Những yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật

Thực tế cho thấy, công tác tổ chức

THPL còn nhiều bất cập, hạn chế. Tình trạng

nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng

dẫn thi hành còn khá phổ biến; công tác rà

soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa chưa

được triển khai hiệu quả; đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác xây dựng pháp luật

chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cơ chế

phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong

xây dựng và tổ chức THPL chưa đồng bộ,

có lúc còn phân tán, có nơi còn cục bộ. Cơ

chế để Nhân dân tích cực tham gia vào các

hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát

THPL chưa được phát huy1. Do vậy, Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục đặt

mục tiêu đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật

gắn với tổ chức THPL2; bảo đảm pháp luật

vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,

vừa là công cụ để Nhân dân kiểm tra, giám

sát quyền lực nhà nước.

pdf 7 trang kimcuc 4900
Bạn đang xem tài liệu "Những yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật

Những yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật
NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA 
KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT 
Tóm tắt: 
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục đặt mục tiêu đẩy 
mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật. 
Xây dựng Luật về Tổ chức thi hành pháp luật theo hướng phát triển 
năng lực thực thi pháp luật của các chủ thể tổ chức thi hành pháp 
luật là một trong những giải pháp góp phần hoàn thiện thể chế về 
thực thi pháp luật nói chung, pháp luật công vụ nói riêng. 
Nguyễn Minh Phương*
Vũ Thị Thu Hằng**
* PGS. TS. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
** TS. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội 
Abstract 
The Resolution of the 12th Section Party continues an aim at 
boosting the completion of the law making associated with law 
enforcement. Development of the Law on Arrangement of Law 
Enforcement in the direction of building of law enforcement 
capacity of law enforcement entities as one of the solutions for 
institutional improvements of the law enforcement mechanism in 
general, civil laws in particular.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Thi hành pháp luật; ban hành 
pháp luật; bảo vệ pháp luật; hệ thống 
pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 24/07/2018
Biên tập : 07/08/2018
Duyệt bài : 14/08/2018
Article Infomation:
Keywords: Law enforcement; law 
issuance; legal protection; law system
Article History:
Received : 24 Jul. 2018
Edited : 07 Aug. 2018
Approved : 14 Aug. 2018
1. Sự cần thiết xây dựng Luật về Tổ chức 
thi hành pháp luật 
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ 
Chính trị khoá IX về Chiến lược xây dựng 
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 
đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ quan 
trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước là 
phải nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành 
pháp luật (THPL); đổi mới căn bản cơ chế 
xây dựng và thực hiện pháp luật, phát huy 
vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp 
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính 
trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây 
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. 
Sau gần 15 năm thực hiện Chiến lược 
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, 
công tác xây dựng và tổ chức THPL đã đạt 
được những kết quả nhất định. Hệ thống 
pháp luật ngày càng hoàn thiện, cơ bản thể 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
67Số 2+3(378+379) T1/2019
chế hoá kịp thời các chủ trương, đường lối 
của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến 
pháp. Quy trình xây dựng văn bản quy phạm 
pháp luật (VBQPPL) có nhiều đổi mới, tạo 
chuyển biến tích cực cả về chất lượng văn 
bản và kỹ thuật lập pháp. Công tác tổ chức 
THPL được mở rộng. Việc ban hành văn 
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành 
luật, pháp lệnh kịp thời hơn; công tác giám 
sát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật bước 
đầu có chuyển biến tích cực; công tác phổ 
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, trợ 
giúp pháp lý được triển khai đồng bộ hơn 
với nhiều hình thức phong phú đã góp phần 
nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp 
hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và 
Nhân dân.
Thực tế cho thấy, công tác tổ chức 
THPL còn nhiều bất cập, hạn chế. Tình trạng 
nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng 
dẫn thi hành còn khá phổ biến; công tác rà 
soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa chưa 
được triển khai hiệu quả; đội ngũ cán bộ, 
công chức làm công tác xây dựng pháp luật 
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cơ chế 
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong 
xây dựng và tổ chức THPL chưa đồng bộ, 
có lúc còn phân tán, có nơi còn cục bộ. Cơ 
chế để Nhân dân tích cực tham gia vào các 
hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát 
THPL chưa được phát huy1. Do vậy, Nghị 
quyết Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục đặt 
mục tiêu đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật 
gắn với tổ chức THPL2; bảo đảm pháp luật 
vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, 
vừa là công cụ để Nhân dân kiểm tra, giám 
sát quyền lực nhà nước. 
Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 
1 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ 
Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 
năm 2020
2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 
173 – 176.
26/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê 
duyệt đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả 
công tác tổ chức THPL” giai đoạn 2018-
2020 đề ra nhiệm vụ: “Nghiên cứu, xây 
dựng đề xuất chính sách phục vụ việc lập hồ 
sơ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật 
về Tổ chức THPL”. Đây là một trong những 
nhiệm vụ nhằm góp phần hoàn thiện thể chế 
về tổ chức thi hành và theo dõi THPL.
Nội hàm khái niệm THPL là tổ chức 
thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thi hành 
Hiến pháp và pháp luật; giải quyết khiểu nại, 
tố cáo và kiến nghị của công dân; ban hành 
văn bản pháp luật, kế hoạch triển khai thực 
hiện; phổ biến, giáo dục pháp luật; thanh tra, 
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. 
Tuy nhiên, những quy định về trách nhiệm, 
thẩm quyền, nội dung tổ chức THPL chỉ 
đạt được hiệu quả nếu các chủ thể có thẩm 
quyền, trách nhiệm tổ chức THPL có năng 
lực thực thi pháp luật. Do vậy, xây dựng 
Luật Tổ chức THPL cần hướng tới phát triển 
năng lực thực thi pháp luật của các chủ thể 
tổ chức THPL trên các phương diện: 1) quy 
định về trách nhiệm đánh giá và phản ứng 
chính sách của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, 
công chức trong THPL; 2) quy định cơ chế 
phối hợp giữa cơ quan ban hành pháp luật, 
cơ quan tổ chức THPL và cơ quan bảo vệ 
pháp luật; 3) quy định trách nhiệm giải trình 
của các chủ thể tổ chức THPL; 4) hình thành 
cơ chế pháp lý xem xét, xử lý đối với những 
vi phạm trong quá trình tổ chức THPL.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong 
hoàn thiện thể chế góp phần nâng cao năng 
lực thực thi pháp luật công vụ. Bởi lẽ, khi 
hoạt động công vụ được hiểu theo nghĩa 
rộng là hoạt động mang tính quyền lực - 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
68 Số 2+3(378+379) T1/2019
pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, 
công chức nhà nước hoặc những người khác 
được Nhà nước trao quyền nhằm thực hiện 
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước 
trong quá trình quản lý các hoạt động của 
đời sống xã hội thì pháp luật về công vụ là 
toàn bộ hệ thống pháp luật; đội ngũ thực thi 
pháp luật công vụ chính là các chủ thể tổ 
chức THPL. Do vậy, Luật Tổ chức THPL là 
một trong những cơ chế bảo đảm cho việc 
nâng cao năng lực thực thi pháp luật công 
vụ, hiệu quả thực thi pháp luật công vụ trong 
giai đoạn hiện nay. 
2. Một số yêu cầu cơ bản của Luật Tổ 
chức thi hành pháp luật 
Thứ nhất, quy định nghĩa vụ và trách 
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, 
công chức trong đánh giá và phản ứng chính 
sách khi THPL. 
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 
14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết 
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban 
hành VBQPPL đã có các quy định về xây 
dựng nội dung của chính sách, đánh giá tác 
động của chính sách, phương pháp đánh 
giá tác động của chính sách. Tuy nhiên, đây 
chủ yếu là những quy định về chính sách 
trong xây dựng VBQPPL. Trong khi đó, cơ 
chế đánh giá tác động của chính sách trong 
VBQPPL cần được thực hiện và bảo đảm 
tính kết nối trong cả ba giai đoạn: đề xuất 
ban hành, soạn thảo và tổ chức thực hiện. 
Trong thực thi pháp luật về công vụ, 
đánh giá chính sách là nhiệm vụ rất quan 
trọng của các chủ thể thực thi pháp luật công 
vụ. Sau nhiều năm thực hiện cải cách nền 
hành chính nhà nước, nhiều chính sách đẩy 
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức 
cần phải được đánh giá như: chính sách 
giảm quy mô công vụ, tinh giản biên chế; 
3 Điều 7 Nghị định 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL. 
4 Điều 8 Nghị định 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL. 
chính sách đối với người có tài năng; chính 
sách đánh giá công chức; chính sách tiền 
lương, bảo hiểm xã hội Đây là hệ thống 
các chính sách được đề ra trong triển khai 
thực thi Luật Cán bộ, công chức năm 2008, 
Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 
của Chính phủ ban hành Chương trình tổng 
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 
2011 - 2020, Quyết định số 1557/QĐ-TTg 
ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ 
công vụ, công chức” giai đoạn 2012 - 2015. 
Tuy nhiên, những chính sách này chưa được 
tổng kết và đánh giá cụ thể làm cơ sở cho 
việc xây dựng các chính sách công vụ trong 
giai đoạn tiếp theo. 
Theo quy định của Nghị định số 
59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính 
phủ quy định về theo dõi tình hình THPL, 
trong quá trình theo dõi THPL, các bộ, cơ 
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, 
Uỷ ban nhân dân các cấp theo dõi tình hình 
THPL phải xem xét, đánh giá trên ba nội 
dung cơ bản: 1) Tình hình ban hành văn bản 
quy định chi tiết thi hành VBQPPL; 2) Tình 
hình bảo đảm các điều kiện cho THPL; (3) 
Tình hình tuân thủ pháp luật3. Mặc dù khi 
xem xét, đánh giá tình hình văn bản quy 
định chi tiết thi hành VBQPPL, Nghị định 
số 59/2012/NĐ-CP đã đặt ra yêu cầu về nội 
dung đánh giá bao gồm: tính kịp thời, đầy 
đủ của việc ban hành văn bản quy định chi 
tiết; tính thống nhất, đồng bộ; tính khả thi 
của văn bản4, tuy nhiên, Nghị định chưa quy 
định trách nhiệm đánh giá tính khả thi chính 
sách của văn bản pháp luật. Theo chúng tôi, 
cần phân biệt nhiệm vụ đánh giá tính khả thi 
của văn bản và tính khả thi của chính sách. 
Một chính sách có thể rất khả thi nhưng do 
kỹ thuật chuyển tải chính sách trong văn bản 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
69Số 2+3(378+379) T1/2019
pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu dẫn đến hiệu 
lực, hiệu quả của văn bản thấp hoặc ngược 
lại, văn bản được bảo đảm hiệu lực thi hành 
nhưng chính sách chưa phù hợp, chưa đáp 
ứng yêu cầu của cuộc sống. Do vậy, Luật 
Tổ chức THPL cần quan tâm đến biện pháp 
nâng cao năng lực thực thi pháp luật thông 
qua những quy định cụ thể về trách nhiệm 
đánh giá chính sách của các chủ thể tổ chức 
thực thi.
 Những quy định của Luật Tổ chức 
THPL phải thúc đẩy năng lực thu thập thông 
tin, năng lực phân tích thông tin và đưa ra 
sự đánh giá. Năng lực thu thập thông tin, 
phân tích thông tin là những năng lực quan 
trọng nhất giúp các chủ thể thực thi pháp 
luật hoàn thành việc nâng cao năng lực đánh 
thực thi pháp luật. Đây cũng chính là những 
giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng 
cao năng lực đề xuất và xây dựng chính sách 
của Chính phủ trong thực thi pháp luật nói 
chung và pháp luật về công vụ nói riêng. 
Năng lực đánh giá chính sách và năng 
lực phản ứng chính sách luôn là những yêu 
cầu cần thiết mang tính song hành trong 
tổ chức THPL. Đề án “Đổi mới, nâng cao 
hiệu quả công tác tổ chức THPL”giai đoạn 
2018 - 2022 đã đặt ra yêu cầu về việc xác lập 
quy trình tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản 
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình 
hình THPL một cách thống nhất từ trung 
ương đến địa phương. Do vậy, Luật Tổ chức 
THPL cần dành một chương quy định về 
quy trình tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản 
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình 
hình THPL bởi đây là cơ chế rất quan trọng 
giúp thực hiện quyền hiến định của Nhân 
dân (quyền tham gia quản lý nhà nước và 
xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với 
cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, 
địa phương và cả nước) và là một cơ chế 
để Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. 
Cơ chế tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản 
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình 
hình THPL phải công khai, minh bạch. Luật 
Tổ chức THPL phải quy định rõ quy trình 
tiếp nhận kiến nghị, phản ánh về tình hình 
THPL; quy trình xử lý kiến nghị, phản hồi 
ý kiến; những yêu cầu trong năng lực, hành 
vi của cán bộ, công chức khi thực thi công 
vụ và đặc biệt là phải quan tâm đến việc quy 
định trách nhiệm của Bộ trưởng, người đứng 
đầu các cơ quan trong việc xử lý theo thẩm 
quyền các phản ánh, kiến nghị của cơ quan, 
tổ chức, cá nhân và quy chế phối hợp giữa 
Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phản ứng chính 
sách, tổ chức THPL đối với những vụ việc 
có tính chất phức tạp, liên ngành. Đồng thời 
qua đó gắn kết những yêu cầu, phản ánh, 
kiến nghị về THPL với quá trình xây dựng, 
hoàn thiện pháp luật. 
Thứ hai, quy định cơ chế phối hợp 
giữa cơ quan ban hành pháp luật, cơ quan 
tổ chức THPL và cơ quan bảo vệ pháp luật. 
Thước đo hiệu lực, hiệu quả của công 
tác thực thi pháp luật bao gồm nhiều tiêu chí 
khác nhau như: chất lượng VBQPPL, kết 
quả tác động của văn bản đến các quan hệ 
xã hội được điều chỉnh, chi phí trong hoạt 
động xây dựng, ban hành, tổ chức và giám 
sát thực hiện. Do vậy, cơ chế phối hợp giữa 
cơ quan ban hành, cơ quan tổ chức THPL 
và cơ quan bảo vệ pháp luật có vai trò rất 
quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của pháp 
luật. Mục tiêu của hoạt động tổ chức thực thi 
pháp luật là phải đo lường, đánh giá được 
tác động của văn bản pháp luật trên cả hai 
mặt: tích cực và tiêu cực; những thuận lợi, 
khó khăn trong quá trình tổ chức thực thi 
pháp luật, để từ đó sớm có những đề xuất 
với cơ quan ban hành pháp luật điều chỉnh 
chính sách, pháp luật kịp thời. 
Trong thực thi pháp luật về công vụ, 
cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa Quốc 
hội và Chính phủ theo hướng kết quả hoạt 
động giám sát của Quốc hội đối với hoạt 
động tổ chức THPL về công vụ là cơ sở để 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
70 Số 2+3(378+379) T1/2019
thẩm định, thẩm tra những chính sách công 
vụ mới do Chính phủ trình. Tiêu chí xem xét 
trạng thái của các quan hệ xã hội trước và 
sau khi có sự điều chỉnh của hệ thống pháp 
luật về công vụ phải được coi là tiêu chí 
quan trọng nhất khi đo lường tính hiệu lực, 
hiệu quả của hoạt động ban hành pháp luật 
về công vụ. Do đó, báo cáo về kết quả giám 
sát thực hiện pháp luật công vụ cần phải 
xem xét được được tiến hành thẩm tra kỹ 
lưỡng để trở thành cơ sở quan trọng cho hoạt 
động xây dựng và ban hành pháp luật công 
vụ. Thêm vào đó, cần nghiên cứu vai trò, cơ 
chế phối hợp của Toà án trong việc đề nghị 
xem xét tính hợp pháp, tính hợp lý của các 
VBQPPL khi quy định của các VBQPPL đó 
được áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ 
thể tại Toà án, trên cơ sở đề nghị của Toà án 
với tư cách là chủ thể có thẩm quyền tổ chức 
THPL, Quốc hội thực hiện quyền giám sát 
tối cao. Như vậy, Luật Tổ chức THPL cần 
ghi nhận quyền kiến nghị giám sát của các 
chủ thể tổ chức THPL trong mối tương quan 
với Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 
và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015. 
Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm giải 
trình của các chủ thể tổ chức THPL làm 
cơ sở cho cơ chế giải trình của các chủ thể 
THPL trên mọi lĩnh vực, trong đó có pháp 
luật về công vụ. 
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 
và HĐND năm 2015 đã có những quy định 
về cơ chế giải trình trước Quốc hội, trong 
đó có cơ chế giải trình tại Hội đồng Dân tộc 
và các Uỷ ban của Quốc hội. Theo đó, Hội 
đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền 
yêu cầu thành viên Chính phủ giải trình về 
những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân 
tộc, Uỷ ban của Quốc hội phụ trách. Sau 
phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban 
của Quốc hội xem xét, thông qua kết luận về 
5 Điều 43 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015. 
vấn đề được giải trình. Cơ quan, cá nhân có 
liên quan có trách nhiệm thực hiện kết luận 
của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc 
hội; trường hợp không thực hiện hoặc thực 
hiện không đầy đủ thì Hội đồng Dân tộc, Uỷ 
ban của Quốc hội báo cáo Uỷ ban thường vụ 
Quốc hội (UBTVQH) xem xét, quyết định5
Tuy nhiên, cơ chế giải trình trước 
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội là cơ 
chế giải trình trong hoạt động giám sát tối 
cao của Quốc hội. Luật Tổ chức THPL cần 
xây dựng cơ chế giải trình tổ chức thực thi 
pháp luật trong hoạt động giám sát của Nhân 
dân; cơ chế phản hồi ý kiến đóng góp của 
Nhân dân đối với hoạt động tổ chức THPL 
của Chính phủ, các bộ, ngành và chính 
quyền địa phương.
Theo quy định của Hiến pháp năm 
2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, 
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ 
trưởng cơ quan ngang bộ phải thực hiện chế 
độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn 
đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý. 
Tổ chức THPL là một trong những nhiệm 
vụ rất quan trọng của quyền hành pháp. Khi 
thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ cần 
có cơ chế giải trình trước Nhân dân nhằm 
bảo đảm sự kiểm soát của Nhân dân đối với 
hoạt động của các cơ quan tổ chức THPL. 
Nội dung giải trình phải tập trung làm rõ 
tình hình ban hành văn bản quy định chi 
tiết thi hành VBQPPL (tính kịp thời, thống 
nhất, đồng bộ); tình hình tuân thủ pháp luật 
của các chủ thể tổ chức thi hành và các đối 
tượng thi hành; đánh giá về tính khả thi của 
các VBQPPL được tổ chức thi hành; các giải 
pháp khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật 
trong công tác tổ chức thi hành. Trên cơ sở 
đó, xây dựng quy trình để Nhân dân có thể 
thực hiện được quyền bãi nhiệm đại biểu 
Quốc hội đã được Hiến pháp quy định.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
71Số 2+3(378+379) T1/2019
Thứ tư, quy định khung tiêu chí đánh 
giá năng lực thực thi pháp luật về công vụ 
của đội ngũ cán bộ, công chức
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2025 
xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp 
ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và 
khung năng lực theo quy định, một trong 
năm đột phá phải thực hiện là đổi mới công 
tác đánh giá theo hướng: xuyên suốt, liên 
tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản 
phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả 
và so sánh với chức danh tương đương. Đây 
chính là định hướng quan trọng cho việc xây 
dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức 
nói chung và cán bộ, công chức thực thi 
pháp luật công vụ nói riêng trong giai đoạn 
từ năm 2020 đến năm 2030. 
Căn cứ tiêu chuẩn chức vụ, chức danh, 
tiêu chuẩn ngạch công chức, chức vụ lãnh 
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức 
làm công tác tổ chức thi hành và theo dõi 
THPL, Luật Tổ chức THPL có thể xác định 
những tiêu chí cơ bản trong đánh giá năng 
lực tổ chức thi hành và theo dõi THPL để 
các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng cán 
bộ, công chức xây dựng tiêu chí cụ thể để 
đánh giá năng lực tổ chức THPL của cán bộ, 
công chức. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ xây 
dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng lực tổ 
chức THPL công vụ của cán bộ, công chức 
trên 04 lĩnh vực cơ bản: 1) Năng lực đánh giá 
chính và phản ứng chính sách về công vụ; 2) 
Năng lực soạn thảo văn bản pháp luật điều 
chỉnh quan hệ công vụ bảo đảm tính hợp 
hiến, hợp pháp; 3) Trách nhiệm giải trình; 
4) Năng lực rà soát, kiểm tra, đánh giá tình 
hình THPL công vụ. Từ đó, bổ sung các tiêu 
chí đánh giá năng lực tổ chức THPL công 
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được giao 
nhiệm vụ tổ chức và theo dõi THPL công vụ. 
Xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng 
lực thực thi pháp luật công vụ của đội ngũ cán 
bộ, công chức sẽ là một trong những giải pháp 
góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về đổi 
mới công tác đánh giá cán bộ, công chức; nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức 
THPL; thông qua đó nghiên cứu, xây dựng các 
tiêu chí cụ thể, định lượng để xác định được 
mức độ thực thi pháp luật, cũng như đánh giá 
được chính xác, toàn diện hiệu quả, tác động 
của VBQPPL trong thực tiễn. 
Thứ năm, quy định cơ chế pháp lý xem 
xét, xử lý đối với những vi phạm trong quá 
trình tổ chức THPL. 
Cơ chế xem xét, xử lý vi phạm pháp 
luật trong quá trình tổ chức THPL được tiếp 
cận điều chỉnh ở hai góc độ: xử lý vi phạm 
pháp luật đối với chủ thể tổ chức THPL và 
xử lý vi phạm pháp luật đối với những hành 
vi phạm được phát hiện trong quá trình quản 
lý, tổ chức THPL.
Đối với cơ chế xử lý vi phạm đối với 
chủ thể tổ chức THPL, Luật Tổ chức THPL 
cần quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền 
hạn tổ chức THPL của Chính phủ và chính 
quyền địa phương các cấp làm cơ sở cho 
việc xem xét, đánh giá hành vi vi phạm pháp 
luật của các chủ thể. Đồng thời xác định rõ 
cơ chế xử lý vi phạm đối với từng hành vi đó 
(thông qua hậu quả pháp lý trong hoạt động 
giám sát tối cao của Quốc hội hay hoạt động 
tài phán hành chính). 
Theo quy định của pháp luật hiện hành, 
Chính phủ có trách nhiệm ban hành kịp thời 
và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành 
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, 
pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, 
quyết định của Chủ tịch nước và để thực 
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo 
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống 
nhất trong các VBQPPL của Chính phủ, Thủ 
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng 
cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa 
phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản 
đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và 
pháp luật; tổng hợp đánh giá tình hình thi 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
72 Số 2+3(378+379) T1/2019
hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo Quốc 
hội, UBTVQH, Chủ tịch nước theo quy định 
của pháp luật6. Chính quyền địa phương ở 
các cấp đơn vị hành chính có trách nhiệm tổ 
chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và 
pháp luật trên địa bàn7. 
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ tổ 
chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, cơ 
chế xem xét, đánh giá hành vi của các chủ 
thể tổ chức THPL chủ yếu được thực hiện 
thông qua cơ chế giám sát của Quốc hội và 
HĐND với các hình thức như: xem xét báo 
cáo hoạt động, chất vấn và yêu cầu trả lời 
chất vấn, xem xét đình chỉ, bãi bỏ văn bản 
trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh, thành lập 
Uỷ ban lâm thời điều tra, tổ chức đoàn giám 
sát Kết quả của hoạt động giám sát sẽ 
đánh giá cụ thể về kết quả thực hiện nhiệm 
vụ; trách nhiệm của chủ thể tổ chức THPL, 
các vấn đề còn tồn tại, biện pháp giải quyết. 
Từ đó Quốc hội và HĐND sẽ yêu cầu chủ 
thể tổ chức THPL tiếp tục thực hiện các kết 
luận giám sát. Tuy nhiên, Luật Hoạt động 
6 Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
7 Điều 17, 24, 31 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
giám sát của Quốc hội và HĐND chưa thực 
sự xây dựng được cơ chế kết nối giữa hậu 
quả pháp lý của hoạt động giám sát với cơ 
chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với đối tượng 
giám sát. 
Luật Tổ chức THPL cần phải tính đến 
cơ chế này. Hoàn thiện thể chế về tổ chức 
THPL không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ quy 
định rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền, 
nội dung tổ chức THPL mà cần tiếp tục hoàn 
thiện mạnh mẽ cơ chế xử lý vi phạm trong 
quá trình tổ chức THPL, đặc biệt xác định 
rõ trách nhiệm và chế độ tín nhiệm đối với 
người đứng đầu các ngành, lĩnh vực và địa 
phương để góp phần khắc phục những hạn 
chế về năng lực tổ chức THPL của các cơ 
quan, tổ chức, cá nhân.
Ngoài ra, Luật Tổ chức THPL cần hình 
thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện 
quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục 
tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng 
được phát hiện trong quá trình quản lý, tổ 
chức THPL. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị 
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt 
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
2. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 về Tổng kết công tác tư pháp năm 2017 và phương 
hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2008. 
3. Chính phủ (2012), Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
5. Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
6. Thủ tướng Chính phủ (2012); Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải 
cách chế độ công vụ, công chức”. 
7. Thủ tướng Chính phủ (2016); Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt kế hoạch cải cách hành 
chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020.
8. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 26/02/2018 phê duyệt đề án “Đổi mới, nâng cao 
hiệu quả công tác tổ chức THPL” giai đoạn 2018-2020.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
73Số 2+3(378+379) T1/2019

File đính kèm:

  • pdfnhung_yeu_cau_dat_ra_khi_xay_dung_luat_ve_to_chuc_thi_hanh_p.pdf