Nồng độ interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến

Mở đầu: IL-12 đóng vai trò là cytokine tiền viêm trong bệnh vảy nến. Đã có một số nghiên cứu xác định

nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi trong kết quả

của các tác giả.

Mục tiêu: Xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh và mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với

đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến.

Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để đánh giá nồng độ IL-

12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh, so sánh với nhóm

chứng khoẻ mạnh tương đồng về tuổi và giới. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm hấp thụ

miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Xác định mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm lâm

sàng bao gồm thể lâm sàng và mức độ nặng bệnh vảy nến dựa theo chỉ số PASI.

Kết quả: Trong 6 tháng, 70 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong đó 59 bệnh nhân vảy nến thông

thường, 6 bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân, 5 bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Nhóm chứng là 35 người bình

thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở nhóm bệnh vảy nến (10,07 pg/ml) cao hơn so với nhóm người bình

thường (7,94 pg/ml) với p=0,02. Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, nồng độ IL-12 huyết thanh của nhóm bệnh

nhân viêm khớp vảy nến (30,46 pg/ml) cao hơn so với nhóm bệnh nhân vảy nến thông thường (9,15 pg/ml) với

p<0,001 và="" nhóm="" bệnh="" nhân="" vảy="" nến="" đỏ="" da="" toàn="" thân="" (6,73="" pg/ml)="" với="" p="0,03." nồng="" độ="" il-12="" trong="" huyết="">

có tương quan thuận với PASI (Spearman rho=0,385, p=0,003).

Kết luận: Nồng độ IL-12 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người bình

thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh có mối tương quan thuận với chỉ số PASI.

pdf 6 trang kimcuc 3040
Bạn đang xem tài liệu "Nồng độ interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nồng độ interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến

Nồng độ interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 46
NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN-12 TRONG HUYẾT THANH 
VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG 
Ở BỆNH NHÂN VẢY NẾN 
Lê Ngọc Phụng*, Lê Thái Vân Thanh**, Văn Thế Trung** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: IL-12 đóng vai trò là cytokine tiền viêm trong bệnh vảy nến. Đã có một số nghiên cứu xác định 
nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi trong kết quả 
của các tác giả. 
Mục tiêu: Xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh và mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với 
đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để đánh giá nồng độ IL-
12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh, so sánh với nhóm 
chứng khoẻ mạnh tương đồng về tuổi và giới. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm hấp thụ 
miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Xác định mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm lâm 
sàng bao gồm thể lâm sàng và mức độ nặng bệnh vảy nến dựa theo chỉ số PASI. 
Kết quả: Trong 6 tháng, 70 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong đó 59 bệnh nhân vảy nến thông 
thường, 6 bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân, 5 bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Nhóm chứng là 35 người bình 
thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở nhóm bệnh vảy nến (10,07 pg/ml) cao hơn so với nhóm người bình 
thường (7,94 pg/ml) với p=0,02. Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, nồng độ IL-12 huyết thanh của nhóm bệnh 
nhân viêm khớp vảy nến (30,46 pg/ml) cao hơn so với nhóm bệnh nhân vảy nến thông thường (9,15 pg/ml) với 
p<0,001 và nhóm bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân (6,73 pg/ml) với p=0,03. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh 
có tương quan thuận với PASI (Spearman rho=0,385, p=0,003). 
Kết luận: Nồng độ IL-12 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người bình 
thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh có mối tương quan thuận với chỉ số PASI. 
Từ khóa: Interleukin-12, PASI, vảy nến. 
ABSTRACT 
SERUM LEVELS OF INTERLEUKIN-12 AND ITS RELATION TO CLINICAL CHARACTERISTICS IN 
PSORIATIC PATIENTS 
Le Ngoc Phung, Le Thai Van Thanh, Van The Trung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 46 – 51 
Background: Interleukin-12 (IL-12) plays a role of proinflammatory cytokine in psoriasis. There have been 
many studies determining the serum levels of this cytokine in psoriatic patients but with conflicting results. 
Objectives: To evaluate serum levels of IL-12 and to assess the relation of these levels to clinical 
characteristics in psoriatic patients. 
Participant and Method: A cross-sectional study was performed to assess the serum IL-12 levels of 
psoriatic patients at Ho Chi Minh City Hospital of Dermato Venereology, in comparison with age and sex-
* Học viên Cao học - Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM ** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: chamsocdadhyd@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 47
matched healthy controls. Serum IL-12 levels were measured by an enzyme-linked immunosorbent assay 
(ELISA). Clarifying the relation between serum levels of IL-12 and clinical characteristics including clinical 
classification and disease severity represented by the Psoriasis Area and Severity Index (PASI). 
Results: In 6 months, 70 psoriatic patients were enrolled, including 59 psoriasis vulgaris patients, 6 
erythrodermic psoriasis patients and 5 psoriatic arthritis patients. There were 35 healthy controls. Median serum 
IL-12 levels were significantly increased in psoriatic patients as compared with controls (10.07 pg/ml versus 7.94 
pg/ml, respectively) (p=0.02). In patients with psoriatic arthritis, IL-12 levels were markedly elevated (30.46 
pg/ml), compared with patients with psoriasis vulgaris (9.15 pg/ml) (p<0.001) and patients with erythrodermic 
psoriasis (6.73 pg/ml) (p=0.03). Serum IL-12 levels were positively correlated with PASI (Spearman r=0.385, 
p=0.003). 
Conclusion: We found that serum IL-12 levels of psoriatic patients were significantly higher than those of 
controls. Serum levels of IL-12 were positively correlated with PASI scores. 
Keywords: Interleukin-12, PASI, psoriasis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vảy nến là một bệnh da mạn tính thường 
gặp ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Tỷ lệ 
bệnh chiếm khoảng 2%-3% dân số toàn cầu và có 
sự khác nhau tùy từng khu vực(6). Mặc dù có 
nhiều vấn đề chưa hiểu rõ trong cơ chế sinh 
bệnh của bệnh vảy nến, nhưng với tiến bộ của 
nền y học hiện nay đã chỉ ra vai trò thiết yếu của 
cytokine trong bệnh vảy nến. Trong các cytokine, 
IL-12 góp phần quan trọng vào quá trình miễn 
dịch, kích hoạt một chuỗi hoạt động tạo ra các 
cytokine và chemokine(8). Nhiều nghiên cứu về 
IL-12 đã được báo cáo trên thế giới nhưng có rất 
nhiều tranh cãi trong kết luận của các nghiên 
cứu này. 
Tại Việt Nam, thuốc sinh học nhắm vào IL-12 
như ustekinumab, một loại thuốc-kháng thể đơn 
dòng nhắm vào trục IL-12/IL-23, đã được lưu 
hành khá phổ biến(11). Tuy nhiên chưa có nghiên 
cứu nào xác định nồng độ IL-12 cũng như mối 
liên quan của IL-12 với đặc điểm lâm sàng ở 
bệnh nhân Việt Nam mắc bệnh vảy nến. Chính 
vì vậy, việc xác định nồng độ IL-12 và mối liên 
quan của IL-12 với đặc điểm lâm sàng là cần 
thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để 
đánh giá nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở 
bệnh nhân vảy nến đến khám và điều trị tại 
bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh. 
Nghiên cứu chọn nhóm bệnh là những bệnh 
nhân ≥18 tuổi đến khám nội trú, ngoại trú có 
bệnh vảy nến thông thường, viêm khớp vảy nến, 
vảy nến đỏ da toàn thân đồng ý tham gia nghiên 
cứu. Nhóm chứng là những người khỏe mạnh 
≥18 tuổi tình nguyện tham gia vào nghiên cứu và 
tiền sử gia đình không mắc bệnh vảy nến. 
Chúng tôi dự trù cỡ mẫu nghiên cứu cho nhóm 
bệnh là 66 người và nhóm chứng là 33 người 
dựa theo nghiên cứu của Takahashi H. và các 
cộng sự(9). 
Các bệnh nhân được hỏi bệnh sử và thăm 
khám để ghi nhận thông tin dịch tể và lâm sàng. 
Sau đó nhóm bệnh và nhóm chứng được lấy 
máu xét nghiệm định lượng nồng độ IL-12 huyết 
thanh. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo 
bằng xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với 
enzyme (ELISA). Chỉ số PASI dựa vào các yếu tố 
chính là hồng ban, dày da và tróc vảy của tổn 
thương theo thang điểm 0-4 (0: không ảnh 
hưởng, 1: nhẹ, 2: vừa, 3: nặng, 4: rất nặng) và 
diện tích từng phần cơ thể bị tổn thương theo 
thang điểm 0-6 (0%: 0, 1-9%: 1, 10-29%: 2, 30-49%: 
3, 50-69%: 4, 70-89%: 5, 90-100%: 6). PASI đánh 
giá trên bốn phần chính của cơ thể là vùng đầu, 
chi trên, thân, chi dưới với diện tích từng phần 
tương đương lần lượt là 10%, 20%, 30%, 40%. 
Chỉ số PASI thay đổi từ 0-72, chỉ số càng cao mức 
độ bệnh càng nặng. PASI được phân độ như sau: 
nhẹ PASI20. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 48
Dữ liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 18.0. Sử dụng kiểm định Chi-square để so 
sánh tỷ lệ. Dùng kiểm định t so sánh hai trung 
bình. Sử dụng kiểm định Spearman để đánh giá 
mối tương quan giữa hai biến số liên tục không 
có phân phối chuẩn. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của đối tượng 
nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học của nhóm bệnh nhân 
vảy nến 
 n Tỷ lệ % 
Nam 36 51,4 
Nữ 34 48,6 
Tổng 70 100 
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong các bệnh 
nhân vảy nến, tỷ lệ nam (51,4%) cao hơn nữ 
(48,6%). 
Bảng 2: So sánh về giới và tuổi giữa nhóm bệnh nhân 
vảy nến và nhóm người bình thường 
Nhóm bệnh 
vảy nến 
Nhóm bình 
thường 
p 
Nam 36 (51,4%) 16 (45,7%) 
0,581
(1) 
Nữ 34 (48,6%) 19 (54,3%) 
Tuổi trung bình 47,30±14,36 46,97±14,24 0,912
(2) 
(1) phép kiểm Chi-square 
(2) phép kiểm t 
Nhóm bệnh nhân vảy nến có tỷ lệ nam 
(51,4%) cao hơn so với nữ (48,6%), ngược lại 
nhóm người bình thường có tỷ lệ nữ (54,3%) cao 
hơn so với nam (45,7%), tuy nhiên sự khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê (p=0,581). Tuổi 
trung bình của nhóm bệnh vảy nến (47,30±14,36) 
cao hơn so với nhóm người bình thường 
(46,97±14,24) và sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê với p=0,912. 
Bảng 3: Phân bố theo thời gian bị bệnh của bệnh nhân 
vảy nến 
Thời gian bị bệnh (năm) n Tỷ lệ % 
<5 22 31,4 
5-10 21 30,0 
>10 27 38,6 
Tổng 70 100 
Trong mẫu nghiên cứu, nhóm bệnh nhân 
mắc bệnh trên 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất với 
38,6%. Thời gian mắc bệnh trung bình là 10 năm, 
dao động từ ít nhất 1 năm đến lâu nhất là 45 
năm. 
Bảng 4: Phân bố theo thể lâm sàng bệnh vảy nến 
Thể lâm sàng n Tỷ lệ % 
Vảy nến thông thường 59 84,3 
Vảy nến đỏ da toàn thân 6 8,6 
Viêm khớp vảy nến 5 7,1 
Tổng 70 100 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong nhóm 
bệnh vảy nến đa số là vảy nến thông thường 
chiếm tỷ lệ 84,3%, kế đến là vảy nến đỏ da toàn 
thân (8,6%), thấp nhất là viêm khớp vảy nến 
(7,1%). 
Bảng 5: Độ nặng bệnh vảy nến theo phân độ PASI 
PASI n Tỷ lệ % 
Nhẹ (PASI<10) 15 25,4 
Trung bình (10≤PASI≤20) 26 44,1 
Nặng (PASI>20) 18 30,5 
Tổng 59 100 
Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, đa số ở 
mức độ bệnh trung bình (44,1%) và mức độ bệnh 
nặng (30,5%). 
Nồng độ IL-12 trong huyết thanh 
Bảng 6: Nồng độ IL-12 huyết thanh của nhóm bệnh 
vảy nến và nhóm người bình thường 
Nồng độ IL-12 (pg/ml) 
p
(1) 
Trung vị Thấp nhất Cao nhất 
Nhóm bệnh vảy nến 10,07 5,38 35,38 
0,02 
Nhóm bình thường 7,94 5,36 24,75 
 (1) phép kiểm Mann-Whitney 
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh vảy 
nến có nồng độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với 
nhóm người bình thường, sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p=0,02. Ngoài ra, có ít nhất 
18,6% bệnh nhân vảy nến có nồng độ IL-12 
huyết thanh cao hơn mức nồng độ IL-12 huyết 
thanh trung bình của nhóm người bình thường. 
Bảng 7: So sánh nồng độ IL-12 giữa các thể lâm sàng 
của nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình 
thường 
So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh p
(1) 
Nhóm bình thường so với Vảy nến thông thường 0,030 
Nhóm bình thường so với Viêm khớp vảy nến <0,001 
Nhóm bình thường so với Vảy nến đỏ da toàn thân 0,396 
(1) phép kiểm Mann-Whitney 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 49
Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm người 
bình thường thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm bệnh vảy nến thông thường và nhóm 
bệnh viêm khớp vảy nến (với p lần lượt là 0,030 
và <0,001), cao hơn không có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm bệnh vảy nến đỏ da toàn thân 
(p=0,396). 
Mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh 
với đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân 
vảy nến 
Bảng 8: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo tuổi khởi 
phát 
Tuổi khởi 
phát 
Nồng độ IL-12 (pg/ml) p
(1) 
Trung vị Thấp nhất Cao nhất 
0,508 ≤40 14,81 5,38 35,38 
>40 8,99 5,38 33,33 
≤30 7,53 5,38 31,97 
0,164 
>30 12,68 5,38 35,38 
(1) phép kiểm Mann-Whitney 
Nhóm bệnh khởi phát trước 40 tuổi có nồng 
độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với nhóm bệnh 
khởi phát sau 40 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê (p=0,508). Tương tự, 
sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết thanh giữa 
nhóm bệnh khởi phát trước 30 tuổi và sau 30 tuổi 
không có ý nghĩa thống kê (p=0,164). 
Bảng 9: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo thời gian bị 
bệnh 
Thời gian 
bệnh (năm) 
Nồng độ IL-12 (pg/ml) p
(1) 
Trung vị Thấp nhất Cao nhất 
0,763 ≤10 9,15 5,92 33,76 
>10 12,68 5,38 35,38 
≤5 15,92 5,92 33,76 
0,076 
>5 8,61 5,38 35,38 
(1) phép kiểm Mann-Whitney 
Nhóm bị bệnh vảy nến trên 10 năm có nồng 
độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với nhóm bị 
bệnh vảy nến dưới 10 năm, tuy nhiên sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,763). 
Tương tự, sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết 
thanh giữa nhóm bị bệnh vảy nến trên 5 năm và 
dưới 5 năm không có ý nghĩa thống kê (p=0,076). 
Bảng 10: Nồng độ IL-12 huyết thanh giữa các thể lâm 
sàng 
Nồng độ IL-12 (pg/ml) 
Trung vị 
p
(1) 
Vảy nến thông thường 9,15 
0,001 Vảy nến đỏ da toàn thân 6,73 
Viêm khớp vảy nến 30,46 
(1) phép kiểm Kruskal-Wallis 
Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, nhóm viêm 
khớp vảy nến có nồng độ IL-12 huyết thanh cao 
nhất. Sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết thanh 
giữa các nhóm lâm sàng có ý nghĩa thống kê với 
p=0,001. 
Bảng 11: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo độ nặng 
bệnh vảy nến (theo phân độ PASI) 
Mức độ bệnh 
Nồng độ IL-12 (pg/ml) 
Trung vị 
p
(1) 
Nhẹ (PASI<10) 7,92 
0,016 Trung bình (10≤PASI≤20) 8,77 
Nặng (PASI>20) 17,26 
(1) phép kiểm Kruskal-Wallis 
Nồng độ IL-12 huyết thanh cao nhất ở nhóm 
bệnh mức độ nặng và thấp nhất ở nhóm bệnh 
mức độ nhẹ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p=0,016. 
Bảng 12: So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh giữa 
từng cặp độ nặng bệnh vảy nến (theo phân độ PASI) 
So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh p
(1)
Nhẹ so với Trung bình 0,301 
Nặng so với Nhẹ 0,02 
Nặng so với Trung bình 0,013 
(1) phép kiểm Mann-Whitney 
Biểu đồ 1: Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 huyết 
thanh với chỉ số PASI 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 50
Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm bệnh 
mức độ nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm bệnh mức độ nhẹ và trung bình (với p 
lần lượt là 0,02 và 0,013). Không có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh mức độ 
nhẹ và nhóm bệnh mức độ trung bình (p=0,301). 
Nồng độ IL-12 huyết thanh có mối tương 
quan tuyến tính thuận mức độ vừa với chỉ số 
PASI (rho=0,385), sự tương quan có ý nghĩa 
thống kê (p=0,003). 
BÀN LUẬN 
Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm bệnh 
nhân có tuổi khởi phát bệnh trước 40 tuổi cao 
hơn so với nhóm bệnh nhân khởi phát bệnh sau 
40 tuổi, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê (p=0,508). Tương tự như vậy, khi so sánh 
nồng độ IL-12 huyết thanh giữa nhóm bệnh 
nhân khởi phát trước 30 tuổi và khởi phát sau 30 
tuổi, chúng tôi cũng không tìm thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p=0,164). Theo Fitzpatrick(4), 
bệnh càng khởi phát sớm, diễn biến bệnh càng 
dai dẳng kéo dài, biểu hiện lâm sàng càng nặng 
nề, các phản ứng viêm trong cơ thể càng tăng và 
mạnh mẽ, theo đó các cytokine cũng tăng cao. 
Một nghiên cứu Phạm Ngọc Trâm(10) về nồng độ 
IL-17 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến 
đã ghi nhận nồng độ cytokine này ở nhóm bệnh 
nhân có thời gian khởi phát bệnh sớm trước 40 
tuổi cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân 
có thời gian khởi phát bệnh muộn sau 40 tuổi. 
Bệnh nhân bị bệnh dài hơn 10 năm có nồng 
độ IL-12 huyết thanh trung bình cao hơn so với 
nhóm bệnh nhân bị bệnh ngắn hơn 10 năm, sự 
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê 
(p=0,763). Kết quả của chúng tôi khác biệt với kết 
quả của Attalah và các cộng sự(2), họ ghi nhận 
được nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của 
nhóm bệnh nhân bị bệnh trên 10 năm là 
39,26±11,11 pg/ml, của nhóm bệnh nhân bị bệnh 
dưới 10 năm là 34,09±13,65 pg/ml, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê (p=0,026). Chúng tôi 
cũng tiến hành so sánh nồng độ IL-12 huyết 
thanh giữa nhóm bệnh nhân bị bệnh ngắn hơn 5 
năm và dài hơn 5 năm nhưng không tìm thấy sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,076). 
Theo y văn, bệnh vảy nến diễn tiến càng lâu, 
các rối loạn miễn dịch càng trầm trọng và gây ra 
càng nhiều hậu quả nặng nề, cho chúng tôi gợi ý 
có khả năng IL-12 huyết thanh sẽ tăng cao ở 
những đối tượng bệnh nhân có thời gian mắc 
bệnh càng lâu. Tuy nhiên trong nghiên cứu của 
chúng tôi lại không tìm thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa, có thể vì chúng tôi chưa có khả năng đánh 
giá toàn diện IL-12 trong mô tổn thương bằng 
các phương pháp xét nghiệm khác và cỡ mẫu 
của chúng tôi chưa đủ lớn để tìm ra sự khác biệt. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận kết quả 
nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm 
bệnh nhân vảy nến là 10,07 (5,38-35,38) pg/ml, 
cao hơn so với nhóm người bình thường là 7,94 
(5,36-24,75) pg/ml. Kết quả này tương đương với 
nghiên cứu của Borska L. và các cộng sự(3) với 
nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm 
bệnh nhân là 30,9±5,4 pg/ml, nhóm người bình 
thường là 24,53±1,1 pg/ml. Khác với nghiên cứu 
của tác giả Sharon E. Jacob và các cộng sự(5) với 
nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình ở nhóm 
bệnh nhân là 8,5±1,2 pg/ml, thấp hơn so với 
nhóm người bình thường là 42,2±5,3 pg/ml. Điều 
này có thể do việc sử dụng hóa chất, các bộ kit 
đo lường khác nhau, cách chọn mẫu khác nhau 
giữa các nghiên cứu đã gây ra sự chênh lệch này. 
Nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình giữa 
nhóm người bình thường thấp hơn có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) so với nhóm bệnh nhân vảy 
nến thông thường và viêm khớp vảy nến. Kết 
quả này tương tự với nghiên cứu của Attalah và 
các cộng sự(2). Có thể do viêm khớp vảy nến là 
một thể lâm sàng nặng với những tổn thương và 
biến chứng ở khớp, do đó tại các khớp diễn ra 
quá trình viêm dữ dội dẫn đến nồng độ một số 
cytokine trong đó có IL-12 có thể tăng khá cao 
trong huyết thanh. Chúng tôi ghi nhận nồng độ 
IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm bệnh 
vảy nến đỏ da toàn thân thấp hơn so với nhóm 
người bình thường, mặc dù sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê (p=0,396), kết quả này 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 51
gợi ý về vai trò của những yếu tố cytokine khác 
trong sinh bệnh học vảy nến đỏ da toàn thân. 
Ngoài ra, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu 
nào khác có những so sánh tương tự nên chưa 
thể có dữ liệu để tiến hành đối chiếu. 
Nhóm bệnh nhân có mức độ bệnh nặng có 
nồng độ IL-12 huyết thanh cao nhất và thấp nhất 
là nhóm bệnh nhân có mức độ bệnh nhẹ, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,016). Nhóm 
bệnh nhân ở mức độ bệnh nặng có nồng độ IL-
12 huyết thanh cao hơn có ý nghĩa thống kê 
(p=0,006) so với nhóm bệnh nhân ở mức độ bệnh 
nhẹ và trung bình. Nghiên cứu của tác giả 
Attalah và các cộng sự cho kết quả tương tự 
nghiên cứu của chúng tôi(2). 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nồng độ 
IL-12 huyết thanh có mối tương quan thuận mức 
độ vừa với chỉ số PASI (rho=0,385 và p=0,003). 
Tương tự với kết quả nghiên cứu của Takahashi 
H. và các cộng sự(9) cũng ghi nhận mối tương 
quan thuận mức độ vừa (r=0,444 và p=0,0003), 
nghiên cứu của Ozer Arican và các cộng sự(1) 
cũng ghi nhận nồng độ IL-12 huyết thanh có mối 
tương quan thuận mức độ rất chặt chẽ (r=0,93 và 
p<0,05). Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho 
thấy không có mối tương quan giữa nồng độ IL-
12 huyết thanh và chỉ số PASI, như nghiên cứu 
của Aikaterini Kyriakou và các cộng sự(7) 
(rho=0,167 và p= 0,36) và nghiên cứu của Attalah 
và các cộng sự(2) (r= -0,11 và p>0,05). 
KẾT LUẬN 
Nồng độ IL-12 trong huyết thanh của bệnh 
nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người khỏe 
mạnh bình thường. Nhóm viêm khớp vảy nến 
có nồng độ IL-12 cao hơn so với nhóm vảy nến 
đỏ da toàn thân và vảy nến thông thường. Nồng 
độ IL-12 huyết thanh có mối tương quan thuận 
với chỉ số PASI. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arican O, al et (2005) "Serum Levels of TNF-α, IFN-γ, IL-6, IL-
8, IL-12, IL-17, and IL-18 in Patients With Active Psoriasis and 
Correlation With Disease Severity". Mediators of Inflammation. 
Hindawi Publishing Corporation, 273-279. 
2. Attallah DA, al et (2016) "Serum levels of IL-12 and IL-23 in 
psoriatic patients with or without concomitant hepatitis C: a 
comparative study". Journal of the Egyptant Women’s 
Dermatologic Society, 13 (2), 71-76. 
3. Borska L, al et (2008) "Serum levels of the pro-inflammatory 
cytokine interleukin-12 and the anti-inflammatory cytokine 
interleukin-10 in patients with psoriasis treated by the 
Goeckerman regimen". Int J Dermatol, 800-805. 
4. Gudjonsson EJ, Elder JT (2012) "Psoriasis". Fitzpatrick’s 
Dermatology in General Medicine 8th edition, McGraw-Hill, 197-
231. 
5. Jacob SE, al et (2003) "Simultaneous measurement of multiple 
Th1 and Th2 serum cytokines in psoriasis and correlation with 
disease severity". Mediators of Inflammation, 12 (5), 309-313. 
6. King-man HO (2010) "Psoriasis Medical Bulletin". The Hong 
Kong Medical Diary, 15 (5), 10-14. 
7. Kyriakou A, al et (2014) "Serum levels of TNF-α, IL-12/23p40, 
and IL-17 in plaque psoriasis and their correlation with 
disease severity". Journal of Immunology Research, 1-9. 
8. Patterson J. W (2016) "Psoriasis". Weedon’s Skin Pathology 4th 
edition., Churchill Livingstone, 82-89. 
9. Takahashi H, al et (2010) "Serum cytokines and growth factor 
levels in Japanese patients with psoriasis". Clin Exp Dermatol, 
35 (6), 645-649. 
10. Phạm Ngọc Trâm (2014) Nồng độ interleukin-17 trong huyết 
thanh bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ 
Chí Minh từ 01/10/2013 đến 30/04/2014, Luận văn thạc sĩ y học, 
Trường Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 
11. Yeilding N, al et (2011) "Development of the IL-12/23 
antagonist ustekinumab in psoriasis: past, present, and future 
perspectives". Ann NY Acad Sci, 1222, 30-39. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018 

File đính kèm:

  • pdfnong_do_interleukin_12_trong_huyet_thanh_va_moi_lien_quan_vo.pdf