Những nguyên tắc cơ bản trong việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên khi dạy học phần Triết học - Trong môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
Đánh giá (ĐG) năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ)
của sinh viên (SV) trong dạy học phần Triết học, trong
môn Những nguyên lí cơ bản (NNLCB) của chủ nghĩa
Mác - Lênin là sự xem xét lại xem SV có những năng lực
GQVĐ nào trong việc thực hiện một nội dung, một hoạt
động xác định. Mỗi cá nhân muốn thành công trong cuộc
sống phải có nhiều loại năng lực khác nhau, trong đó có
một số năng lực ở mức độ cao.
Năng lực nói chung, năng lực GQVĐ nói riêng
không chỉ là yếu tố bẩm sinh có sẵn mà nó còn được
hình thành và phát triển gắn liền với quá trình hoạt động
của con người, gắn liền với đặc điểm tâm sinh lí của
mỗi con người. Những nhận định, kết luận, phán đoán
có được trên cơ sở phân tích những thông tin thu thập
được một cách hệ thống các hoạt động của SV trong
quá trình GQVĐ ở bậc học đại học và cao đẳng. Để ĐG
được năng lực GQVĐ của SV cần phối hợp nhiều biện
pháp và công cụ để ĐG. Bài viết nghiên cứu về những
nguyên tắc cơ bản trong việc ĐG năng lực GQVĐ của
SV khi dạy học phần Triết học, trong môn NNLCB của
chủ nghĩa Mác - Lênin
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những nguyên tắc cơ bản trong việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên khi dạy học phần Triết học - Trong môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 264 Email: honghaicdsptn@gmail.com NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỦA SINH VIÊN KHI DẠY HỌC PHẦN TRIẾT HỌC - TRONG MÔN NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN Nguyễn Thị Hồng Hải - Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Nguyên Lê Kiều Anh - Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên Ngày nhận bài: 20/06/2018; ngày sửa chữa: 25/06/2018; ngày duyệt đăng: 30/06/2018. Abstract: In the context of fundamental comprehensive education reform today, test and assessment are considered significant phases. Through the practice of teaching and evaluating the problem solving ability of students through teaching the module Marxist-Leninist Philosophy (Principles of Marxism-Leninism), the article proposes the basic principles for assessing the ability of solving problems of students, contributing to improvement of effectiveness of teaching this subject at universities and colleges in current period. Keywords: Competence assessment, problem solving, principle, philosophy. 1. Mở đầu Đánh giá (ĐG) năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ) của sinh viên (SV) trong dạy học phần Triết học, trong môn Những nguyên lí cơ bản (NNLCB) của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự xem xét lại xem SV có những năng lực GQVĐ nào trong việc thực hiện một nội dung, một hoạt động xác định. Mỗi cá nhân muốn thành công trong cuộc sống phải có nhiều loại năng lực khác nhau, trong đó có một số năng lực ở mức độ cao. Năng lực nói chung, năng lực GQVĐ nói riêng không chỉ là yếu tố bẩm sinh có sẵn mà nó còn được hình thành và phát triển gắn liền với quá trình hoạt động của con người, gắn liền với đặc điểm tâm sinh lí của mỗi con người. Những nhận định, kết luận, phán đoán có được trên cơ sở phân tích những thông tin thu thập được một cách hệ thống các hoạt động của SV trong quá trình GQVĐ ở bậc học đại học và cao đẳng. Để ĐG được năng lực GQVĐ của SV cần phối hợp nhiều biện pháp và công cụ để ĐG. Bài viết nghiên cứu về những nguyên tắc cơ bản trong việc ĐG năng lực GQVĐ của SV khi dạy học phần Triết học, trong môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin. 2. Nội dung nghiên cứu Khi xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học, trong môn NNLCB của chủ nghĩa Mác-Lênin, ngoài việc căn cứ vào cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, các biện pháp đưa ra còn phải tuân thủ các nguyên tắc như: đảm bảo dựa vào mục tiêu môn học và chuẩn đầu ra; đảm bảo tính khách quan và công bằng; đảm bảo tính toàn diện, công khai và trung thực; đảm bảo tính giáo dục; đảm bảo tính phát triển. Cụ thể: 2.1. Đảm bảo dựa vào mục tiêu môn học và Chuẩn đầu ra của nhà trường Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực của môn học để xây dựng đề kiểm tra, đề thi, từ đó xác định được mức độ đạt yêu cầu của chuẩn. ĐG theo chuẩn và sản phẩm đầu ra, góp phần quan trọng vào việc rèn luyện phương pháp học tập cho SV. Cụ thể: không chỉ kiểm tra kiến thức, mà quan trọng là phải kiểm tra các kĩ năng (kĩ năng nhận xét, ĐG, các kĩ năng vận dụng bài học để giải quyết các vấn đề, tình huống và thực hành trong cuộc sống), kiểm tra thái độ, tình cảm của SV đối với các vấn đề đạo đức và pháp luật. Từ đó, thúc đẩy SV tích cực rèn luyện theo yêu cầu của các chuẩn mực bài học. 2.1.1. Về kiến thức Dạy học là quá trình dưới sự tổ chức, điều khiển của giảng viên (GV), SV với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, chủ động tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà GV và nội dung môn học đặt ra. Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV là 2 hoạt động thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại, quy định lẫn nhau. Cả 2 hoạt động ấy đều nhằm mục đích cuối cùng là người học tích cực, tự giác trong nhận thức để chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, có khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, biết vận dụng các kiến thức đã được học trong nhà trường vào giải quyết những vấn đề mà cuộc sống thực tiễn đặt ra. Hoạt động học của SV không tách rời vai trò chủ đạo của người dạy và nội dung giảng, vì cả 2 hoạt động đó đều đi đến một mục tiêu là nhận thức của người học về kiến thức môn học. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 265 Phần Triết học, trong môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin có đặc thù là tính khái quát, trừu tượng cao, nghiêu cứu về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy, xây dựng thế giới quan, phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là phương pháp luận khoa học để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Vì vậy, dạy học môn học này GV không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những kiến thức mang tính lí luận suông mà quan trọng là giúp SV rèn luyện những kĩ năng, năng lực cần thiết để vận dụng lí luận triết học vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là một trong những yêu cầu Chuẩn đầu ra của các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, giúp SV sau khi tốt nghiệp đại học có thể trở thành những người lao động tốt, năng động, sáng tạo. Do trình độ nhận thức của SV về các vấn đề chính trị - xã hội chưa cao, môi trường giao tiếp xã hội hẹp, lượng thông tin khoa học chính trị được trang bị ở bậc học phổ thông còn khá hạn chế, hoặc khi khai thác ở nhiều nguồn tư liệu khác nhau, sự chủ động của SV có thể dẫn đến sai lệch mục tiêu môn học. Do đó, GV phải phân tích, định hướng SV vào từng nội dung kiến thức, các khái niệm, phạm trù, quy luật phải được làm rõ cấu trúc, bản chất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; đặc biệt phải được minh chứng bằng các ví dụ trực quan để người học dễ tiếp thu bài giảng. Trong quá trình dạy học, để thực hiện tốt mục tiêu về kiến thức, GV và SV khi thực hiện GQVĐ phải đảm bảo 3 yêu cầu sau: - Trong quá trình GQVĐ của Triết học, SV phải nắm vững và đảm bảo sự chính xác của các khái niệm, phạm trù, quy luật triết học. Vì mỗi khái niệm, phạm trù, quy luật của triết học chính là cơ sở lí luận cơ bản để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Ví dụ, khi nghiên cứu Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, SV cần nắm vững khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến, các tính chất của mối liên hệ phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và rút ra được ý nghĩa phương pháp luận là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể. Lí thuyết đó chính là bài học phương pháp luận để SV vận dụng vào cuộc sống khi xem xét ĐG sự vật hiện tượng nào đó. Khi vào một tình huống cụ thể cần xem xét, ĐG hay đưa ra phương án hành động cho bản thân, biết đặt sự vật, hiện tượng tình huống cụ thể đó trong quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể để xem xét. - Đảm bảo tính thống nhất chỉnh thể của môn học. Trong chương trình môn học, có nhiều nội dung khác nhau thể hiện ở các chương khác nhau những lại có mối quan hệ với nhau, nắm vững được nội dung kiến thức của chương này mới có thể nắm vững nội dung kiến thức của chương kia. Trong cùng một chương, các kiến thức được liên kết, gắn bó thống nhất với nhau và cùng đi đến một mục tiêu nhất định. Ví dụ, khi nghiên cứu về phạm trù vật chất trong Chương 1 “Chủ nghĩa duy vật biện chứng” lại có liên quan đến phần lí luận nhận thức trong Chương 2 “Phép biện chứng duy vật” và liên quan đến phần tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong Chương 3 “Chủ nghĩa duy vật lịch sử”. - Trong quá trình dạy học, GV phải vận dụng phương pháp dạy học GQVĐ, phải đưa ra các tình huống có vấn đề, tạo ra ở SV nhu cầu phát hiện và GQVĐ nảy sinh như nhu cầu của chính mình giữa vốn tri thức, trình độ nhận thức của SV với vấn đề đặt ra của GV theo các bước sau: + GV đặt ra trước SV những bài toán nhận thức có chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm; + SV tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán nhận thức như là mâu thuẫn trong nội tâm của mình hay nói cách khác là đặt SV vào tình huống có vấn đề và trở thành nhu cầu bức thiết muốn giải quyết bài toán nhận thức; + Thông qua quá trình giải bài toán nhận thức, SV lĩnh hội được nội dung và cách thức giải quyết một cách tự giác, tích cực và hứng thú. Căn cứ vào đề cương môn học được xây dựng theo thang 3 bậc: nhận biết, thông hiểu, vận dụng mà GV đưa ra những yêu cầu khác nhau sao cho phù hợp với từng tình huống triết học để ĐG các mức độ đạt được khác nhau của SV. Ví dụ: Khi dạy Chương 2 “Phép biện chứng duy vật”, GV cần xây dựng mục tiêu 3 bậc như sau: Mục tiêu Bậc 1 (nhận biết) Bậc 2 (thông hiểu) Bậc 3 (vận dụng) - Trình bày được khái niệm biện chứng, phép biện chứng, các hình thức cơ bản của phép biện chứng VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 266 Chương 2: Phép biện chứng duy vật - Mô tả được khái niệm, các đặc trưng cơ bản, vai trò của phép biện chứng duy vật - Giải thích được phép biện chứng duy vật là hình thức cao nhất của phép biện chứng, là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn - Trình bày được khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến, tính chất của các mối liên hệ - Phân tích được nội dung nguyên lí và rút ra được ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - Giải thích dược tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của mối liên hệ phổ biến. Lấy ví dụ. Vận dụng được quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn - Trình bày được khái niệm phát triển, tính chất của sự phát triển. - Mô tả được 6 cặp phạm trù cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực. - Trình bày được các khái niệm: chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy trong quy luật lượng - chất. - Trình bày được các khái niệm: mâu thuẫn, mặt đối lập, các tính chất chung của mâu thuẫn, quá trình vận động của mâu thuẫn. - Trình bày được các khái niệm: phủ định, phủ định - Phân tích được nội dung nguyên lí và rút ra được ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển. - Phân tích được nội dung và rút ra được ý nghĩa phương pháp luận của 6 cặp phạm trù trong phép BCDV. - Phân tích được nội dung quy luật lượng - chất, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật. - Phân tích được nội dung quy luật mâu thuẫn , rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật. - Phân tích được nội dung quy luật phủ định của phủ - Giải thích được tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của sự phát triển. Lấy ví dụ. Vận dụng được quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn - Giải thích và lấy được ví dụ cho từng cặp trong 6 cặp phạm trù của phép BCDV. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa các cặp phạm trù vào hoạt động nhận thức, thực tiễn. - Giải thích và lấy được ví dụ về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất. Vận dụng được ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất vào hoạt động nhận thức, thực tiễn. - Giải thích được các tính chất của mâu thuẫn và quá trình vận động của mâu thuẫn để thấy rằng “sự phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”. Vận dụng vấn đề này vào hoạt động nhận thức và thực tiễn. - Từ các tính chất của phủ định biện chứng, giải thích được tại sao quy luật lại là phủ định của phủ định. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào hoạt động nhận thức và thực tiễn. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 267 biện chứng, phủ định của phủ định. - Mô tả được: thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn, nhận thức và các trình độ nhận thức. - Trình bày được quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí. Khái niệm chân lí và vai trò của chân lí đối với nhận thức. định, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật. - Phân tích làm rõ được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận. - Phân tích được quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí và rút ra ý nghĩa phương pháp luận. Phân tích vai trò của chân lí đối với thực tiễn và rút ra ý nghĩa phương pháp luận. - Giải thích được: xuất vật chất là hình thức cơ bản nhất của hoạt động thực tiễn. Lấy được ví dụ minh họa. Vận dụng quan điểm thực tiễn vào hoạt động của bản thân. Phân biệt được các trình độ nhận thức và vận dụng vào thực tiễn. - Giải thích và lấy được các ví dụ về nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính, chân lí và vai trò của chân lí đối với nhận thức. 2.1.2. Về thái độ Thay vì quá chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức, GV cần quan tâm đặc biệt đến phát triển năng lực GQVĐ của SV, người học có động cơ và sẵn sàng tự giải quyết các vấn đề nảy sinh trong môn học và những tình huống hay vấn đề mà GV giao nhiệm vụ. Thái độ của SV có thể được cụ thể hóa qua các yêu cầu sau: - SV phải dành thêm thời gian tự nghiên cứu tài liệu, không chỉ ở giảng đường mà còn ở các môi trường học tập khác như ở thư viện, học nhóm, hoạt động ngoại khóa và ở nhà. SV phải có thái độ tích cực, chủ động tự giác trong việc tìm tòi, khám phá tri thức, lập kế hoạch để giải quyết bài toán nhận thức. - SV phải xác định được GV chỉ là người đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ thúc đẩy và tạo điều kiện môi trường để người học tự chiếm lĩnh tri thức và GQVĐ. Còn SV phải chủ động, tự giác tích cực tham gia vào quá trình học tập, như: tự sưu tầm tài liệu, sắp xếp kế hoạch, trao đổi, tìm phương pháp nghiên cứu để hoàn thành những yêu cầu, bài tập do GV đề ra. - Thông qua các hoạt động GQVĐ, SV có thể phát triển được năng lực GQVĐ và những năng lực cơ bản khác để sau khi ra trường họ có thể giải quyết tốt nhiệm vụ mà môi trường công tác và xã hội đặt ra. Điều đó còn có ý nghĩa rất lớn trong môi trường dạy học ở bậc đại học, vừa là nhiệm vụ cơ bản của GV vừa là động cơ học tập của SV. Vì nếu GV không xác định được nhiệm vụ và SV không có động cơ học tập tốt thì không thể hoàn thành nhiệm vụ dạy và học theo phương châm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. 2.1.3. Về kĩ năng Đảm bảo mục tiêu về năng lực nói chung và phát triển năng lực GQVĐ cho SV khi dạy học phần Triết học, trong môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin có ý nghĩa rất quan trọng, bởi đó là sự kết hợp hữu cơ các mục tiêu về kiến thức, thái độ và kĩ năng trong quá trình dạy học. ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần này có nhiều tiềm năng hướng đến hình thành phát triển cả kĩ năng/năng lực cơ bản, như: kĩ năng thuyết trình, làm việc nhóm, đọc tìm hiểu thông tin.... và kĩ năng/năng lực cốt lõi như: lập kế hoạch, hiểu vấn đề, nảy sinh giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp, thực hiện giải pháp và đối chiếu kết quả với vấn đề ban đầu cho SV. Bởi vì, do chính tính đặc thù của việc dạy học phần Triết học là dạy những khái niệm, phạm trù có tính trừu tượng, tính phổ quát, tính khái quát cao, nhưng lại gắn trực tiếp với thực tiễn chính trị - xã hội luôn vận động, phát triển liên tục. Bên cạnh đó, môn học có tính thời sự, tính thực tiễn sâu sắc. Còn với những ưu thế của kiểm tra, ĐG theo định hướng năng lực GQVĐ khi sử dụng để ĐG phần Triết học sẽ đảm bảo được sự hình thành và phát triển cả về năng lực chung và năng lực đặc thù cho SV. Các năng lực chung đó là: năng lực tự học, năng lực thuyết trình, năng lực sáng tạo trong học tập, năng lực thảo luận nhóm và hợp tác nhóm... Các năng lực đặc thù, như: năng lực chịu trách nhiệm công dân, năng lực phát hiện và GQVĐ, năng lực tư duy khái quát... VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 268 Để ĐG được năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học thì trong từng bài dạy, GV phải bám sát mục tiêu 3 bậc mà đề cương chi tiết đã xây dựng và thông qua nhà trường từ đầu khóa học để đề ra các câu hỏi, bài tập thảo luận và seminar cho từng tuần, bảo đảm tính vừa sức, tính tích cực chủ động trong hoạt động nhận thức cho SV, giúp SV có cơ hội rèn luyện năng lực GQVĐ. Ví dụ, khi dạy Chương 2 “Phép biện chứng duy vật”, căn cứ và mục tiêu 3 bậc, GV đưa những câu hỏi ôn tập thảo luận và seminar cho SV trước 2 tuần để các em chuẩn bị, nội dung câu hỏi theo các mục tiêu tăng dần: nhận biết, thông hiểu, vận dụng như sau: 1) Tại sao nói phép biện chứng duy vật là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học?; 2) Phân tích nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng; 3) Phân tích nội dung nguyên lí về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng; 4) Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù cái riêng và cái chung; 5) Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả; 6) Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nội dung và hình thức; 7) Phân tích nội dung quy luật Lượng - Chất; 8) Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn; 9) Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định; 10) Làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, rút ra ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng; 11) Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí khách quan. Và thực hiện seminar 2 chủ đề: 1) Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vấn đề xây dựng hệ thống giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay; 2) Quy luật phủ định của phủ định và sự phát triển của “Mốt” trong lĩnh vực thời trang. 2.2. Đảm bảo tính khách quan và công bằng Đảm bảo tính khách quan khi ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học là không phụ thuộc vào ý thức, tư tưởng, tình cảm, ý chí của chủ thể ĐG. Phối hợp hợp lí các biện pháp, công cụ, kĩ thuật ĐG khác nhau nhằm hạn chế tối đa các hạn chế của mỗi biện pháp, công cụ và kĩ thuật ĐG. Đảm bảo môi trường cơ sở vật chất không ảnh hưởng đến việc thực hiện các bài tập ĐG của SV, như: âm thanh xung quanh quá ồn ào ảnh hưởng đến lớp học; ánh sánh quá ít; không gian quá chật hẹp cho một lớp SV với số lượng đông, không đủ để thực hiện các hoạt động theo góc, theo nhóm, phòng tranh, góc...; các phương tiện công nghệ thông tin hỗ trợ hoạt động học tập phải đảm bảo hoạt động tốt, không trục trặc (loa đủ độ to, máy chiếu, máy tính hoạt động tốt...). Kiểm soát các yếu tố khác ngoài khả năng thực hiện bài tập ĐG của SV có thể ảnh hưởng đến kết quả bài làm hay thực hiện hoạt động của SV. Các yếu tố đó có thể là trạng thái sức khỏe, tâm lí lúc làm bài hay thực hiện các hoạt động, ngôn ngữ diễn đạt trong bài kiểm tra, độ dài của bài kiểm tra, sự quen thuộc với bài kiểm tra. Các tiêu chí ĐG có các mức độ đạt được được mô tả rõ ràng, SV được biết trước thang ĐG năng lực GQVĐ để thực hiện các hoạt động hướng tới. GV cần hướng dẫn chi tiết các bước tiến hành ĐG năng lực GQVĐ cho tất cả SV nắm rõ, làm được và ĐG đúng quy trình. Đảm bảo sự công bằng trong ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học là không phân biệt, thiên vị đối tượng ĐG, tất cả các đối tượng ĐG đều như nhau. Điều này sẽ tạo cho SV cảm giác yên tâm, không thấy bị thiên vị, bất lực...; từ đó cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình. Một số yêu cầu đảm bảo tính công bằng trong ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học gồm: - Mọi SV được giao các nhiệm vụ hay bài tập vừa sức, có tính thách thức để giúp mỗi em có thể tích cực vận dụng, phát triển kiến thức và kĩ năng đã học, phát huy hết khả năng của mình; - Đề bài kiểm tra phải cho SV cơ hội để chứng tỏ khả năng áp dụng những kiến thức, kĩ năng SV đã học vào đời sống hàng ngày và GQVĐ thực tiễn; - Đối với những bài kiểm tra nhằm thu thập thông tin để ĐG xếp loại SV, GV cần đảm bảo rằng hình thức bài kiểm tra là không xa lạ đối với mọi SV. Mặt khác, ngôn ngữ và cách trình bày được sử dụng trong bài kiểm tra phải đơn giản, rõ ràng, phù hợp với trình độ của SV; không nên chứa những hàm ý “đánh đố” SV; - Đối với các bài kiểm tra hay bài tập tình huống, thang ĐG cần được xây dựng cẩn thận sao cho việc chấm điểm hay xếp loại cũng như ghi nhận xét kết quả phản ánh đúng khả năng làm bài của người học. Dựa vào thang ĐG đó, SV có thể tự ĐG được năng lực của mình và ĐG các bạn khác, giám sát hoạt động ĐG của GV. 2.3. Đảm bảo tính toàn diện, công khai và trung thực Đảm bảo tính toàn diện là một trong những nguyên tắc của kiểm tra, ĐG. Vì có đảm bảo được tính toàn diện thì mới thấy hết các mặt, các khả năng, trình độ, năng lực, không rơi vào phiến diện, một chiều. Một số yêu cầu nhằm đảm bảo tính toàn diện trong ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học gồm: - Mục tiêu ĐG cần bao quát các kết quả học tập với những mức độ nhận thức từ đơn giản đến phức tạp và các mức độ phát triển kĩ năng; - Nội dung kiểm tra, ĐG cần bao quát được các trọng tâm của chương trình, chủ đề, bài học GV muốn ĐG; - Hình thức, công cụ, kĩ thuật ĐG cần đa dạng, phong phú và thực hiện đúng quy trình; - Các bài tập hoặc hoạt động ĐG không chỉ ĐG kiến thức, kĩ năng môn học mà còn ĐG các phẩm chất trí tuệ và tình cảm cũng như những kĩ năng xã hội. Đảm bảo tính công khai là đảm bảo sự rõ ràng minh bạch trong hoạt động ĐG, các tiêu chí và yêu cầu ĐG các nhiệm vụ hay bài tập, bài kiểm tra phải được công bố đến SV trước khi họ thực hiện. Các yêu cầu, tiêu chí ĐG này VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 264-269 269 có thể được thông báo miệng, hoặc được thông báo chính thức qua những văn bản hướng dẫn làm bài. SV cũng cần biết cách tiến hành các nhiệm vụ để đạt được tốt nhất các tiêu chí và yêu cầu đã định. SV được công bố kết quả công khai và kịp thời trước tập thể, mọi người đều biết kết quả học tập của nhau, giúp các em học tập cách học lẫn nhau và học tập tấm gương xuất sắc trong học tập. Đảm bảo tính trung thực: Khi ĐG, phải đưa lại những thông tin chính xác, phản ánh đúng kết quả học tập của SV để GV có sự điều chỉnh phù hợp về phương pháp dạy học, điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của SV. Bài kiểm tra được coi là có độ tin cậy nếu kết quả ĐG phản ánh đúng năng lực học tập của SV dựa theo các tiêu chí ĐG. Khi thực hiện hoạt động kiểm tra, thu thập thông tin, dữ liệu để ĐG cần thực hiện nghiêm túc, tận tâm, không làm qua loa chiếu lệ... 2.4. Đảm bảo tính giáo dục Giáo dục là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học, việc hình thành nhân cách người học phải thông qua giáo dục, vì thế khi ĐG phải đảm bảo hiệu quả cho việc giáo dục nhân cách cho người học. ĐG phải góp phần nâng cao việc học tập và khả năng tự học, tự giáo dục của SV. SV có thể học từ những ĐG của GV. Từ đó, SV định ra cách tự điều chỉnh hành vi học tập về sau của bản thân. Muốn vậy, GV cần làm cho bài kiểm tra sau khi được chấm trở nên có ích đối với SV bằng cách ghi lên bài kiểm tra những ghi chú về: - Những gì SV làm được; - Những gì SV có thể làm được tốt hơn; - Những gì SV cần được hỗ trợ thêm; - Những gì SV cần tìm hiểu thêm. Khi nhìn vào bài làm của mình, SV nhận thấy sự khẳng định của GV về khả năng của họ. Điều này có tác dụng động viên người học rất lớn, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chức năng giáo dục và phát triển của ĐG giáo dục. 2.5. Đảm bảo tính phát triển Trong dạy học, để giúp cho việc ĐG kết quả học tập có tác dụng phát triển các năng lực của người học bền vững, cần thực hiện các yêu cầu sau: - Công cụ ĐG tạo điều kiện cho SV khai thác, vận dụng các kiến thức, kĩ năng liên môn và xuyên môn; - Phương pháp và công cụ ĐG góp phần kích thích lối dạy phát huy tinh thần tự lực, chủ động và sáng tạo của SV trong học tập, chú trọng thực hành, rèn luyện và phát triển kĩ năng; - ĐG hướng đến việc duy trì sự phấn đấu và tiến bộ của người học cũng như góp phần phát triển động cơ học tập đúng đắn trong người học. Qua những phán đoán, nhận xét về việc học của SV, GV cần giúp các em nhận ra chiều hướng phát triển trong tương lai của bản thân, nhận ra tiềm năng của mình. Nhờ vậy, giúp SV tự tin, hướng phấn đấu và hình thành năng lực tự ĐG cho SV. 3. Kết luận Trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT hiện nay, kiểm tra, ĐG được coi là khâu “đột phá” và có ý nghĩa quan trọng. Qua thực tiễn dạy học và ĐG năng lực GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học, trong môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản trong việc ĐG năng lực GQVĐ của SV, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn ở các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn, GV cần kết hợp, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học, cũng như tích cực sử dụng phương pháp kiểm tra, ĐG theo hướng tiếp cận năng lực; đặc biệt phải đo được năng lực GQVĐ của SV, năng lực quan trọng để các em giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2012). Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [2] Dương Thiệu Tống (2005). Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập (phương pháp thực hành). NXB Khoa học Xã hội. [3] Nguyễn Đức Minh (2012). Một số vấn đề về đánh giá theo kiến thức, kĩ năng và theo năng lực của học sinh. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, số 84/2012, tr 12-18. [4] J.D. Branford (1984). The Ideal Problem Solving, Freeman. New York. [5] Nguyễn Thị Diễm Hằng (2017). Một số phương pháp hướng dẫn sinh viên tự học các môn Lí luận chính trị có hiệu quả. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì II tháng 10, tr 256-259. [6] Hoàng Thu Phương (2018). Một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Tạp chí Giáo dục, số 421, tr 50-53. [7] Vũ Thị Mạc Dung (2016). Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Lí luận chính trị trong các trường đại học theo quan điểm của Đảng. Tạp chí Giáo dục lí luận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 243/CĐ2, tr 108-111. [8] Vũ Trà Giang (2016). Phát triển tư duy phản biện khoa học của giảng viên Lí luận chính trị ở các trường đại học công nghệ hiện nay. Tạp chí Giáo dục lí luận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 245, tr 118-120.
File đính kèm:
- nhung_nguyen_tac_co_ban_trong_viec_danh_gia_nang_luc_giai_qu.pdf