Những quan điểm cơ bản của chủ ngh Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân

Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân từ lâu đã trở thành

nguồn sức mạnh vô cùng quý báu làm nên những thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên, bên

cạnh những thắng lợi đạt được, những hạn chế, yếu kém trong mối quan hệ giữa Đảng với

quần chúng nhân dân cũng đang bộc lộ rõ rệt. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất

nước hiện nay, để giữ vững và phát huy sức mạnh của mối quan hệ này cần thiết phải nhận

thức, thực hiện và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân.

pdf 11 trang kimcuc 10520
Bạn đang xem tài liệu "Những quan điểm cơ bản của chủ ngh Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những quan điểm cơ bản của chủ ngh Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân

Những quan điểm cơ bản của chủ ngh Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
12 
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGH A M C - LÊNIN, 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ 
GIỮA ĐẢNG VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN 
THE BASIC CONCEPTS OF MARXISM, HO CHI MINH THOUGHT 
ABOUT THE RELATIONSHIP BETWEEN THE PARTY AND THE PEOPLE 
VŨ THỊ THU HUYỀN 
 ThS. Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức, vuhuyen@tdc.edu.vn, Mã số: TCKH09-27-2018 
TÓM TẮT: Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân từ lâu đã trở thành 
nguồn sức mạnh vô cùng quý báu làm nên những thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên, bên 
cạnh những thắng lợi đạt được, những hạn chế, yếu kém trong mối quan hệ giữa Đảng với 
quần chúng nhân dân cũng đang bộc lộ rõ rệt. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất 
nước hiện nay, để giữ vững và phát huy sức mạnh của mối quan hệ này cần thiết phải nhận 
thức, thực hiện và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. 
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Đảng với 
quần chúng nhân dân. 
ABSTRACT: The close relationship between the Party and the people has long been a 
source of great power to make the victory of the revolution. However, besides the 
achievements, weaknesses in the relationship between the Party and the people are also 
clear. In order to maintain and promote the strength of this relationship, it is necessary to 
recognize, implement and develop the ideas of Marxism-Leninism, Ho Chi Minh thought 
on the relationship between the Party and the people. 
Key words: Marxism – Leninism ideas, Ho Chi Minh Thought, the relationship between the 
Party and the people. 
1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ 
NGH A M C - LÊNIN VỀ MỐI QUAN 
HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI QUẦN CHÚNG 
NHÂN DÂN 
Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác, 
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công 
nhân, Đảng luôn đứng vững trên lập trường 
của giai cấp công nhân và mọi chủ trương, 
chính sách của Đảng đều xuất phát từ lợi 
ích của giai cấp công nhân. Mặc dù, trong 
xã hội giai cấp công nhân là giai cấp cách 
mạng nhất, tiên tiến nhất nhưng giai cấp 
công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ 
mệnh lịch sử của mình khi tự tổ chức ra 
được chính đảng độc lập của nó. Chính 
Ph. Ăngghen đã viết rằng: “Để cho giai cấp 
công nhân có đủ sức mạnh và có thể chiến 
thắng trong giờ phút quyết định thì điều 
cần thiết là C. Mác và tôi đã bảo vệ quan 
điểm này từ năm 1847 - phải tổ chức được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
13 
một đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các 
đảng khác và đối lập với các đảng đó, nhận 
thức rõ mình là đảng của giai cấp” [2, tr.35]. 
Rõ ràng, trong quan điểm của chủ nghĩa 
Mác, giai cấp công nhân muốn thắng lợi, 
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình 
để bước lên vũ đài chiến thắng thì nhất thiết 
phải có Đảng ra đời và lãnh đạo. Tuy 
nhiên, Đảng cũng không chỉ là đại biểu duy 
nhất cho quyền lợi giai cấp công nhân mà 
còn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể 
nhân dân lao động. Bởi một lẽ giai cấp 
công nhân chỉ có thể tự giải phóng được 
mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng 
lớp nhân dân lao động khác trong xã hội 
thoát khỏi áp bức bóc lột. Từ đó, cho thấy 
tự bản thân giai cấp công nhân, nhân dân 
lao động và Đảng có mối liên hệ chặt chẽ 
với nhau. 
Những tư tưởng thiên tài của C.Mác và 
Ph.Ăngghen về mối quan hệ biện chứng 
giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động đã có ý nghĩa lớn lao đối với 
sự phát triển của toàn bộ phong trào cộng 
sản và công nhân quốc tế, góp phần to lớn 
vào sự phát triển phong trào cách mạng với 
hàng loạt những thắng lợi vĩ đại của các 
cuộc cách mạng vô sản sau này. 
Dựa trên nền tảng quan điểm của chủ 
nghĩa Mác, Lênin đã phát triển tư tưởng 
của Mác - Ph.Ăngghen về mối quan hệ 
giữa Đảng và quần chúng. Ông cho rằng, 
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. 
Đảng là tổ chức tự nguyện đấu tranh vì sự 
nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp 
bức và bóc lột. Quần chúng cũng cần có 
Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ 
trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu không có sự 
ủng hộ, đồng tình của quần chúng thì mọi 
chủ trương, đường lối của Đảng không bao 
giờ trở thành hiện thực. Do đó, các chính 
đảng nói chung, các đảng cộng sản nói 
riêng phải biết dựa vào sức mạnh của quần 
chúng, phải biết tập hợp, lãnh đạo quần 
chúng. V.I. Lênin cũng thường xuyên nhấn 
mạnh: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ 
mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự 
ủng hộ đồng tình của quần chúng đối với 
Đảng. Thiếu điều kiện đó, không những 
không thể xây dựng thành công chủ nghĩa 
xã hội mà nguy cơ lớn hơn đó là mất chính 
quyền. Từ thực tiễn lịch sử, Lênin chỉ rõ: 
“Chúng ta có thể rút ra kết luận quan trọng 
nhất đối với chúng ta, kết luận mà chúng ta 
phải lấy làm kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt 
động của mình, tức là: xét về mặt lịch sử, 
giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng 
nhân dân thì giai cấp đó sẽ chiến thắng” 
[1, tr.395]. Với quan điểm này Lênin cho 
rằng, để giành thắng lợi trong cuộc đấu 
tranh với giai cấp tư sản, lật đổ chế độ tư 
bản, xây dựng chế độ xã hội mới, các đảng 
cộng sản phải liên hệ, gắn bó mật thiết với 
quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh 
to lớn của quần chúng nhân dân, tổ chức và 
lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cách 
mạng. Người cho rằng, “Sức mạnh của tập 
quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người 
là một sức mạnh ghê gớm nhất. Không có 
một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu 
tranh, không có một đảng được sự tín 
nhiệm của tất cả những phần tử trung thực 
trong giai cấp nói trên, không có một đảng 
biết nhận xét tâm trạng quần chúng và biết 
tác động vào tâm trạng đó thì không thể 
tiến hành thắng lợi của cuộc đấu tranh ấy 
được” [3, tr.33-34]; “Không có sự đồng 
tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
14 
động đối với đội tiên phong của mình, tức 
là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô 
sản không thể thực hiện được” [1, tr.251]. 
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một sự 
nghiệp to lớn, lâu dài, có nhiều khó khăn, 
gian khổ, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh 
trí lực của toàn Đảng, toàn dân. Sự nghiệp 
đó không phải là của riêng những người 
cộng sản. Vì những người cộng sản chỉ như 
“những giọt nước trong đại dương” nhân 
dân. Nếu chỉ dựa vào sức mạnh của mình, 
giai cấp vô sản sẽ không thể giành thắng 
lợi, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
chủ nghĩa cộng sản sẽ không trở thành hiện 
thực. Xuất phát từ tính tất yếu đó, Lênin đã 
cảnh báo những người cộng sản rằng, “Một 
trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ 
nhất là cắt đứt liên hệ với quần chúng” [4, 
tr.426]. Người nhấn mạnh,“Đội tiên phong 
chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó 
biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo 
và thực sự dẫn dắt quần chúng tiến lên. 
Nếu không liên minh với những người 
không phải là đảng viên cộng sản trong các 
lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì 
không thể nói tới một thành công nào trong 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản 
cả” [1, tr.28-29]. 
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã 
nêu những luận điểm quan trọng về vai trò 
của quần chúng nhân dân và lý giải sự cần 
thiết phải xây dựng mối quan hệ giữa Đảng 
với giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động. Quan điểm này của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, đã được Hồ Chí Minh vận dụng và 
phát triển sáng tạo, hoàn toàn phù hợp với 
hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt 
Nam và cũng là cơ sở để Người khẳng định 
chắc chắn: nếu có một đảng chân chính để 
tập hợp tổ chức, lãnh đạo thì nhất định 
nhân dân ta có thể tự mình đánh đổ ách 
thống trị của thực dân đế quốc, giành lại 
độc lập tự do cho đất nước, mang lại hạnh 
phúc cho nhân dân. Từ đó, mở ra quan hệ 
hiện thực giữa Đảng Cộng sản Việt Nam 
với quần chúng nhân dân trong cách mạng 
Việt Nam. 
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ 
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI 
QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN 
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng 
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin 
về vai trò của quần chúng nhân dân, Hồ 
Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về 
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng 
nhân dân. Trong tư tưởng của Người, mối 
quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân 
dân được thể hiện ở những luận điểm sau: 
Thứ nhất, giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp đem lại hạnh phúc cho 
nhân dân là mục tiêu và sứ mệnh lịch sử 
của Đảng 
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng, 
Hồ Chí Minh sớm nhận thức sâu sắc rằng, 
Đảng ra đời không chỉ thuần túy là sản 
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - 
Lênin với phong trào công nhân, mà là sản 
phẩm của sự kết hợp hai nhân tố trên với 
phong trào yêu nước. Hơn nữa, Đảng 
không chỉ tập hợp trong đội ngũ của mình 
những phần tử ưu tú của giai cấp công nhân 
mà cả những phần tử ưu tú xuất thân từ các 
giai tầng lao động tự nguyện phấn đấu cho 
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Do đó, lợi ích 
của giai cấp công nhân, của Đảng với lợi 
ích của dân tộc là thống nhất và Đảng 
không chỉ đấu tranh và mưu cầu hạnh phúc 
cho giai cấp công nhân mà cho toàn thể 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
15 
nhân dân lao động, cho toàn thể dân tộc. 
Đây là tư tưởng nhất quán của Người từ khi 
Đảng chưa giành được chính quyền cho 
đến khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, 
có nhà nước cách mạng làm công cụ, đấu 
tranh xây dựng bảo vệ chế độ xã hội mới. 
Trên nền tảng tư tưởng của Người, 
Đảng ngay từ khi mới ra đời đã không 
ngừng đấu tranh cho nền độc lập, tự do, 
hạnh phúc của nhân dân. Toàn bộ nghị lực 
của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy sinh của 
các thế hệ đảng viên đều hướng vào mục 
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân 
dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho 
nhân dân. Ngoài mục tiêu đó, Đảng không 
có mục tiêu nào khác. Không chỉ hướng tới 
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng 
giai cấp đem lại độc lập, tự do cho nhân 
dân mà Đảng còn luôn chăm lo đến nhu 
cầu, lợi ích để có thể đem lại hạnh phúc 
nhiều nhất cho nhân dân. Điều này đã được 
xác định ngay khi Đảng được thành lập, mà 
từ lâu Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng ta 
là người đại diện trung thành cho lợi ích 
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao 
động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong 
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc Người viết: 
“lợi ích của dân tộc, gồm có lợi ích của 
Đảng” [5, tr.293], “...lợi ích của Đảng tức là 
lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc” [5, tr.290], 
“ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì 
Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên 
Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh 
đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và 
để nâng cao sinh hoạt văn hóa, chính trị 
của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng 
tức là Đảng được giải phóng” [5, tr.290]. 
Do đó, việc gì có lợi cho dân, ta phải hết 
sức làm; việc gì hại đến dân ta phải hết sức 
tránh; mọi công việc đều vì đều lợi ích của 
dân mà làm. “Tất cả đường lối, phương 
châm, chính sách của Đảng đều chỉ 
nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói 
chung” [10, tr.9]. 
Như vậy, nói theo cách khái quát thì 
Người coi nhân dân chính là động lực, mục 
đích của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng 
xuất phát từ nhân dân, đem lại lợi ích thiết 
thực về mọi mặt cho nhân dân. Tính mục 
đích ấy chi phối đến toàn bộ sự hoạt động 
của Đảng và cũng trở thành nền tảng vững 
chắc tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa 
Đảng với quần chúng nhân dân không gì 
phá vỡ được, cản trở được trong sự nghiệp 
cách mạng của dân tộc. 
Thứ hai, Đảng Cộng sản là người 
lãnh đạo và tổ chức quần chúng nhân dân 
thực hiện sự nghiệp cách mạng giải phóng 
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
Việt Nam 
Trong mối quan hệ với quần chúng 
nhân dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, còn 
quần chúng nhân dân là đối tượng chịu sự 
lãnh đạo đó. Đảng Cộng sản Việt Nam có 
vai trò là người lãnh đạo và tổ chức quần 
chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân 
giàu nước mạnh. 
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của 
quần chúng nhân dân, do quần chúng nhân 
dân quyết định. Nhưng sự nghiệp cách 
mạng ấy chỉ có thể thực hiện được khi có 
Đảng dẫn đường, Đảng lãnh đạo, Đảng giác 
ngộ lý tưởng cộng sản cho quần chúng 
nhân dân. Ở đó cả trong sự nghiệp cách 
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã 
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đều thể hiện rất 
rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
16 
chúng nhân dân. Đảng là nhân tố thúc đẩy, 
phát huy, và nhân lên sức mạnh của quần 
chúng, làm tăng hiệu quả hoạt động của 
quần chúng. 
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần 
chúng nhân dân, được thể hiện ở chỗ Đảng 
hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn 
để định hướng phong trào hoạt động của 
quần chúng nhân dân. 
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quần 
chúng nhân dân trước hết và cao nhất được 
thể hiện thông qua các chủ trương, chính 
sách, đường lối của Đảng. 
Là một nhà chiến lược, nhà tổ chức, 
nhà hoạt động dân vận bậc thầy, Hồ Chí 
Minh hiểu rõ cơ sở của sự đoàn kết, của 
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng 
nhân dân chính là vì mục tiêu của Đảng 
cũng là mục tiêu của dân tộc. Do vậy 
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng 
phải phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng, 
lợi ích của nhân dân, thì sẽ có khả năng đi 
vào cuộc sống và được quần chúng nhân 
dân hưởng ứng, tích cực tham gia thực 
hiện. Còn nếu những chủ trương, chính 
sách không phản ánh kịp thời, đúng đắn, 
không xuất phát từ lợi ích chính đáng, 
không vì hạnh phúc của nhân dân, hơn nữa 
còn đi ngược lại với nguyện vọng chân 
chính của nhân dân thì sẽ sai lầm, không 
bao giờ được quần chúng nhân dân ủng hộ. 
Nhân dân chỉ tin và đi theo Đảng làm 
cách mạng khi thấy lợi ích của mình được 
thực sự đem lại. Là đại biểu cho lợi ích của 
giai cấp và của nhân dân, Đảng phải hết 
lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân 
dân, từ đó được nhân dân gửi gắm niềm tin 
yêu kính phục; cũng nhờ đó mà Đảng xác 
lập được chỗ đứng vững chắc trong lòng 
dân tộc. Điều đó đòi hỏi mọi quyết sách 
của Đảng phải được xuất phát từ lợi ích của 
nhân dân và bằng thực tiễn hoạt động của 
mình, phục vụ nhân dân. Nói cách khác, 
nhân dân là đối tượng phục vụ của Đảng; 
phục vụ lợi ích của nhân dân là mục đích 
tôn chỉ của Đảng. “Đảng không phải là một 
tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm 
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc 
giàu mạnh, đồng bào sung sướng” [5, tr.289]. 
Muốn vậy, đường lối, chủ trương của 
Đảng phải đứng vững trên quan điểm của 
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng phải sâu sát 
quần chúng, phản ánh đúng tâm tư nguyện 
vọng của quần chúng. Chính sách của 
Đảng và chính phủ, các cơ quan và cán bộ 
của Đảng và Chính phủ, từ trên xuống dưới 
đều phải có trách nhiệm “hết sức chăm lo 
đến đời sống của nhân dân” và Người nói 
rất cụ thể về trách nhiệm này, “Hễ còn một 
người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì 
Đảng vẫn đau thương cho đó là vì mình 
chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên, Đảng 
vừa phải lo tính công việc lớn như: đổi nền 
kinh tế, văn hóa tiên tiến; đồng thời lại 
luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ 
như: tương, cà, mắm muối cần thiết cho 
đời sống hằng ngày của dân” [9, tr.402]. 
Người còn nói: “Công việc ngày càng 
nhiều. Trước đây, Đảng ta tổ chức đánh 
Tây, đánh Nhật rất gian nan c ... ách mạng, và cho cách mạng. 
Để có thể biến quyết tâm của Đảng 
thành quyết tâm của toàn thể nhân dân, Hồ 
Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên luôn 
phải vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ, và 
trước mỗi công việc muốn được dân đồng 
tình ủng hộ, phải tìm cách giải thích cho 
nhân dân hiểu, nhân dân tán thành. Người 
dạy: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái 
chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì 
việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy 
sinh mấy họ cũng không sợ” [5, tr.286]. 
Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ 
cách giải thích cho họ hiểu rằng: những 
việc đó là vì lợi ích cho họ mà phải làm. Từ 
đó mà sáng tạo ra những phương thức, cách 
thức hành động để đạt hiệu quả cao nhất 
trong việc tổ chức quần chúng nhân dân 
thực hiện đường lối của Đảng. Theo Hồ 
Chí Minh, nguyên tắc cao nhất trong triển 
khai đường lối chính sách của Đảng là phải 
luôn luôn do quần chúng kiểm soát những 
khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không? 
Mặt khác, việc thực hiện thành công hay 
thất bại của chính sách còn do tổ chức công 
việc, lựa chọn cán bộ và do công tác kiểm 
tra. Ba điều ấy sơ sài không đồng bộ, 
không chặt chẽ thì đường lối, chính sách 
hay mấy cũng vô ích. Do vậy, “Đảng phải 
luôn luôn xét lại những nghị quyết và 
những chỉ thị của mình đã thi hành như thế 
nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết 
và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà 
còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
18 
với Đảng” [5, tr.290]. 
Trong quá trình triển khai việc thực 
hiện đường lối của Đảng, Hồ Chí Minh yêu 
cầu phải hết sức tôn trọng ý kiến đóng góp 
của quần chúng, không được có thái độ “bịt 
mồm quần chúng”. Sự tôn trọng và tiếp thu 
một cách nghiêm chỉnh ý kiến xây dựng 
của quần chúng không chỉ để Đảng với dân 
hiểu nhau, gần nhau, mà còn giúp cho các 
tổ chức Đảng, đảng viên nhận rõ được 
những sai lầm thiếu sót của mình mà sửa 
chữa, làm cho Đảng với dân thêm gắn bó 
đồng thời thể hiện sự tôn trọng quyền làm 
chủ của nhân dân. 
Thứ ba, quần chúng nhân dân là nguồn 
gốc sức mạnh và lực lượng cách mạng to 
lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh vai trò to 
lớn, sự ảnh hưởng mạnh mẽ của quần 
chúng nhân dân đối với Đảng Cộng sản 
Việt Nam, được thể hiện ở những luận 
điểm sau: 
Một là, quần chúng nhân dân là nguồn 
gốc sức mạnh của Đảng 
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định 
vai trò quyết định của quần chúng nhân dân 
trong lịch sử, đồng thời cũng đã chỉ ra mối 
quan hệ khăng khít giữa quần chúng nhân 
dân với các tổ chức chính trị và cá nhân 
trong sự phát triển xã hội, trong cách mạng 
xã hội. Sau này, V.I. Lênin - lãnh tụ kiệt 
xuất của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô 
sản thế giới cũng khẳng định rằng, Đảng 
Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp vô sản. 
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân 
dân với Đảng Cộng sản ở nước ta cũng 
không nằm ngoài quy luật ấy. 
Trong điều kiện đặc thù của nước ta, 
Đảng ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác - 
Lênin với phong trào công nhân và phong 
trào yêu nước. Không có phong trào cách 
mạng của quần chúng nhân dân thì không có 
sự ra đời và hoạt động của Đảng. Chính 
nhân dân đã cung cấp lực lượng cho Đảng. 
Quần chúng nhân dân vì thế, là nguồn gốc 
sinh thành của Đảng. 
Rõ ràng, Đảng từ quần chúng nhân dân 
mà ra, nhờ có quần chúng nhân dân mà có 
Đảng, Đảng phải dựa vào quần chúng nhân 
dân để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. 
Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng chỉ thực sự 
có hiệu quả khi tuân thủ nghiêm ngặt 
nguyên tắc từ quần chúng mà ra, rồi tác 
động trở lại quần chúng. Trong bài nói 
chuyện với cán bộ các ngành quân, dân, 
chính, đảng ở Hải Phòng ngày 31-3-1959, 
Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: “cách mạng 
thành công là do ai?” và Người trả lời là do 
quần chúng. Mà theo Người, quần chúng 
nghe theo sự lãnh đạo của Đảng là vì Đảng 
dựa vào quần chúng, đi theo đường lối 
quần chúng. 
Quần chúng nhân dân không chỉ là cội 
nguồn của Đảng mà hơn nữa, Đảng tồn tại 
và phát triển được là nhờ dựa vào dân, lực 
lượng của Đảng có lớn mạnh hay không là 
do dân. Nhân dân là người xây dựng đồng 
thời là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ 
của Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến 
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm 
lược, nhân dân đã bảo vệ, thậm chí hy sinh 
cả bản thân, gia đình, của cải để bảo vệ 
mạng sống cho cán bộ cách mạng trước 
mũi súng quân thù. 
Rõ ràng, vai trò của quần chúng nhân 
dân đối với Đảng là rất lớn, Đảng từ trong 
nhân dân mà ra, lại được quần chúng nhân 
dân đùm bọc, chở che, bảo vệ, Đảng tồn tại 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
19 
và phát triển được là do dân, sức mạnh của 
Đảng cũng nhờ từ quần chúng nhân dân mà 
có. Hồ Chí Minh hiểu rằng, Đảng chỉ mạnh 
thật sự, chỉ trở thành vô địch và vạn năng 
khi nào khai thác và phát huy được sức 
mạnh vô cùng, vô tận của nhân dân. Người 
quan niệm, “trong bầu trời không có gì quý 
bằng nhân dân, trong thế giới không gì 
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân 
dân” [8, tr.453]. Người căn dặn cán bộ, 
đảng viên: chỉ đoàn kết trong Đảng, cách 
mạng cũng không thành công được, còn 
phải đoàn kết nhân dân cả nước,... cách 
mạng mới thành công. 
Vai trò to lớn của quần chúng nhân dân 
đối với Đảng, cũng như mối quan hệ không 
thể tách rời giữa Đảng với quần chúng nhân 
dân được Hồ Chí Minh khái quát một cách 
súc tích trong tác phẩm “Dân vận” rằng: 
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân 
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân 
Công việc đổi mới, xây dựng là trách 
nhiệm của dân 
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là 
công việc của dân 
Chính quyền từ xã đến Chính phủ 
Trung ương do dân cử ra. 
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân 
tổ chức nên. 
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng 
đều ở nơi dân” [6, tr.232]. 
Do nhận thức được đầy đủ vai trò to 
lớn của quần chúng nhân dân đối với Đảng, 
trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và 
Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và 
Đảng luôn đề cao chủ trương dựa vào dân, 
phát động cuộc chiến tranh nhân dân, huy 
động lực lượng toàn dân, từng bước làm 
thay đổi so sánh lực lượng giữa ta với địch. 
Người thường xuyên luôn nhắc nhở cán bộ, 
đảng viên, quân đội phải gắn bó với dân, 
rời xa dân nhất định sẽ thất bại. Phải bảo 
vệ, giúp đỡ, động viên nhân dân, làm sao 
cho được lòng dân, dân tin, dân phục, dân 
yêu thì việc gì cũng làm được và nhất định 
thắng lợi. Hay nói cách khác, sự gắn bó, 
quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân 
là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động 
của Đảng Cộng sản, là cội nguồn sức mạnh 
vô địch của Đảng, là nhân tố bảo đảm cho 
sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách 
mạng. Đúng như nhận định của Hồ Chí 
Minh: “Phải biết rằng đảng viên là thiểu 
số so với tổng số nhân dân, nếu không có 
người ngoài Đảng ủng hộ, giúp đỡ thì 
Đảng không làm gì được” [10, tr.591]. Vì 
vậy, không ngừng củng cố mối quan hệ mật 
thiết với quần chúng nhân dân là một 
nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng. 
Hai là, quần chúng nhân dân là lực lượng 
cách mạng to lớn của Đảng 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối 
quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân 
dân, ta nhận thấy quần chúng nhân dân 
không chỉ là nguồn gốc sức mạnh mà quần 
chúng nhân dân còn là nguồn lực lượng to 
lớn của Đảng. 
Khi nói quần chúng nhân dân là nguồn 
lực lượng to lớn của Đảng, điều đó được 
thể hiện ở những luận điểm sau đây: 
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực 
lượng cơ bản, có sức mạnh to lớn để thực 
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của 
Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của 
quần chúng nhân dân là cơ sở, là nguồn 
gốc, là những gợi ý để Đảng xây dựng, 
hoàn thiện và điều chỉnh đường lối chính sách. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
20 
Tư tưởng tự bản thân nó không làm 
biến đổi được thực tiễn xã hội, tư tưởng chỉ 
có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm 
biến đổi lịch sử, mà điều đó chỉ có thể xảy 
ra khi nhân dân đồng lòng, nhiệt tình và 
quyết tâm hành động. Điều đó cũng có 
nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính 
sách của Đảng chỉ có ý nghĩa khi nó đi vào 
cuộc sống của nhân dân, được chủ thể quần 
chúng nhân dân thực hiện. Sự lãnh đạo của 
Đảng đối với quần chúng nhân dân trước 
hết được thể hiện thông qua các chủ 
trương, chính sách, đường lối của Đảng. Vì 
vậy nói đường lối của Đảng, sự lãnh đạo 
của Đảng cũng có nghĩa là nói tới quần 
chúng nhân dân, nói đến thái độ của Đảng 
đối với quần chúng nhân dân và của quần 
chúng nhân dân đối với Đảng. 
Ở đây đường lối, chính sách của Đảng 
có nguồn gốc từ thực tế cuộc sống và được 
xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chân chính 
của quần chúng nhân dân. Khi những sáng 
kiến, nguyện vọng chính đáng của quần 
chúng nhân dân nâng lên thành đường lối, 
chính sách thì chính nhân dân lại là lực lượng 
thực hiện, để chuyển những ý tưởng đó vào 
đời sống thực tiễn, tìm những phương pháp, 
biện pháp để thực hiện có hiệu quả cao nhất. 
Nhân dân sẽ tham gia với vai trò là chủ thể 
trực tiếp của các quá trình hoạt động thực 
tiễn, sẽ là người phản biện các chủ trương 
chính sách của Đảng, phát hiện, kiểm tra tính 
đúng đắn và sự phù hợp đối với đường lối 
của Đảng. Và thông qua việc thực hiện 
đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân lại 
có điều kiện cung cấp những tư tưởng, những 
dữ kiện mới nảy sinh từ thực tiễn để Đảng 
hoàn thiện đường lối, chính sách. 
Là một bên chủ thể trong quan hệ với 
Đảng, nhân dân còn là người giám sát việc 
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, 
việc chấp hành pháp luật của Nhà nước 
cũng như tư cách đạo đức của các cán bộ 
đảng viên. Bằng sự phản ánh của mình, 
nhân dân thực hiện chức năng phê bình đối 
với Đảng, trên cơ sở đó Đảng “dựa vào ý 
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và 
tổ chức” [5, tr.338]. Hồ Chí Minh thường 
xuyên nhắc nhở rằng, Đảng ta cần phải biết 
lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải bàn 
bạc, thảo luận với nhân dân những vấn đề 
“quốc kế dân sinh”. Người cho rằng: “Việc 
gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng, cùng 
dân chúng bàn bạc và giải thích cho dân 
chúng” [5, tr.335]. 
 Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực 
lượng tham gia cùng Đảng chống tệ nạn 
tham ô, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn 
khác trong bộ máy của Đảng và Nhà nước 
Trong điều kiện của một Đảng cầm 
quyền, Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo 
những căn bệnh dễ phát sinh trong Đảng 
khi Đảng đã có chính quyền trong tay. Và 
thực tế đã xuất hiện những thói hư, tật xấu 
nảy sinh trong Đảng, làm tha hóa Đảng. Hồ 
Chí Minh đã sớm chỉ ra hàng loạt những 
hiện tượng tha hóa trong cán bộ, đảng viên 
như lợi dụng chức quyền; lạm dụng quyền 
lực như: cậy quyền, cậy thế, hủ hóa, chia 
rẽ, kiêu ngạo,... Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ 
nguyên nhân của những căn bệnh nói trên 
là do xa rời dân, không nắm được tâm tư, 
nguyện vọng của nhân dân, từ đó nảy sinh 
ra tư tưởng khinh dân, coi thường dân. Nguy 
hiểm hơn là lúc mắc khuyết điểm thì đâm ra sợ 
dân, sợ dân phê bình mất thể diện, sợ sửa chữa. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
21 
Từ đó, Người kêu gọi tất cả bộ máy 
Đảng và Nhà nước, mọi cán bộ đảng viên 
phải ra sức chống ba căn bệnh tham ô, lãng 
phí, quan liêu nói trên, làm trong sạch bộ 
máy Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, Người 
cũng nhắc nhở “phong trào chống tham ô, 
lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng 
quần chúng thì mới thành công” [7, tr.362]. 
Chính vì vậy, để phòng trừ, đấu tranh với tệ 
tham ô, lãng phí, quan liêu, phương thuốc 
hữu hiệu nhất là phải phát huy dân chủ, tôn 
trọng quyền làm chủ của nhân dân, vận 
động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào 
cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, 
quan liêu. Tuy nhiên, vì tham ô, lãng phí, 
quan liêu là những căn bệnh nguy hiểm, 
nên phải coi việc chống tham ô, lãng phí, 
quan liêu cũng quan trọng như một mặt trận 
- mặt trận chính trị tư tưởng. Theo Người, 
Đảng cần phải thực sự coi đây là một cuộc 
cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay 
go giữa cái tốt với cái xấu, giữa đạo đức 
cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí 
công vô tư với kẻ địch là tệ tham ô, lãng 
phí, quan liêu. Do đó, phải huy động lực 
lượng, trí tuệ của quần chúng nhân dân vào 
cuộc cách mạng này, tạo ra phong trào 
quần chúng sâu rộng để nhân lên cái tốt, cái 
tiến bộ và chống lại cái xấu như “chống 
giặc nội xâm”. 
Đánh giá về vai trò của quần chúng 
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói 
chung và trong công tác chống tham ô, 
tham nhũng, chống lãng phí, quan liêu nói 
riêng, Hồ Chí Minh cho rằng: “phải lắng 
tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân 
dân, của những người “không quan trọng” 
và “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo 
luận và tìm cách giải quyết” [5, tr.325]. 
Mặt khác, trong bất kỳ công tác gì, đặc biệt 
là trong phòng chống tham nhũng phải: 
“Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và 
luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân 
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng 
và nhờ đó mà Đảng thắng lợi” [5, tr.326]. 
Như vậy, với những luận điểm phân 
tích trên đây đã bộc lộ rõ quan điểm của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần 
chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân cần 
có Đảng lãnh đạo, Đảng cần có quần chúng 
nhân dân để có sức mạnh vật chất và tinh 
thần to lớn. Trong công cuộc đổi mới đất 
nước hiện nay, những quan điểm về mối 
quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân 
dân trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được 
Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát huy trên 
con đường đổi mới. Trong quá trình vận 
dụng, Đảng và nhân dân Việt Nam đã đạt 
được những thành tựu to lớn tạo cơ sở, nền 
tảng vững chắc cho việc xây dựng mối 
quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân 
dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, 
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng 
nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay 
còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Xuất 
phát từ thực tế này, việc vận dụng quan 
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng 
với quần chúng nhân dân vào việc củng cố 
và phát huy hơn nữa mối quan hệ này trong 
công cuộc đổi mới trở nên có ý nghĩa thực 
tiễn to lớn đối với việc giải quyết mối quan 
hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân trên 
thực tế hiện nay. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Vũ Thị Thu Huyền 
22 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva, Hà Nội. 
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen (1984), Toàn tập, tập 41, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[4] C. Mác và Ph. Ăngghen (1984), Toàn tập, tập 44, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[11] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 19-4-2018. Ngày biên tập xong: 23-4-2018. Duyệt đăng: 19-5-2018. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_quan_diem_co_ban_cua_chu_ngh_mac_lenin_tu_tuong_ho_chi.pdf