Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy

Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng

Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững

những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối

phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học

Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng

ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên

khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.

pdf 9 trang kimcuc 10900
Bạn đang xem tài liệu "Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy

Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy
47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đa số các sinh viên chuyên ngành 
tiếng Pháp ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội có 
đầu vào là không và bắt đầu học tiếng Pháp từ đầu. 
Trong khi đó sinh viên chuyên ngành tiếng Anh khi 
bước vào đại học đa số đã đạt được trình độ B1. 
Sau 4 năm học, sinh viên tiếng Pháp và tiếng Anh 
đều có đầu ra như nhau, đó là C1. Đây quả là bài 
toán vô cùng khó đối với không chỉ sinh viên tiếng 
Pháp mà ngay cả đối với giảng viên tiếng Pháp. 
Với thời lượng quá ít ỏi như vậy mà ngữ pháp 
tiếng Pháp tương đối khó nên rất nhiều sinh viên 
không nắm được các hiện tượng ngữ pháp cơ bản.
TRẦN HƯƠNG LAN*
*Đại học Sư phạm Hà Nội, lancuong70@yahoo. com
Ngày nhận bài: 19/11/2017; ngày sửa chữa: 13/12 /2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017
NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG TIẾNG PHÁP
VÀ GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY
TÓM TẮT
Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng 
Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững 
những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối 
phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học 
Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng 
ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên 
khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.
Từ khóa: dạng bị động, dịch thuật, giảng dạy ngữ pháp
Trong quá trình giảng dạy môn ngữ pháp cho 
sinh viên khoa Pháp, thông qua việc thống kê, 
phân tích các lỗi sai của sinh viên khi họ thực hành 
trên lớp và làm các bài tập tự học, chúng tôi nhận 
thấy các sinh viên gặp khá nhiều khó khăn khi 
học về dạng bị động đặc biệt là khi chuyển từ câu 
chủ động sang bị động và ngược lại hoặc khi dịch 
những câu bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và 
tiếng Việt sang tiếng Pháp.
Nghiên cứu và tìm ra những khó khăn của sinh 
viên khi học hiện tượng ngữ pháp này, từ đó đưa ra 
biện pháp giải quyết và khắc phục là một việc làm 
cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong 
học tập và giảng dạy nội dung này.
48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
2. CÁC CÁCH DIỄN ĐẠT VÀ GIÁ TRỊ SỬ 
DỤNG CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG
2.1. Các cách diễn đạt bị động
2.1.1. Bị động với cấu trúc “être + participe 
passé”
Bị động trong tiếng Pháp được biểu hiện bằng 
dạng cấu trúc đặc biệt, gồm: trợ động từ “être” và 
quá khứ phân từ (PP) của động từ độc lập. Hãy 
quan sát sơ đồ chuyển sang dạng bị động như sau:
Pa: SN1 + V + SN2
 Pp: SN2 + être + PP + par/de + SN1
(Pa: câu chủ động, Pp: câu bị động, SN1: ngữ 
đoạn danh từ 1, V: động từ, SN2: ngữ đoạn danh từ 
2, PP: phân từ quá khứ)
Ví dụ: Pa: Nam fait ce travail.
 Pp: Ce travail est fait par Nam.
Đây là cấu trúc bị động được sử dụng nhiều 
nhất trong tiếng Pháp.
2.1.2. Bị động với động từ đối xứng
Động từ đối xứng còn được gọi là động từ có 
khả năng xuất hiện với cùng hệ thống đặc trưng về 
mặt hình thái học trong câu bị động và trong câu 
biến đổi sang dạng bị động. Người ta coi việc sử 
dụng động từ đối xứng như dạng thức đặc biệt của 
bị động vì không phải thêm trợ động từ “être” vào 
trong câu bị động. Dạng bị động với những động 
từ này đơn giản là một sự thay đổi vị trí danh ngữ. 
Hãy xem xét dạng bị động của động từ đối xứng 
bằng sơ đồ sau:
Pa: SN1 + V + SN2
Pp: SN2 + V + SN1 (Pp hoàn thành).
Hoặc: SN2 + V (Pp chưa hoàn thành)
Ví dụ: Pa: Le vent casse les branches.
 Pp: Les branches cassent sous le vent./
Les branches cassent.
2.1.3. Bị động với động từ phản thân 
Theo Grévisse (1988, tr.541), “Những động từ 
phản thân có ý nghĩa bị động khi chủ ngữ chịu 
hành động mà không hoàn thành hành động”. 
Người ta thường sử dụng động từ phản thân với ý 
nghĩa bị động nhưng chỉ dùng đối với chủ ngữ chỉ 
vật và luôn không chỉ rõ tác nhân. Chúng ta có sơ 
đồ sau:
Pa: SN1 + V + SN2
Pp: SN2 + Pronom (de réfléchi) +V
Ví dụ: 
Pa: On vend ce livre à la librairie Tràng Tiền.
 Pp: Ce livre se vend à la librairie Tràng Tiền.
2.1.4. Bị động với cấu trúc “se faire/se laisser 
+ infinitif”
Trong tiếng Pháp, có một cấu trúc đặc biệt của 
dạng bị động: se faire/se laisser như trợ động từ + 
động từ nguyên thể, thay vì động từ “être” + PP. 
Động từ “se faire” nhấn mạnh vào sự tham gia 
một cách có chủ ý của chủ ngữ vào hành động. 
Động từ “se laisser” chỉ sự tham gia một cách 
miễn cưỡng hoặc không có chủ đích của chủ ngữ 
đối với hành động.
Ví dụ: (1) Elle se fait aimer de tout le monde.
 (2) Elle se laisse aimer de tout le monde.
Trong câu (1), “se faire aimer” có ý nghĩa 
rằng, cô ấy làm tất cả mọi chuyện để được yêu 
quý; nhưng “se laisser aimer” có ý chỉ rằng, tất 
cả mọi người yêu quý cô ấy vì sự tử tế của cô ấy 
hoặc là vì đặc điểm nào đó của cô ấy. “se laisser 
aimer” là một hành động không chủ đích và nó 
tương đương với “être aimé”.
2.2. Giá trị sử dụng của dạng bị động
2.2.1. Nhấn mạnh
Khi chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố của 
câu, chúng ta sẽ thường đặt yếu tố này đứng đầu 
49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
câu. Dạng bị động cho phép chúng ta nhấn mạnh 
vào bổ ngữ của hành động, bổ ngữ tác nhân và 
chính vào hành động.
Ví dụ: Ce film a été projecté plusieurs fois.
Trong câu này, người ta muốn nhấn mạnh vào 
“ce film” chứ không phải là những bộ phim khác 
hoặc người chiếu bộ phim đó.
2.2.2. Một yếu tố làm rõ nghĩa
Ví dụ: Pierre est un bon ouvrier. Le patron a 
bien apprécié ses mérites.
Theo nguyên tắc, tính từ sở hữu thay cho một 
đại từ nhân xưng gần với nó hơn. Trong trường 
hợp này, người ta sẽ nghĩ rằng ses mérites thay cho 
les mérites du patron. Nhưng thực tế, ses mérites 
thay cho les mérites de Pierre. Dạng bị động cho 
phép chúng ta loại bỏ đi sự mơ hồ của tính từ sở 
hữu ses.
Pierre est un bon ouvrier. Ses mérites sont bien 
appréciées par le patron. 
2.2.3. Tổ chức lời nói
Theo nguyên tắc trật tự của ngữ đoạn danh từ 
(chủ ngữ là danh từ chỉ sự sống đối tượng là 
danh từ không chỉ sự sống, chủ ngữ số ít đối 
tượng số nhiều), dạng bị động cho phép thiết lập 
mối quan hệ này.
Ví dụ: Je suis trompé par cette nouvelle.
Thay vì: Cette nouvelle me trompe.
Phát ngôn dạng chủ động “Cette nouvelle me 
trompe” thì không thông dụng bằng phát ngôn 
dạng bị động “Je suis trompé par cette nouvelle”.
Hoặc: “L’embouteillage augmente par les 
vacances” thì được chấp nhận hơn là “Les 
vacances augmentent l’embouteillage”.
2.2.4. Giảm nhẹ cấu trúc
Có những đoạn văn, một cụm danh từ là bổ 
ngữ của rất nhiều động từ. Trong trường hợp này, 
dạng bị động được dùng để làm cho câu văn ngắn 
lại hoặc giảm nhẹ đi và thu hút người đọc vào 
thành phần quan trọng của câu.
Ví dụ: Les patrons ont pris une décision. Les 
syndicats ont désapprouvé cette décision. Les 
travailleurs l’ont mal accueillie. Le gouvernement 
va la modifier.
(Morsel, 1993, tr.124)
Câu văn sẽ được giảm nhẹ nếu người ta dùng 
dạng bị động.
La décision prise par les patrons, désapprouvée 
par les syndicats et mal accueillie par les 
travailleurs va être modifiée par le gouvernement.
2.2.5. Sự trung hòa của ngôn ngữ khoa học
Trong ngôn ngữ, nhất là trong ngôn ngữ khoa 
học, khi muốn đưa ra một thông tin có tính khách 
quan hơn, người ta hay dùng dạng bị động.
Ví dụ: Le vaccin contre la rage a été découvert 
en 1885 par Louis Pasteur.
Trong ví dụ này, chủ ngữ “Louis Pasteur” làm 
ra hành động “découvrir” và đứng cuối câu; điều 
này làm giảm đi ít nhiều vai trò của ông ấy trong 
câu và người đọc sẽ không chú ý đến sự hiện diện 
của ông ấy. Chính vì vậy, “Le vaccin contre la rage 
a été découvert en 1885 par Louis Pasteur.” diễn 
ra một cách khách quan.
3. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP 
CỦA SINH VIÊN KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG 
TIẾNG PHÁP
Trong các cách diễn đạt bị động của tiếng Pháp, 
“être +PP” là cấu trúc bị động thường gặp nhất và 
sinh viên cũng gặp khó khăn nhiều nhất khi học 
cấu trúc bị động này. Vì vậy trong phần này, chúng 
50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
tôi sẽ tập trung phân tích những khó khăn của sinh 
viên khi học dạng bị động “être + PP”.
Để tìm ra những khó khăn của sinh viên, chúng 
tôi đã tiến hành điều tra về việc sử dụng câu bị 
động của 30 sinh viên năm thứ 2 khoa Pháp trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội. Chúng tôi chọn sinh 
viên năm thứ 2 là đối tượng nghiên cứu vì họ vừa 
được học hiện tượng ngữ pháp này. Cuộc điều tra 
của chúng tôi gồm 2 phần:
Phần 1: Phiếu điều tra
Phần 2: Bài test về cách sử dụng dạng bị động 
trong tiếng Pháp
Phiếu điều tra gồm 10 câu giúp chúng tôi biết 
được sinh viên đã nắm được khái niệm của câu 
bị động trong tiếng Pháp chưa, khi học dạng bị 
động họ gặp những khó khăn gì và nguyên nhân 
của những khó khăn đó. Bài test gồm 3 bài tập: 
nhận biết câu bị động và câu chủ động, chuyển 
từ câu chủ động sang bị động và ngược lại, dịch 
từ tiếng Việt sang tiếng Pháp và tiếng Pháp sang 
tiếng Việt. Sau khi nhận được bài test từ các sinh 
viên, chúng tôi đã thống kê tất cả các lỗi mà sinh 
viên gặp phải. Kết quả của phiếu điều tra và bài 
test là cơ sở để chúng tôi xác định được những khó 
khăn và nguyên nhân của những khó khăn, cũng 
như đưa ra một số đề xuất sư phạm.
3.1. Chưa nhận biết được câu chủ động và 
câu bị động 
Rất nhiều sinh viên không thể phân biệt được 
câu chủ động và câu bị động. Các em thường nhầm 
lẫn giữa hai loại câu này. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này 
vì câu bị động tiếng Pháp có sự tham gia của trợ 
động từ “être”, trong khi đó, động từ tiếng Pháp 
khi chia ở quá khứ cũng có một số động từ được 
chia với trợ động từ être. Chính sự giống nhau 
này đã gây cho các em khá nhiều khó khăn trong 
việc nhận biết. Đặc biệt là nếu trong câu bị động 
xuất hiện những động từ khi chia ở quá khứ có 
thể chia với trợ động từ “être” hoặc “avoir” như 
monter, descendre, sortir, passer, rentrer, retourner, 
remonter, redescendre, nhiều sinh viên cho rằng, 
đó là câu chủ động động từ chia ở quá khứ.
Ví dụ :
Le mobilier du jardin était rentré chaque 
automne dans une petite cabane en sapin.
Dès que la malle aura été redescendue à la 
cave, la chambre sera vite en ordre. 
La pendule est remontée chaque dimanche à 
midi. 
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77)
Ba câu trên, các chủ ngữ “le mobilier du 
jardin, la malle, la pendule” không thực hiện các 
hành động “rentrer, redescendre, remonter” mà 
chịu tác động của hành động. Vì vậy, ba câu này 
không thể là câu chủ động được, chúng phải là câu 
bị động. Nhưng hầu hết các sinh viên cho rằng, đó 
là câu chủ động, động từ chia ở quá khứ với trợ 
động từ “être”. 
3.2. Xác định sai các thành phần của câu
Muốn chuyển đúng một câu chủ động sang bị 
động hoặc ngược lại, trước hết người học cần phải 
xác định đúng các thành phần của câu. Nhưng điều 
này cũng là một trở ngại đối với nhiều sinh viên. 
Ví dụ: L’entreprise réembauchera les ouvrières 
licenciées il y a un mois. 
(Morsel, 1993, tr.120)
Trong câu này “il y a un mois” không phải là bổ 
ngữ của cả câu mà nó chỉ là bổ ngữ của nhóm danh 
từ “les ouvrières licenciées”. Nhưng hầu hết các 
sinh viên mà chúng tôi tiến hành điều tra đều cho 
rằng “il y a un mois” là bổ ngữ của cả câu, họ đã 
không để ý đến thời của động từ “réembauchera”. 
Động từ “réembauchera” chia ở thì tương lai vì 
vậy “il y a un mois” (cách đây một tháng) không 
thể là bổ ngữ của cả câu. Nếu “il y a un mois” là 
bổ ngữ của cả câu, động từ “réembaucher” phải 
chia ở quá khứ không phải ở tương lai.
51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Chính vì xác định sai các thành phần của câu 
mà nhiều sinh viên đã chuyển sai câu trên.
Câu sai: Les ouvrières licenciées seront 
réembauchées par l’entreprise il y a un mois.
Câu đúng: Les ouvrières licenciées il y a un 
mois seront réembauchées par l’entreprise
Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy, 
việc các sinh viên xác định sai thành phần của câu 
còn do vốn từ vựng của các em quá nghèo nàn, các 
em không hiểu được hết nghĩa của câu cần chuyển. 
Do không hiểu hết được nghĩa nên các em đã xác 
định sai thành phần của câu. Vì xác định sai thành 
phần của câu, các em đã chuyển sai từ câu chủ 
động sang bị động hoặc ngược lại.
3.3. Không nắm vững các hiện tượng ngữ 
pháp cơ bản khác.
Ngữ pháp tiếng Pháp rất khó và có nhiều điểm 
không giống với tiếng Việt. Vì vậy, đa số các sinh 
viên chưa nắm vững các hiện tượng ngữ pháp cơ 
bản như đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, gián tiếp, thời 
thể của động từ, vấn đề hợp giống, số của phân từ 
quá khứ Chính vì không nắm vững những kiến 
thức ngữ pháp cơ bản nên các sinh viên đã mắc rất 
nhiều kiểu lỗi khác nhau.
Ví dụ: “On ne l’a pas promue.”
Một số sinh viên không tìm được bổ ngữ trực 
tiếp của câu này vì bổ ngữ trực tiếp thường đứng 
sau động từ nhưng trong trường hợp này, bổ ngữ 
trực tiếp được thay bằng đại từ làm bổ ngữ và đặt 
trước động từ. Do không xác định được bổ ngữ 
trực tiếp nên họ cho rằng, câu này không chuyển 
được sang dạng bị động. 
Có những sinh viên xác định được đại từ “l’” là 
bổ ngữ trực tiếp của câu, nhưng lại không biết “l’” 
là “le” hay “la”. Họ đã không để ý đến phân từ 
quá khứ “promue”. Do không biết “l’” là “le” hay 
“la” nên họ không biết chủ ngữ của câu bị động sẽ 
là “Il” hay “Elle”. Vì vậy có những em đã chuyển 
câu trên thành: *Il n’a pas été promu.
Mặt khác thời, thức của động từ tiếng Pháp quá 
phức tạp, quá khác biệt so với tiếng Việt. Đây là 
một trở ngại lớn nhất đối với sinh viên học tiếng 
Pháp. Lỗi sai liên quan đến động từ là lỗi mà các 
sinh viên mắc nhiều nhất trong khi sử dụng câu bị 
động tiếng Pháp.
3.4. Quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng 
Pháp hoặc tiếng Việt
Do chưa nắm vững những nét tương đồng và 
khác biệt giữa hai ngôn ngữ Pháp-Việt đã làm cho 
người học quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng 
Pháp hoặc tiếng Việt.
Khi dịch sang tiếng Việt không nhất thiết phải 
sử dụng hư từ bị, được. Hai hư từ này làm cho câu 
văn trở nên nặng nề. 
Ví dụ: Il est épuisé par ses voyages incessants.
Une promesse qui a été faite doit être tenue. 
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81)
có thể dịch như sau: 
Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.
Một lời đã hứa phải ráng giữ. 
(Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)
Nhưng đa số sinh viên sử dụng hai hư từ này 
để dịch hai câu trên.
Anh ta bị kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.
Một lời được hứa thì phải được làm.
Một lý do khác làm cho câu văn tiếng Việt trở 
nên nặng nề, đó là các sinh viên đã quá lạm dụng 
từ bởi khi dịch bổ ngữ tác nhân.
Anh ta bị kiệt sức bởi những chuyến đi không 
ngừng.
 Ngược lại khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng 
Pháp, một số sinh viên lại quá lệ thuộc vào câu tiếng 
Việt nên đã dịch sai. Trong các câu tiếng Việt sau:
Chúng tôi đã rất bối rối vì sự phát hiện này. 
(Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)
52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
Gương mặt cô ta ướt đẫm nước mắt. 
(Nguyễn Dũng, 2005, tr.157)
 Trong hai câu này không có hư từ bị, được 
nên khi dịch sang tiếng Pháp các sinh viên lại để 
các động từ troubler, mouiller ở dạng chủ động vì 
vậy có một số câu sai kiểu như sau:
* Nous avons troublé à cause de cette 
révélation.
* Son visage mouille les larmes.
Thực ra hai câu này khi dịch sang tiếng Pháp các 
động từ troubler, mouiller phải để ở dạng bị động
Nous avons été troublés par cette révélation. 
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81)
Son visage était mouillé de larmes. 
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.80)
4. GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY
Xuất phát từ những khó khăn của sinh viên đã 
được phân tích ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số 
đề xuất về việc giảng dạy và dịch thuật nhằm giúp 
cho người học có thể sử dụng tốt hơn dạng bị động 
trong tiếng Pháp.
4.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy
Từ trước đến nay, khi dạy một hiện tượng ngữ 
pháp, giảng viên thường sử dụng phương pháp 
truyền thống: truyền đạt những kiến thức cho sinh 
viên. Người học rất thụ động trong quá trình nắm 
bắt kiến thức. “Những năm gần đây các tài liệu 
giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong nước 
thường nói tới việc cần thiết phải chuyển từ dạy 
học giảng viên trung tâm sang dạy học học sinh 
trung tâm” (Trần Bá Hoành, 2003, tr.1). Chúng ta 
nên áp dụng phương pháp giảng dạy mới này khi 
dạy một hiện tượng ngữ pháp nói chung và dạy câu 
bị động nói riêng. Trước tiên, giảng viên yêu cầu 
người học quan sát các ví dụ về câu chủ động và bị 
động. Giảng viên sẽ không phải là người giới thiệu 
cấu trúc của câu bị động, quy tắc chuyển đổi mà 
chính sinh viên phải tự tìm ra trên cơ sở phân tích 
các ví dụ. Có như vậy, những kiến thức sinh viên 
thu được sẽ được nhớ lâu hơn.
4.2. Đưa nội dung giảng dạy các hiện tượng 
ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng 
vào các giờ thực hành tiếng.
 Dạy một ngoại ngữ, đó là làm cho người học 
phát triển toàn diện cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, 
viết. Ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng trong 
việc học ngoại ngữ. Người học phải nắm chắc ngữ 
pháp để có thể học tốt bốn kỹ năng trên. Ngược 
lại, thông qua bốn kỹ năng trên, người ta có thể 
dạy và học ngữ pháp. Vì vậy, giảng viên không chỉ 
dạy ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng 
trong các giờ ngữ pháp mà có thể đưa nội dung 
này vào trong quá trình dạy các kỹ năng nghe, nói, 
đọc, viết.
4.3. Một số tiêu chí phân biệt “être + PP” 
dạng bị động với “être + PP” hình thái động từ.
Một trong những nguyên nhân sử dụng sai 
dạng bị động trong tiếng Pháp của sinh viên Việt 
nam học tiếng Pháp đó là người học chưa phân 
biệt được câu chủ động và câu bị động đặc biệt là 
phân biệt câu chủ động có động từ chia ở quá khứ 
với trợ động từ être với câu bị động. Để phân biệt 
hai dạng này, chúng ta có thể dựa vào những dấu 
hiệu như sau:
- Thứ nhất, trong câu chủ động, chủ ngữ làm 
ra hành động trong khi trong câu bị động, chủ ngữ 
chịu tác động của hành động do bổ ngữ tác nhân 
gây ra.
Ví dụ: 
Nous sommes rentrés tard à la maison. (Pa).
Nous sommes trompés par ce garçon-là. (Pp).
- Thứ hai, trong cấu trúc bị động, thời của động 
từ phụ thuộc vào thời động từ “être” chứ không 
phụ thuộc vào sự kết hợp giữa “être + PP” như 
trong câu chủ động.
53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Ví dụ: Il est admis à l’école. (Pp chia thời hiện tại)
Il a été admis à l’école. (Pp chia thời quá khứ)
Elle est allée travailler en France (Pa chia thời 
quá khứ kép)
Elle était allée travailler en France. (Pa chia 
thời tiền quá khứ).
- Thứ ba, về mặt hình thức và ngữ nghĩa, 
những yếu tố tạo nên cấu trúc bị động thì khá độc 
lập với nhau: trong cấu trúc bị động, quá khứ phân 
từ được dùng với tư cách là tính ngữ (tức là không 
có động từ “être”) và có giá trị bị động như cấu 
trúc này.
Ví dụ: Une lettre est écrite = Une lettre écrite
La moto a été réparée = La moto réparée.
Trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ này 
có thể được thay thế bằng đại từ nhân xưng trung 
lập “le”. 
Ví dụ: Tu es aimé de tout le monde, tu l’es 
vraiment.
Ngoài ra, khác với hình thái về thời gian, quá 
khứ phân từ có thể đứng trước động từ “être”.
Ví dụ: “Aimé, tu l’étais.”
Khi quan sát những ví dụ trên, những yếu tố 
cấu trúc bị động không thể tạo ra đơn vị phân tích 
giống như dạng thức kép của động từ chủ động. 
Dạng thức này đặc trưng bởi sự kết hợp chặt chẽ 
của những thành tố.
Ví dụ: Mon père est arrivé
Người ta không nói: Mon père arrivé.
Đối với câu “Il est arrivé” quá khứ phân từ 
không thể thay bằng đại từ le hoặc đứng trước trợ 
động từ être.
Người ta không nói: Il l’est hoặc Arrivé, il l’est.
- Cuối cùng, về mối quan hệ biến đổi, dạng bị 
động “être + PP” là kết quả của một sự chuyển đổi 
từ mệnh đề chủ động. Trong khi dạng thức kép “être 
+ PP” thể hiện mệnh đề chủ động. Cấu trúc này 
không phải là kết quả của bất cứ sự biến đổi nào.
Ví dụ: Ce pont a été construit en 1990.
Câu này được chuyển từ câu “On a construit 
ce pont en 1990.”
Trong khi câu “Je suis sortie avec mes amis.” 
không phải là sự chuyển đổi từ bất cứ một câu nào.
Trên đây là bốn tiêu chí giúp cho người học 
phân biệt câu chủ động chia ở quá khứ với trợ 
động từ être và câu bị động với trợ động từ être.
4.4. Xác định rõ thành phần của câu trước 
khi chuyển từ câu chủ động sang bị động hoặc 
ngược lại.
Một nguyên nhân khác khiến sinh viên chuyển 
sai câu chủ động sang bị động, đó là xác định sai 
thành phần của câu. Vì vậy, giảng viên cần yêu cầu 
sinh viên xác định rõ thành phần của câu trước khi 
chuyển đặc biệt thành phần chủ ngữ, bổ ngữ trực 
tiếp trong câu chủ động và tác nhân trong câu bị 
động. Việc này giảng viên cũng thường không yêu 
cầu sinh viên vì họ nghĩ rằng, đây là vấn đề đơn 
giản. Nhưng thực tế, không ít sinh viên chuyển sai 
vì không xác định được thành phần của câu.
4.5. Các hiện tượng ngữ pháp cơ bản phải 
thường xuyên được củng cố trong suốt quá 
trình học.
Để học tốt dạng bị động, người học phải nắm 
vững rất nhiều các hiện tượng ngữ pháp khác. 
Nhưng thực tế các sinh viên thường không nhớ hết 
các hiện tượng ngữ pháp đã học. Chính vì vậy, khi 
học một hiện tượng ngữ pháp mới giảng viên cần 
giúp các em ôn lại những hiện tượng ngữ pháp có 
liên quan. Ví dụ khi học về câu bị động, sinh viên 
bắt buộc phải nắm vững một số các hiện tượng 
ngữ pháp cơ bản sau: thời thức của động từ, đại từ 
làm bổ ngữ trực tiếp, hợp giống số của phân từ quá 
54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
khứ Nói tóm lại các vấn đề ngữ pháp phải thường xuyên được củng cố, nhắc lại và nâng cao trong suốt 
quá trình học ngoại ngữ.
4.6. So sánh câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp
Hiện nay, hầu như sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp đều là sinh viên được xét tuyển từ tổ hợp Anh, 
Toán, Ngoại ngữ, có nghĩa là họ đã học tiếng Anh ít nhất 3 năm ở phổ thông và tiếng Anh là một trong 
ba môn xét tuyển vào đại học. Như vậy, họ đã đạt được một trình độ tiếng Anh tương đối tốt. Tiếng Anh 
và tiếng Pháp có chung nguồn gốc là cùng thuộc hệ ngôn ngữ Latinh nên hai thứ tiếng này có rất nhiều 
điểm tương đồng về mặt từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Đây là một lợi thế cho những người đã biết tiếng 
Anh học tiếng Pháp (Nguyễn Thị Dương Nga, 2017, tr.16). Dạng bị động của tiếng Anh có khá nhiều 
điểm giống tiếng Pháp, nhất là vấn đề liên quan đến thời trong câu bị động trong khi đó, vấn đề này trong 
tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. Nhờ đặc điểm này chúng tôi xin đưa ra một đề xuất như sau: đối với 
những sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, họ đã hiểu rõ cách dùng dạng bị động trong tiếng Anh, vì 
vậy, giảng viên có thể chỉ cho họ những điểm giống nhau của dạng bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp.
Ví dụ :
Câu chủ động
tiếng Pháp
Câu bị động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Anh
Cấu 
trúc
SN1 + V + SN2
SN2 + être + PP (participe 
passé) + par/de +SN1
SN2 + to be + PP (past participle) 
+ by +SN1
Thời, 
thức 
của 
động 
từ
V(présent)
V(passé composé)
V(imparfait)
V(plus-que-parfait)
V(futur simple)
V(conditionnel 
présent)
V(conditionnel 
passé)
être (présent) + PP
être (passé composé) + PP
être (imparfait) + PP
être (plus-que-parfait) + PP
être ( futur simple) + PP
être (conditionnel présent)+ PP
être (conditionnel passé) + PP
to be (simple present) + PP
to be (simple past) + PP
to be (past continuous) + PP
to be (past pefect) + PP
to be (simple future) + PP
to be (present conditionnel + PP
to be (past conditionnel) + PP
Bằng cách so sánh này sinh viên đã học tiếng Anh sẽ hiểu về dạng bị động tiếng Pháp một cách dễ 
dàng hơn.
4.7. Chú ý những nét khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Việt trong khi dịch.
Vấn đề dịch thuật, sinh viên thường quá lệ thuộc vào cách diễn đạt tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Sở dĩ 
như vậy vì người học chưa thấy rõ được những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Vì vậy 
trong quá trình giảng dạy giảng viên cần phải so sánh đối chiếu hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn 
ngữ. Nếu được phân tích kỹ những nét tương đồng và khác biệt giữa dạng bị động tiếng Pháp và lối nói 
tiếp thụ trong tiếng Việt thì người học sẽ thấy rằng, không nhất thiết cứ phải chuyển một câu bị động của 
tiếng Pháp thành lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt. Trong những trường hợp phải chỉ rõ bổ ngữ tác nhân thì 
khi dịch sang tiếng Việt cũng không nhất thiết phải dùng cấu trúc có sự tham gia của từ bởi mà người học 
có thể dùng cấu trúc có từ do, vì.
55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Il est épuisé par ses voyages incessants. 
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77) 
Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không 
ngừng. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)
Còn trong những trường hợp cần thể hiện sự 
đánh giá của người nói đối với tác động của hành 
động lên đối tượng thì người học phải có sự cân 
nhắc giữa cấu trúc có các từ bị và được. 
5. KẾT LUẬN
Dạng bị động trong tiếng Pháp là một hiện 
tượng ngữ pháp tương đối khó. Để học tốt dạng 
bị động đòi hỏi người học phải nắm vững khá 
nhiều các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Trong 
khi đó, sinh viên khoa tiếng Pháp hầu như chưa 
được học tiếng Pháp ở bậc phổ thông nên việc 
nắm chắc tất cả các hiện tượng ngữ pháp không 
phải là dễ đối với các em. Vì vậy, chúng tôi đã 
thực hiện nghiên cứu này với hy vọng nó sẽ là một 
tài liệu hữu ích cho giảng viên và sinh viên khoa 
tiếng Pháp nhằm giúp cho giảng viên có những 
phương pháp giảng dạy thích hợp, còn sinh viên 
nhận ra lỗi của mình và có thể tránh được các lỗi 
đó trong quá trình học dạng bị động tiếng Pháp./.
 Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Dũng (2005), 350 exercices (Niveau 
supérieur1), Bản dịch từ tiếng Pháp, NXB Thanh 
niên, TP Hồ Chí Minh.
Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm 
trung tâm: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí 
Thông tin khoa học giáo dục, số 96, tr.1-5.
Trần Hương Lan, Trần Thị Hoàng Minh (2011), So sánh 
dạng bị động trong tiếng Pháp và trong tiếng Việt, 
Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội.
Nguyễn Thị Dương Nga (2017), “Mạo từ trong tiếng 
Pháp và tiếng Anh - Một số lưu ý trong giảng dạy 
môn ngoại ngữ 2 tiếng Pháp cho học viên, sinh viên 
chuyên ngành tiếng Anh tại Học viện Khoa học 
Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, 
số 07, tr.16-25.
Cardiot-Cueilleron J. et autres (1992), 350 exercices 
(Niveau supérieur1), Hachette, Paris.
Grévisse M. (1988), Le Bon Usage – 3è édition, Duculot, 
Paris.
Morsel M.H. et autres (1993), L’exercisier, Grenoble.
A STUDY ON THE DIFFICULTIES IN LEARNING THE FRENCH PASSIVE VOICE 
ENCOUNTERED BY THE STUDENTS AT HANOI NATIONAL UNIVERSITY
OF EDUCATION AND SEVERAL SUGGESTIONS TO TEACHING METHODS
TRAN HUONG LAN
Abstract: Grammar plays an important role in learning a language in general and in learning French 
in particular. To learn French well, besides many other factors, the learner must first master basic 
grammatical phenomena. One of the most basic and popular grammatical phenomena in French is 
the passive voice. During the process of teaching, we realize that students often have to face a lot 
of difficulties in learning this grammatical phenomenon. This report aims to analyse the common 
difficulties of students in learning passive voice, as well as identify the reasons and then propose 
some suggestion to improve teaching methods. 
Keywords: passive voice, grammatical teaching methods, translation
Received: 19/11/2017; Revised: 13/12/2017; Accepted for publication: 30/12/2017

File đính kèm:

  • pdfnhung_kho_khan_thuong_gap_cua_sinh_vien_truong_dai_hoc_su_ph.pdf