất. Quan tâm bảo đảm tốt đời sống vật 
chất, tinh thần cho các đối tượng yếu thế; tích 
cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, 
tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự đồng 
thuận trong Đảng và trong toàn xã hội. 
3. K t luận 
Ổn định chính trị - xã hội - nền tảng để phát 
triển đất nước chính là điều mà mỗi người trong 
chúng ta cần nhận thức một cách đầy đủ để có 
hành động đúng đắn, sáng suốt. Sự ổn định chính 
trị - xã hội chỉ được xây dựng vững chắc trên nền 
tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của 
Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Ổn 
định chính trị - xã hội cũng chính là “phương 
thuốc” hữu hiệu nhằm tiêu diệt tận gốc những 
“virus” xấu, độc của các thế lực thù địch, cơ hội 
chính trị, góp phần xây dựng và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 
tình hình mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia, 2016, tr.65, 65, 70 - 75, 75. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương khóa 
XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.2. 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2011, tr.21 - 22. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Nâng cao hiệu quả quản 
lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế”, Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2019. 
[5]. Nguyễn Phú Trọng. (2012). Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Nhìn từ thực 
tiễn Việt Nam. Bài phát biểu tại Trường Đảng cao cấp Nico Lopez, Cu Ba, ngày 10 tháng 4 năm 2012. 
Thông tin tác giả: 
1. Nguyễn Quang Bình 
- Đơn vị công tác: Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Trường Sĩ quan 
Chính trị, Bộ Quốc phòng 
- Địa chỉ email: binhcnxhkh@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/6/2019 
Ngày nhận bản sửa: 25/06/2019 
Ngày duyệt đăng: 25/09/2019 

File đính kèm:

  • pdfon_dinh_chinh_tri_xa_hoi_nguon_luc_dac_biet_de_phat_trien_da.pdf