Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sư tại Tòa án vẫn còn gặp nhiều vướng mắc,

bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện đầy đủ các quy định này và chưa được

các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ và thống nhất. Ngoài ra, cũng có nhiều

quy định mới cần được hiểu chính xác và được hướng dẫn cụ thể để triển khai áp dụng trên thực

tế. Từ thực tiễn đó, bài viết trình bày một cách tiếp cận các khái niệm về quy định quyền khởi

kiện vụ án dân sự đồng thời chỉ ra được những khuyết điểm, hạn chế của pháp luật còn tồn tại.

pdf 8 trang kimcuc 3620
Bạn đang xem tài liệu "Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
20 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 20-27 
NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 
Đinh Thị Hằng, Đinh Ngọc Minh Trang*†††† 
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/8/2018 
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/2/2019 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/2/2019 
Tóm tắt: Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sư tại Tòa án vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, 
bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện đầy đủ các quy định này và chưa được 
các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ và thống nhất. Ngoài ra, cũng có nhiều 
quy định mới cần được hiểu chính xác và được hướng dẫn cụ thể để triển khai áp dụng trên thực 
tế. Từ thực tiễn đó, bài viết trình bày một cách tiếp cận các khái niệm về quy định quyền khởi 
kiện vụ án dân sự đồng thời chỉ ra được những khuyết điểm, hạn chế của pháp luật còn tồn tại. 
Từ khóa: pháp luật tố tụng dân sự, vụ án dân sự, quyền khởi kiện vụ án dân sự, kiến 
nghị, thực tiễn. 
1. Đặt vấn đề 
1.1 Khái niệm về vụ án dân sự và 
khởi kiện vụ án dân sự 
1.1. 1 Khái niệm vụ án dân sự 
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng 
“Vụ là việc , sự việc không hay, rắc rối cần 
phải giải quyết”; “Dân sự thuộc việc của 
dân, phân biệt với việc của quan”1.‡‡‡‡Còn 
theo Đại từ điển tiếng Việt “Án là vụ việc 
phải đưa ra xét xử ở Tòa” và “Dân sự là việc 
liên quan đến dân nói chung”2.§§§§Như vậy giải 
thích về mặt ngôn ngữ, có thể hiểu vụ án dân 
sự (VADS) là những tranh chấp về quyền và 
* Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội. 
1 Từ điển tiếng Việt thông dụng (1996), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
2 Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam – Bộ GD &ĐT (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn 
hóa thông tin, Hà Nội. 
nghĩa vụ liên quan đến dân và phải đưa ra 
xét xử ở Tòa án. 
Xét về bản chất, các quan hệ kinh tế 
hay lao động cũng xuất phát từ ý chí tự 
nguyện giao kết của các bên chủ thể như các 
quan hệ dân sự thông thường nhưng khi giải 
quyết các vụ việc lại tách riêng thành các thủ 
tục khác nhau, điều này dường như gây ra 
một sự phức tạo hóa trong các quy định pháp 
luật. Trong khi đó, khả năng dân trí trong 
nhân dân cả nước còn bi hạn chế khiến cho 
việc tiếp cận và áp dụng các quy định pháp 
luật càng trở nên khó khăn. Do vậy, đến Bộ 
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, 
các nhà làm luật đã có sự kết luận rõ ràng. 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 21 
Khái niệm “Vụ việc dân sự bao gồm vụ án 
dân sự và việc dân sự” (theo Điều 1 
BLTTDS năm 2004) đã được quy định chi 
tiết. Tương ứng với điều đó, các nhà làm luật 
đã phân định thủ tục giải quyết các vụ việc 
có tranh chấp (vụ án dân sự) và vụ việc 
không có tranh chấp (việc dân sự). Khái 
niệm “vụ việc dân sự” được quy định ở mức 
khái quát hơn, không chỉ đơn thuần phát 
sinh từ các quan hệ truyền thống mà nó còn 
bao hàm phạm vi rộng hơn gồm các quan hệ 
hôn nhân – gia đình, kinh doanh, thương 
mại và lao động (quan hệ dân sự theo nghĩa 
rộng). Cũng từ đây, có thể nhận thấy rằng, 
thuật ngữ “vụ án dân sự” mới tể hiện được 
đúng tinh thần của nó. Theo Điều 1 
BLTTDS năm 2015, “VADS là các tranh 
chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức về 
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp 
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh 
doanh, thương mại, lao động” được Tòa án 
đưa ra giải quyết theo quy định của pháp 
luật tố tụng dân sự. 
1.1. 2 Khái niệm khởi kiện vụ án 
dân sự 
Theo cách giải thích nghĩa của từ 
tiếng Việt, “khởi” là bắt đầu, mở đầu và 
“kiện” là động từ chỉ hành động nhờ cơ quan 
pháp luật xét xử người làm thiệt hại đến 
mình thông qua việc gửi đơn kiện lên Tòa. 
TS. Hoàn Ngọc Thỉnh cho rằng “Khởi kiện 
VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức 
hoặc các chủ thể khác theo quy định của 
3 Nguyễn Công Bình (2017), Giáo trình Luật 
Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân 
dân, Hà Nội. 
pháp luật Tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu 
Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích 
hợp pháp của mình hay của người 
khác”3.*****Theo đó, khởi kiện là hành vi đầu 
tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể 
khác tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng 
dân sự (PLTTDS), là cơ sở làm phát sinh 
quan hệ PLTTDS. 
Khởi kiện VADS là hoạt động Tố 
tụng dân sự (TTDS) khởi đầu cho quá trình 
TTDS tại Tòa án, có ý nghĩa rất quan trọng 
đối với việc giải quyết VADS. Để đảm bảo 
cho hoạt động này có hiệu quả thì pháp luật 
phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục và 
phương thức hoạt động. Hiện nay, trong 
pháp luật Việt Nam không quy định định 
nghĩa về khởi kiện VADS. Tuy vậy, qua các 
phân tích trên có thể khái quát rằng “Khởi 
kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức 
hoặc các chủ thể khác theo quy định pháp 
luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án 
có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp 
pháp của mình hay của người khác, bảo vệ 
lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước”4.††††† 
1.2 Tầm quan trọng quyền khởi 
kiện vụ án dân sự 
PLTTDS là phương tiện pháp lý để 
các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
của mình. Theo đó, pháp luật về khởi kiện 
VADS là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành 
các hoạt động thụ lý, giải quyết VADS để 
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá 
nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vê lợi ích Nhà 
4 Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật 
Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân 
dân, Hà Nội. 
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
nước và lợi ích công cộng. Vì vậy, pháp luật 
về khởi kiện VADS có vai trò quan trọng 
đối với tính hiệu quả của khởi kiện VADS: 
Thứ nhất, PLTTDS về khởi kiện 
VADS đầy đủ, công khai, minh bạch là cơ 
sở để các chủ thể có đầy đủ các phương tiện 
pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
của mình trước Tòa án, chống lại các hành 
vi xâm phạm về quyền và lợi ích của các chủ 
thể và đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ 
thể này được thực hiện. 
Thứ hai, PLTTDS về khởi kiện 
VADS đáp ứng tính thống nhất, đồng bộ 
cũng như quy định cụ thể, rõ ràng, có cơ sở 
khoa học và không mâu thuẫn nhau thì Tòa 
án sẽ dễ dàng trong việc xem xét thụ lý để 
giải quyết VADS cũng như các chủ thể có 
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm 
thuận lợi trong việc tiếp cận công lý. 
Thứ ba, PLTTDS về khởi kiện 
VADS đáp ứng tính khả thi, phù hợp sẽ làm 
cho các quy định này không chỉ có ý nghĩa 
trên văn bản mà sẽ phát huy hiệu quả, hiệu 
lực trên thực tế nhằm đảm bảo quyền khởi 
kiện của các chủ thể được thực hiện. 
1.3 Thực tiễn thực hiện các quy 
định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi 
kiện vụ án dân sự 
1.3.1.Những kết quả đạt được 
trong việc thực hiện các quy định của pháp 
luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân 
sự 
Trong những năm qua, Tòa án luôn nỗ 
lực thụ lý giải quyết các tranh chấp dân sự 
5 Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo 
Tổng kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ trọng 
một cách nhanh chóng, toàn diện, kịp thời 
đảm bảo quyền khởi kiện, quyền tiếp cận 
công lý của người dân. Các hoạt động của 
Tòa án và những thành tựu của Tòa án được 
thể hiện qua các thống kê sau: 
Từ ngày 01/10/2016 đến ngày 
30/09/2017, các Tòa án đã giải quyết được 
438.625 vụ việc trong tổng số 491.384 vụ 
việc đã thụ lý (đạt tỷ lệ 89,3%) trong tất cả 
các lĩnh vực, trong đó số lượng các vụ việc 
dân sự chiếm tỷ lệ cao nhất trong 3 lĩnh vực 
dân sự, hình sự và hành chính. Cụ thể, ngành 
Tòa án đã thụ lý 387.051 vụ việc dân sự, đã 
giải quyết, xét xử 338.756 vụ việc dân sự, 
đạt tỷ lệ 87.5% vượt 2.5% chỉ tiêu đề ra (so 
với cùng kỳ năm trước số thụ lý tăng 27.303 
vụ, giải quyết tăng 32.033 vụ)5.‡‡‡‡‡ 
Trong số các vụ việc dân sự, hôn nhân 
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động 
mà các Tòa án đã thụ lý để giải quyết theo 
thủ tục sơ thẩm, số lượng vụ việc dân sự là 
119.927 vụ (tăng 6.835 vụ so với cùng kỳ 
năm trước), chiếm tỷ lệ cao là các tranh chấp 
về hợp đồng vay tài sản, tranh chấp về 
quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng 
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh 
chấp đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, 
lấn chiếm; các vụ việc hôn nhân và gia đình 
là 231.662 vụ (tăng 24.850 vụ so với cùng 
kỳ năm trước), trong đó ly hôn do mâu thuẫn 
gia đình chiếm tới 73% tổng số các vụ án ly 
hôn mà Tòa án đã giải quyết; các vụ việc 
kinh doanh thương mại là 15.446 vụ việc 
(giảm 576 vụ việc), chủ yếu là tranh chấp 
tâm công tác của các Tòa án nhân dân năm 
2018, tr.4 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 23 
trong lĩnh vực đầu tư tài chính, ngân hàng 
và mua bán hàng hóa; các vụ việc lao động 
là 4.810 vụ (giảm 2.618 vụ so với cùng kỳ 
năm trước), chủ yếu là tranh chấp về xử lý 
kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hơp 
đồng lao động6.§§§§§ 
Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ 
việc dân sự, các Tòa án đã quan tâm, khắc 
phục có hiệu quả để các vụ việc dân sự quá 
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp 
luật. Năm 2015 chỉ còn 116 vụ quá hạn do 
lỗi chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,03%, giảm 
0,01% so với cùng kỳ năm 2014. Năm 2016 
chỉ còn 67 vụ quá hạn do lỗi chủ quan, 
chiếm tỷ lệ 0,02% giảm 0,01% so với cùng 
kỳ năm 20157.******Đến năm 2017, công tác giải 
quyết, xét xử các vụ việc dân sự của Tòa án 
vẫn giữ vững nhằm bảo vệ kịp thời quyền và 
lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, 
cá nhân. 
Qua số liệu thống kê hàng năm và gần 
nhất là năm 2017, có thể thấy ngành Tòa án 
đang nỗ lực phấn đấu nâng cao chất lượng 
hoạt động xét xử, thời gian thụ lý các vụ việc 
được rút ngắn nhằm kịp thời bảo vệ quyền, 
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. 
1.3.2 Những hạn chế, bất cập 
trong việc thực hiện những quy định của 
pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ 
án dân sự 
Trong công tác thực hiện các quy định 
của PLTTDS về khởi kiện VADS còn tồn 
tại những hạn chế, bất cập sau: 
6 Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo 
Tổng kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ trọng 
tâm công tác của các Tòa án nhân dân năm 
2018, tr.4 
Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc trong 
việc thực hiện quy đinh về thẩm quyền của 
Tòa án. 
Các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh 
trong đời sống xã hội khi được viện dẫn đến 
Tòa án thì Tòa án phải thụ lý giải quyết trừ 
trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy 
nhiên, hiện nay vụ việc chưa có điều luật áp 
dụng tại thời điểm giải quyết vụ việc dân sự, 
chưa có quy phạm pháp luật cụ thể nào để 
điều chỉnh trực tiếp vụ việc dân sự đó mà 
phải cần đến tập quán, tương tự pháp luật, 
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án 
lệ hay lẽ công bằng để có thể giải quyết được 
vụ việc dân sự (theo Điều 45, BLTTDS năm 
2015). 
Mặt khác, việc Tòa án thụ lý sai thẩm 
quyền vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến 
quyền khởi kiện của các chủ thể. Chẳng hạn, 
ngày 22/03/2017, Cơ quan điều tra của Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao đã có thông báo 
gửi Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Kiên 
Giang về kết quả điều tra sơ bộ liên quan 
đến đơn thư tố cáo Thẩm phán, Thư ký của 
huyện Phú Quốc (Kiên Giang) có sai phạm 
khi giải quyết sơ thẩm vụ “Tranh chấp hợp 
đồng dân sự góp vốn” giữa Công ty cổ phần 
Núi Ngọc và ông Lê Minh Huê, bà Lê Thị 
Thanh Tú. Trong quá trình kiểm sát đã phát 
hiện TAND huyện Phú Quốc đã thụ lý, xét 
xử sơ thẩm vụ án là có dấu hiệu sai thẩm 
quyền vì trong VADS có đương sự đang 
sống và làm việc tại Canada nên theo quy 
7 Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo 
Tổng kết công tác năm 2016 và nhiệm vụ 
trọng tâm công tác của các Tòa án nhân dân 
năm 2017, tr.4 
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
định của PLTTDS vụ án phải thuộc thẩm 
quyền giải quyết của TAND cấp Tỉnh8.†††††† 
Thứ hai, khó khăn, hạn chế từ việc khởi 
kiện của chủ thể là người không biết chữ, 
người mất NLHVDS, người có khó khăn 
trong nhận thức và làm chủ hành vi, người 
khuyết tật. 
 Theo quy định tại điểm c, Khoản 1, 
Điều 189, BLTTDS năm 2015 trường hợp 
người khởi kiện không biết chữ, người 
khuyết tật nhìn, người không thể tự mình 
làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình 
ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người 
khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người 
có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. 
Tuy nhiên, thực tế áp dụng quy định trên còn 
một số bất cập như những người không biết 
chữ là những người không biết đọc, không 
biết viết nhưng trên thực tế có một số người 
không biết chữ nhưng vẫn ký tên và ghi 
được họ, tên mình như người biết chữ; nếu 
Tòa án không kiểm tra, xác minh kỹ sẽ dẫn 
đến nhầm lẫn, vi phạm thủ tục tố tụng. Việc 
không xác minh người khởi kiện có biết chữ 
hay không là một thiếu sót, có thể dẫn đến 
việc hủy án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục 
tố tụng. 
Thứ ba, khó khăn, hạn chế từ phía các cá 
nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm hỗ 
trợ đương sự thực hiện quyền khởi kiện 
thông qua việc cung cấp tài liệu, chứng cứ. 
Thực tế, khi giải quyết các vụ án mà có 
các tài liệu, chứng cứ đang do cơ quan, tổ 
chức lưu giữ, quản lý thì việc thu thập chứng 
8 Hà Thương (2018), “Thẩm phán và Thư ký bị 
tố giả mạo chữ ký đương sự”, Báo điện tử 
Thanh niên, ngày 17/07/2018 
cứ không hề đơn giản. Trong rất nhiều vụ 
án, mặc dù đương sự đã cất công đi lại nhiều 
lần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các 
chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ 
án để họ giao nộp cho Tòa án nhưng đều bị 
từ chối với đủ mọi lý do. Việc từ chối 
thường chỉ bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Với 
cách từ chối này, đương sự khó có thể chứng 
minh việc họ đã áp dụng mọi biện pháp 
nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ để 
làm cơ sở yêu cầu Tòa án thu thập9.‡‡‡‡‡‡Chính 
vì vấn đề này dẫn đến Tòa án không thể đảm 
bảo giải quyết triệt để các yêu cầu khởi kiện 
của người dân, dẫn đến quyền khởi kiện của 
người dân bị ảnh hưởng. 
2. Những kiến nghị nhằm hoàn 
thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự 
Thứ nhất, cần ban hành các Nghị 
quyết, văn bản dưới luật hướng dẫn các quy 
định về khởi kiện Vụ án dân sự. 
Trên cơ sở BLTTDS năm 2015, Nhà 
nước ta cần ban hành thêm các văn bản quy 
phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể đối với các 
quy định còn mang tính chất chung chung, 
mơ hồ đặc biệt là đối với các vấn đề hiện 
còn nhiều vướng mắc trong các quy định 
khiến cho việc thực hiện quyền khởi kiện và 
trách nhiệm thụ lý vụ án của Tòa án trên 
thực tế bị ảnh hưởng và hạn chế như vấn đề 
về thời hiệu khởi kiện; về việc thay đổi, sửa 
đổi, bổ sung đơn khởi kiện trước khi thụ lý 
vụ án và trước khi xét xử phiên tòa sơ thẩm; 
về xác định tư cách pháp lý của hộ gia đình, 
tổ hợp tác khi tham gia vào các quan hệ 
9 Phạm Thái Quý (2010), “Thu thập chứng cứ 
trong tố tụng còn gian nan”, Báo điện tử Đại 
biểu nhân dân, ngày 03/05/2010. 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 25 
PLTTDS; phân công Thẩm phán giải quyết 
vụ việc hay vấn đề gửi đơn khởi kiện thông 
qua hệ thống trực tuyến; 
Thứ hai, cần quy định cụ thể việc xác 
định chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể 
khi bị xâm phạm về quyền và lợi ích có thể 
ủy quyền cho người khác khởi kiện thay. 
Nếu chỉ hiểu những chủ thể tham gia 
vào quan hệ pháp luật dân sự mới có quyền 
khởi kiện VADS là hạn chế quyền của các 
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, Nghị 
quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 
2015 cần đưa ra tiêu chí xác định chủ thể có 
quyền, lợi ích bị xâm phạm có quyền khởi 
kiện. 
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi 
cho người có quyền, lợi ích bị xâm hại trong 
việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích 
hợp pháp của mình, tránh việc áp dụng 
không đúng các quy định tại Điều 186, 189 
của BLTTDS năm 2015 theo hướng bắt 
buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại 
phải ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện 
như trên và để đảm bảo thống nhất áp dụng 
pháp luật rất cần có hướng dẫn cụ thể của 
hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối 
cao. 
Đối với các vụ án ly hôn không áp 
dụng chế độ người đại diện có quy định đích 
thân chồng hay vợ phải đứng đơn khởi kiện 
và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai 
thay mặt mình được. Thực tiễn cho thấy 
những vụ xin ly hôn liên quan đến vợ, chồng 
bị mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) 
ngày càng trở nên phổ biến mà pháp luật 
hiện nay lại chưa có quy định điều chỉnh 
tình huống này. Vậy cha, mẹ có thể là người 
đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp 
cho con họ - người bị mất NLHVDS trong 
vụ án ly hôn hay không? Hiện nay thì Tòa 
án vẫn không tiếp nhận giải quyết những 
trường hợp mà người đại diện khởi kiện là 
cha hoặc mẹ của những người này. Do đó, 
nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền, lợi 
ích hợp pháp của công dân, cần ban hành 
văn bản hướng dẫn theo đó cho phép cha, 
mẹ là người giám hộ theo hàng thứ hai (vợ, 
chồng là người giám hộ theo hàng thứ nhất) 
có quyền đại diện cho con bị mất NLHVDS 
trong khởi kiện và tham gia tố tụng ở vụ việc 
ly hôn. 
Để đảm bảo việc áp dụng thống nhất 
pháp luật trong TAND, cần có sự thống nhất 
trong nhận thức về quy định của pháp luật. 
Vì vậy cần hướng dẫn cụ thể việc ủy quyền 
thực hiện việc khởi kiện của cá nhân. 
Thứ ba, cần sửa đổi quy định pháp 
luật về xác định thẩm quyền của Tòa án theo 
lãnh thổ. 
Việc nghiên cứu, phân tích của luận 
văn cho thấy cấu trúc các quy định tại Điều 
39 và Điều 40 BLTTDS năm 2015 về thẩm 
quyền theo lãnh thổ chưa thực sự hợp lý. Xét 
về bản chất và logic của vấn đề thì các quy 
định tại Điều 39 và Điều 40 của BLTTDS 
năm 2015 đều nhằm xác định thẩm quyền 
của Tòa án theo lãnh thổ nhưng tiêu đề của 
Điều 39 được đặt tên là :”Thẩm quyền của 
Tòa án theo lãnh thổ”, trong khi đó tiêu đề 
của Điều 40 lại là “Thẩm quyền của Tòa án 
theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu 
cầu”. Vậy phải chăng quy định tại Điều 40 
BLTTDS năm 2015 không phải là quy định 
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
về thẩm quyền theo lãnh thổ10.§§§§§§Ngoài ra, để 
xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh 
thổ một cách chính xác thì thứ tự áp dụng sẽ 
là (1) điểm c, Khoản 1, Điều 39; (2) điểm b, 
Khoản 1, Điều 39; (3) Điều 40 và cuối cùng 
là (4) điểm a, Khoản 1, Điều 39; như vậy sẽ 
gây khó khăn cho các chủ thể muốn khởi 
kiện ra Tòa án khi xác định thẩm quyền của 
Tòa án theo lãnh thổ. Chính vì vậy, sẽ hợp 
lý hơn nếu các quy định tại Điều 40 
BLTTDS năm 2015 được thể hiện trong 
Điều 39 của Bộ luật này và sắp xếp các điều 
khoản theo thứ tự ưu tiên hợp lý các tiêu chí 
sau: 
(i) Thẩm quyền của Tòa án đối với 
tranh chấp bất động sản được quy định theo 
nguyên tắc: 
- Tòa án nơi có bất động sản có thẩm 
quyền đối với trường hợp đối tượng tranh 
chấp là bất động sản, trừ trường hơp khác 
được pháp luật quy định (vụ án lý hôn 
nhưng có tranh chấp là tài sản bất động 
sản,); 
- Đối với tranh chấp có đối tượng là bất 
động sản thì các đương sự không có quyền 
lựa chọn Tòa án, trừ trường hợp lựa chọn 
Tòa án nơi có một trong các bất động sản 
tranh chấp nếu tranh chấp nhiều bất động 
sản; 
(ii) Thẩm quyền của Tòa án đối với 
các tranh chấp không phải là bất động sản 
được quy định theo thứ tự ưu tiên sau: 
- Xác định theo sự thỏa thuận hợp pháp 
của các bên chủ thể; 
- Xác định theo sự lựa chọn của nguyên 
đơn, người yêu cầu trong số các Tòa án được 
pháp luật quy định; 
- Xác định theo nơi cư trú, sinh sống, làm 
việc hoặc có trụ sở nếu bị đơn là cơ quan, tổ 
chức. 
3. Kết luận: 
Thông qua phân tích các quy định của 
pháp luật, tác giả nhận thấy BLTTDS năm 
2015 đã kế thừa được những điểm tích cực 
của các BLTTDS cũ cũng như các nghị 
quyết hướng dẫn trước đây mặc dù đã hết 
hiệu lực nhưng vẫn mang giá trị tham khảo. 
Bên cạnh đó, việc quy định “Tòa án không 
được phép từ chối giải quyết vụ việc dân sự 
vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là 
một bước tiến mới trong tư tưởng lập pháp 
tạo tiền đề pháp lý vững chắc cho người dân 
thực hiện quyền khởi kiện của mình. Trên 
cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, tác giả 
đã đưa ra một số đề xuất về hoàn thiện và 
thực hiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả 
bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện, góp 
phần xây dựng một xã hội ổn định, công 
bằng và văn minh/./ 
10 Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội thảo 
“Những quy định chung của BLTTDS năm 
2015”, Hà Nội, tháng 06/2018, tr.55. 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 27 
Tài liệu tham khảo: 
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. 
2. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo 
trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, 
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 
3. Hà Thương (2018), “Thẩm phán và 
Thư ký bị tố giả mạo chữ ký đương 
sự”, Báo điện tử Thanh niên, ngày 
17/07/2018. 
4. Nguyễn Công Bình (2017), Giáo 
trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, 
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 
5. Phạm Thái Quý (2010), “Thu thập 
chứng cứ trong tố tụng còn gian 
nan”, Báo điện tử Đại biểu nhân 
dân, ngày 03/05/2010. 
6. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo 
cáo Tổng kết công tác năm 2017 và 
nhiệm vụ trọng tâm công tác của các 
Tòa án nhân dân năm 2018. 
7. Trần Anh Tuấn (2018), Kỷ yếu hội 
thảo “Những quy định chung của 
BLTTDS năm 2015”, Hà Nội, tháng 
06/2018. 
8. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt 
Nam - Bộ GD &ĐT (1999), Đại từ 
điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông 
tin, Hà Nội. 
9. Từ điển tiếng Việt thông dụng 
(1996), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
Địa chỉ tác giả: Khoa Luật, Trường Đại học 
Mở Hà Nội 
Email: dinhhang0409@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfnhung_kien_nghi_nham_hoan_thien_phap_luat_ve_khoi_kien_vu_an.pdf