Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy
Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng
Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững
những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối
phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng
ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên
khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.
Bạn đang xem tài liệu "Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy
47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, đa số các sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội có đầu vào là không và bắt đầu học tiếng Pháp từ đầu. Trong khi đó sinh viên chuyên ngành tiếng Anh khi bước vào đại học đa số đã đạt được trình độ B1. Sau 4 năm học, sinh viên tiếng Pháp và tiếng Anh đều có đầu ra như nhau, đó là C1. Đây quả là bài toán vô cùng khó đối với không chỉ sinh viên tiếng Pháp mà ngay cả đối với giảng viên tiếng Pháp. Với thời lượng quá ít ỏi như vậy mà ngữ pháp tiếng Pháp tương đối khó nên rất nhiều sinh viên không nắm được các hiện tượng ngữ pháp cơ bản. TRẦN HƯƠNG LAN* *Đại học Sư phạm Hà Nội, lancuong70@yahoo. com Ngày nhận bài: 19/11/2017; ngày sửa chữa: 13/12 /2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017 NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG TIẾNG PHÁP VÀ GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY TÓM TẮT Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy. Từ khóa: dạng bị động, dịch thuật, giảng dạy ngữ pháp Trong quá trình giảng dạy môn ngữ pháp cho sinh viên khoa Pháp, thông qua việc thống kê, phân tích các lỗi sai của sinh viên khi họ thực hành trên lớp và làm các bài tập tự học, chúng tôi nhận thấy các sinh viên gặp khá nhiều khó khăn khi học về dạng bị động đặc biệt là khi chuyển từ câu chủ động sang bị động và ngược lại hoặc khi dịch những câu bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và tiếng Việt sang tiếng Pháp. Nghiên cứu và tìm ra những khó khăn của sinh viên khi học hiện tượng ngữ pháp này, từ đó đưa ra biện pháp giải quyết và khắc phục là một việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong học tập và giảng dạy nội dung này. 48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 2. CÁC CÁCH DIỄN ĐẠT VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG 2.1. Các cách diễn đạt bị động 2.1.1. Bị động với cấu trúc “être + participe passé” Bị động trong tiếng Pháp được biểu hiện bằng dạng cấu trúc đặc biệt, gồm: trợ động từ “être” và quá khứ phân từ (PP) của động từ độc lập. Hãy quan sát sơ đồ chuyển sang dạng bị động như sau: Pa: SN1 + V + SN2 Pp: SN2 + être + PP + par/de + SN1 (Pa: câu chủ động, Pp: câu bị động, SN1: ngữ đoạn danh từ 1, V: động từ, SN2: ngữ đoạn danh từ 2, PP: phân từ quá khứ) Ví dụ: Pa: Nam fait ce travail. Pp: Ce travail est fait par Nam. Đây là cấu trúc bị động được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Pháp. 2.1.2. Bị động với động từ đối xứng Động từ đối xứng còn được gọi là động từ có khả năng xuất hiện với cùng hệ thống đặc trưng về mặt hình thái học trong câu bị động và trong câu biến đổi sang dạng bị động. Người ta coi việc sử dụng động từ đối xứng như dạng thức đặc biệt của bị động vì không phải thêm trợ động từ “être” vào trong câu bị động. Dạng bị động với những động từ này đơn giản là một sự thay đổi vị trí danh ngữ. Hãy xem xét dạng bị động của động từ đối xứng bằng sơ đồ sau: Pa: SN1 + V + SN2 Pp: SN2 + V + SN1 (Pp hoàn thành). Hoặc: SN2 + V (Pp chưa hoàn thành) Ví dụ: Pa: Le vent casse les branches. Pp: Les branches cassent sous le vent./ Les branches cassent. 2.1.3. Bị động với động từ phản thân Theo Grévisse (1988, tr.541), “Những động từ phản thân có ý nghĩa bị động khi chủ ngữ chịu hành động mà không hoàn thành hành động”. Người ta thường sử dụng động từ phản thân với ý nghĩa bị động nhưng chỉ dùng đối với chủ ngữ chỉ vật và luôn không chỉ rõ tác nhân. Chúng ta có sơ đồ sau: Pa: SN1 + V + SN2 Pp: SN2 + Pronom (de réfléchi) +V Ví dụ: Pa: On vend ce livre à la librairie Tràng Tiền. Pp: Ce livre se vend à la librairie Tràng Tiền. 2.1.4. Bị động với cấu trúc “se faire/se laisser + infinitif” Trong tiếng Pháp, có một cấu trúc đặc biệt của dạng bị động: se faire/se laisser như trợ động từ + động từ nguyên thể, thay vì động từ “être” + PP. Động từ “se faire” nhấn mạnh vào sự tham gia một cách có chủ ý của chủ ngữ vào hành động. Động từ “se laisser” chỉ sự tham gia một cách miễn cưỡng hoặc không có chủ đích của chủ ngữ đối với hành động. Ví dụ: (1) Elle se fait aimer de tout le monde. (2) Elle se laisse aimer de tout le monde. Trong câu (1), “se faire aimer” có ý nghĩa rằng, cô ấy làm tất cả mọi chuyện để được yêu quý; nhưng “se laisser aimer” có ý chỉ rằng, tất cả mọi người yêu quý cô ấy vì sự tử tế của cô ấy hoặc là vì đặc điểm nào đó của cô ấy. “se laisser aimer” là một hành động không chủ đích và nó tương đương với “être aimé”. 2.2. Giá trị sử dụng của dạng bị động 2.2.1. Nhấn mạnh Khi chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố của câu, chúng ta sẽ thường đặt yếu tố này đứng đầu 49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v câu. Dạng bị động cho phép chúng ta nhấn mạnh vào bổ ngữ của hành động, bổ ngữ tác nhân và chính vào hành động. Ví dụ: Ce film a été projecté plusieurs fois. Trong câu này, người ta muốn nhấn mạnh vào “ce film” chứ không phải là những bộ phim khác hoặc người chiếu bộ phim đó. 2.2.2. Một yếu tố làm rõ nghĩa Ví dụ: Pierre est un bon ouvrier. Le patron a bien apprécié ses mérites. Theo nguyên tắc, tính từ sở hữu thay cho một đại từ nhân xưng gần với nó hơn. Trong trường hợp này, người ta sẽ nghĩ rằng ses mérites thay cho les mérites du patron. Nhưng thực tế, ses mérites thay cho les mérites de Pierre. Dạng bị động cho phép chúng ta loại bỏ đi sự mơ hồ của tính từ sở hữu ses. Pierre est un bon ouvrier. Ses mérites sont bien appréciées par le patron. 2.2.3. Tổ chức lời nói Theo nguyên tắc trật tự của ngữ đoạn danh từ (chủ ngữ là danh từ chỉ sự sống đối tượng là danh từ không chỉ sự sống, chủ ngữ số ít đối tượng số nhiều), dạng bị động cho phép thiết lập mối quan hệ này. Ví dụ: Je suis trompé par cette nouvelle. Thay vì: Cette nouvelle me trompe. Phát ngôn dạng chủ động “Cette nouvelle me trompe” thì không thông dụng bằng phát ngôn dạng bị động “Je suis trompé par cette nouvelle”. Hoặc: “L’embouteillage augmente par les vacances” thì được chấp nhận hơn là “Les vacances augmentent l’embouteillage”. 2.2.4. Giảm nhẹ cấu trúc Có những đoạn văn, một cụm danh từ là bổ ngữ của rất nhiều động từ. Trong trường hợp này, dạng bị động được dùng để làm cho câu văn ngắn lại hoặc giảm nhẹ đi và thu hút người đọc vào thành phần quan trọng của câu. Ví dụ: Les patrons ont pris une décision. Les syndicats ont désapprouvé cette décision. Les travailleurs l’ont mal accueillie. Le gouvernement va la modifier. (Morsel, 1993, tr.124) Câu văn sẽ được giảm nhẹ nếu người ta dùng dạng bị động. La décision prise par les patrons, désapprouvée par les syndicats et mal accueillie par les travailleurs va être modifiée par le gouvernement. 2.2.5. Sự trung hòa của ngôn ngữ khoa học Trong ngôn ngữ, nhất là trong ngôn ngữ khoa học, khi muốn đưa ra một thông tin có tính khách quan hơn, người ta hay dùng dạng bị động. Ví dụ: Le vaccin contre la rage a été découvert en 1885 par Louis Pasteur. Trong ví dụ này, chủ ngữ “Louis Pasteur” làm ra hành động “découvrir” và đứng cuối câu; điều này làm giảm đi ít nhiều vai trò của ông ấy trong câu và người đọc sẽ không chú ý đến sự hiện diện của ông ấy. Chính vì vậy, “Le vaccin contre la rage a été découvert en 1885 par Louis Pasteur.” diễn ra một cách khách quan. 3. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP CỦA SINH VIÊN KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG TIẾNG PHÁP Trong các cách diễn đạt bị động của tiếng Pháp, “être +PP” là cấu trúc bị động thường gặp nhất và sinh viên cũng gặp khó khăn nhiều nhất khi học cấu trúc bị động này. Vì vậy trong phần này, chúng 50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY tôi sẽ tập trung phân tích những khó khăn của sinh viên khi học dạng bị động “être + PP”. Để tìm ra những khó khăn của sinh viên, chúng tôi đã tiến hành điều tra về việc sử dụng câu bị động của 30 sinh viên năm thứ 2 khoa Pháp trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Chúng tôi chọn sinh viên năm thứ 2 là đối tượng nghiên cứu vì họ vừa được học hiện tượng ngữ pháp này. Cuộc điều tra của chúng tôi gồm 2 phần: Phần 1: Phiếu điều tra Phần 2: Bài test về cách sử dụng dạng bị động trong tiếng Pháp Phiếu điều tra gồm 10 câu giúp chúng tôi biết được sinh viên đã nắm được khái niệm của câu bị động trong tiếng Pháp chưa, khi học dạng bị động họ gặp những khó khăn gì và nguyên nhân của những khó khăn đó. Bài test gồm 3 bài tập: nhận biết câu bị động và câu chủ động, chuyển từ câu chủ động sang bị động và ngược lại, dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp và tiếng Pháp sang tiếng Việt. Sau khi nhận được bài test từ các sinh viên, chúng tôi đã thống kê tất cả các lỗi mà sinh viên gặp phải. Kết quả của phiếu điều tra và bài test là cơ sở để chúng tôi xác định được những khó khăn và nguyên nhân của những khó khăn, cũng như đưa ra một số đề xuất sư phạm. 3.1. Chưa nhận biết được câu chủ động và câu bị động Rất nhiều sinh viên không thể phân biệt được câu chủ động và câu bị động. Các em thường nhầm lẫn giữa hai loại câu này. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này vì câu bị động tiếng Pháp có sự tham gia của trợ động từ “être”, trong khi đó, động từ tiếng Pháp khi chia ở quá khứ cũng có một số động từ được chia với trợ động từ être. Chính sự giống nhau này đã gây cho các em khá nhiều khó khăn trong việc nhận biết. Đặc biệt là nếu trong câu bị động xuất hiện những động từ khi chia ở quá khứ có thể chia với trợ động từ “être” hoặc “avoir” như monter, descendre, sortir, passer, rentrer, retourner, remonter, redescendre, nhiều sinh viên cho rằng, đó là câu chủ động động từ chia ở quá khứ. Ví dụ : Le mobilier du jardin était rentré chaque automne dans une petite cabane en sapin. Dès que la malle aura été redescendue à la cave, la chambre sera vite en ordre. La pendule est remontée chaque dimanche à midi. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77) Ba câu trên, các chủ ngữ “le mobilier du jardin, la malle, la pendule” không thực hiện các hành động “rentrer, redescendre, remonter” mà chịu tác động của hành động. Vì vậy, ba câu này không thể là câu chủ động được, chúng phải là câu bị động. Nhưng hầu hết các sinh viên cho rằng, đó là câu chủ động, động từ chia ở quá khứ với trợ động từ “être”. 3.2. Xác định sai các thành phần của câu Muốn chuyển đúng một câu chủ động sang bị động hoặc ngược lại, trước hết người học cần phải xác định đúng các thành phần của câu. Nhưng điều này cũng là một trở ngại đối với nhiều sinh viên. Ví dụ: L’entreprise réembauchera les ouvrières licenciées il y a un mois. (Morsel, 1993, tr.120) Trong câu này “il y a un mois” không phải là bổ ngữ của cả câu mà nó chỉ là bổ ngữ của nhóm danh từ “les ouvrières licenciées”. Nhưng hầu hết các sinh viên mà chúng tôi tiến hành điều tra đều cho rằng “il y a un mois” là bổ ngữ của cả câu, họ đã không để ý đến thời của động từ “réembauchera”. Động từ “réembauchera” chia ở thì tương lai vì vậy “il y a un mois” (cách đây một tháng) không thể là bổ ngữ của cả câu. Nếu “il y a un mois” là bổ ngữ của cả câu, động từ “réembaucher” phải chia ở quá khứ không phải ở tương lai. 51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Chính vì xác định sai các thành phần của câu mà nhiều sinh viên đã chuyển sai câu trên. Câu sai: Les ouvrières licenciées seront réembauchées par l’entreprise il y a un mois. Câu đúng: Les ouvrières licenciées il y a un mois seront réembauchées par l’entreprise Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy, việc các sinh viên xác định sai thành phần của câu còn do vốn từ vựng của các em quá nghèo nàn, các em không hiểu được hết nghĩa của câu cần chuyển. Do không hiểu hết được nghĩa nên các em đã xác định sai thành phần của câu. Vì xác định sai thành phần của câu, các em đã chuyển sai từ câu chủ động sang bị động hoặc ngược lại. 3.3. Không nắm vững các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Ngữ pháp tiếng Pháp rất khó và có nhiều điểm không giống với tiếng Việt. Vì vậy, đa số các sinh viên chưa nắm vững các hiện tượng ngữ pháp cơ bản như đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, gián tiếp, thời thể của động từ, vấn đề hợp giống, số của phân từ quá khứ Chính vì không nắm vững những kiến thức ngữ pháp cơ bản nên các sinh viên đã mắc rất nhiều kiểu lỗi khác nhau. Ví dụ: “On ne l’a pas promue.” Một số sinh viên không tìm được bổ ngữ trực tiếp của câu này vì bổ ngữ trực tiếp thường đứng sau động từ nhưng trong trường hợp này, bổ ngữ trực tiếp được thay bằng đại từ làm bổ ngữ và đặt trước động từ. Do không xác định được bổ ngữ trực tiếp nên họ cho rằng, câu này không chuyển được sang dạng bị động. Có những sinh viên xác định được đại từ “l’” là bổ ngữ trực tiếp của câu, nhưng lại không biết “l’” là “le” hay “la”. Họ đã không để ý đến phân từ quá khứ “promue”. Do không biết “l’” là “le” hay “la” nên họ không biết chủ ngữ của câu bị động sẽ là “Il” hay “Elle”. Vì vậy có những em đã chuyển câu trên thành: *Il n’a pas été promu. Mặt khác thời, thức của động từ tiếng Pháp quá phức tạp, quá khác biệt so với tiếng Việt. Đây là một trở ngại lớn nhất đối với sinh viên học tiếng Pháp. Lỗi sai liên quan đến động từ là lỗi mà các sinh viên mắc nhiều nhất trong khi sử dụng câu bị động tiếng Pháp. 3.4. Quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng Pháp hoặc tiếng Việt Do chưa nắm vững những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ Pháp-Việt đã làm cho người học quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Khi dịch sang tiếng Việt không nhất thiết phải sử dụng hư từ bị, được. Hai hư từ này làm cho câu văn trở nên nặng nề. Ví dụ: Il est épuisé par ses voyages incessants. Une promesse qui a été faite doit être tenue. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81) có thể dịch như sau: Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng. Một lời đã hứa phải ráng giữ. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) Nhưng đa số sinh viên sử dụng hai hư từ này để dịch hai câu trên. Anh ta bị kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng. Một lời được hứa thì phải được làm. Một lý do khác làm cho câu văn tiếng Việt trở nên nặng nề, đó là các sinh viên đã quá lạm dụng từ bởi khi dịch bổ ngữ tác nhân. Anh ta bị kiệt sức bởi những chuyến đi không ngừng. Ngược lại khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp, một số sinh viên lại quá lệ thuộc vào câu tiếng Việt nên đã dịch sai. Trong các câu tiếng Việt sau: Chúng tôi đã rất bối rối vì sự phát hiện này. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) 52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Gương mặt cô ta ướt đẫm nước mắt. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.157) Trong hai câu này không có hư từ bị, được nên khi dịch sang tiếng Pháp các sinh viên lại để các động từ troubler, mouiller ở dạng chủ động vì vậy có một số câu sai kiểu như sau: * Nous avons troublé à cause de cette révélation. * Son visage mouille les larmes. Thực ra hai câu này khi dịch sang tiếng Pháp các động từ troubler, mouiller phải để ở dạng bị động Nous avons été troublés par cette révélation. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81) Son visage était mouillé de larmes. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.80) 4. GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY Xuất phát từ những khó khăn của sinh viên đã được phân tích ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất về việc giảng dạy và dịch thuật nhằm giúp cho người học có thể sử dụng tốt hơn dạng bị động trong tiếng Pháp. 4.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy Từ trước đến nay, khi dạy một hiện tượng ngữ pháp, giảng viên thường sử dụng phương pháp truyền thống: truyền đạt những kiến thức cho sinh viên. Người học rất thụ động trong quá trình nắm bắt kiến thức. “Những năm gần đây các tài liệu giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong nước thường nói tới việc cần thiết phải chuyển từ dạy học giảng viên trung tâm sang dạy học học sinh trung tâm” (Trần Bá Hoành, 2003, tr.1). Chúng ta nên áp dụng phương pháp giảng dạy mới này khi dạy một hiện tượng ngữ pháp nói chung và dạy câu bị động nói riêng. Trước tiên, giảng viên yêu cầu người học quan sát các ví dụ về câu chủ động và bị động. Giảng viên sẽ không phải là người giới thiệu cấu trúc của câu bị động, quy tắc chuyển đổi mà chính sinh viên phải tự tìm ra trên cơ sở phân tích các ví dụ. Có như vậy, những kiến thức sinh viên thu được sẽ được nhớ lâu hơn. 4.2. Đưa nội dung giảng dạy các hiện tượng ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng vào các giờ thực hành tiếng. Dạy một ngoại ngữ, đó là làm cho người học phát triển toàn diện cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc học ngoại ngữ. Người học phải nắm chắc ngữ pháp để có thể học tốt bốn kỹ năng trên. Ngược lại, thông qua bốn kỹ năng trên, người ta có thể dạy và học ngữ pháp. Vì vậy, giảng viên không chỉ dạy ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng trong các giờ ngữ pháp mà có thể đưa nội dung này vào trong quá trình dạy các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. 4.3. Một số tiêu chí phân biệt “être + PP” dạng bị động với “être + PP” hình thái động từ. Một trong những nguyên nhân sử dụng sai dạng bị động trong tiếng Pháp của sinh viên Việt nam học tiếng Pháp đó là người học chưa phân biệt được câu chủ động và câu bị động đặc biệt là phân biệt câu chủ động có động từ chia ở quá khứ với trợ động từ être với câu bị động. Để phân biệt hai dạng này, chúng ta có thể dựa vào những dấu hiệu như sau: - Thứ nhất, trong câu chủ động, chủ ngữ làm ra hành động trong khi trong câu bị động, chủ ngữ chịu tác động của hành động do bổ ngữ tác nhân gây ra. Ví dụ: Nous sommes rentrés tard à la maison. (Pa). Nous sommes trompés par ce garçon-là. (Pp). - Thứ hai, trong cấu trúc bị động, thời của động từ phụ thuộc vào thời động từ “être” chứ không phụ thuộc vào sự kết hợp giữa “être + PP” như trong câu chủ động. 53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Ví dụ: Il est admis à l’école. (Pp chia thời hiện tại) Il a été admis à l’école. (Pp chia thời quá khứ) Elle est allée travailler en France (Pa chia thời quá khứ kép) Elle était allée travailler en France. (Pa chia thời tiền quá khứ). - Thứ ba, về mặt hình thức và ngữ nghĩa, những yếu tố tạo nên cấu trúc bị động thì khá độc lập với nhau: trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ được dùng với tư cách là tính ngữ (tức là không có động từ “être”) và có giá trị bị động như cấu trúc này. Ví dụ: Une lettre est écrite = Une lettre écrite La moto a été réparée = La moto réparée. Trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ này có thể được thay thế bằng đại từ nhân xưng trung lập “le”. Ví dụ: Tu es aimé de tout le monde, tu l’es vraiment. Ngoài ra, khác với hình thái về thời gian, quá khứ phân từ có thể đứng trước động từ “être”. Ví dụ: “Aimé, tu l’étais.” Khi quan sát những ví dụ trên, những yếu tố cấu trúc bị động không thể tạo ra đơn vị phân tích giống như dạng thức kép của động từ chủ động. Dạng thức này đặc trưng bởi sự kết hợp chặt chẽ của những thành tố. Ví dụ: Mon père est arrivé Người ta không nói: Mon père arrivé. Đối với câu “Il est arrivé” quá khứ phân từ không thể thay bằng đại từ le hoặc đứng trước trợ động từ être. Người ta không nói: Il l’est hoặc Arrivé, il l’est. - Cuối cùng, về mối quan hệ biến đổi, dạng bị động “être + PP” là kết quả của một sự chuyển đổi từ mệnh đề chủ động. Trong khi dạng thức kép “être + PP” thể hiện mệnh đề chủ động. Cấu trúc này không phải là kết quả của bất cứ sự biến đổi nào. Ví dụ: Ce pont a été construit en 1990. Câu này được chuyển từ câu “On a construit ce pont en 1990.” Trong khi câu “Je suis sortie avec mes amis.” không phải là sự chuyển đổi từ bất cứ một câu nào. Trên đây là bốn tiêu chí giúp cho người học phân biệt câu chủ động chia ở quá khứ với trợ động từ être và câu bị động với trợ động từ être. 4.4. Xác định rõ thành phần của câu trước khi chuyển từ câu chủ động sang bị động hoặc ngược lại. Một nguyên nhân khác khiến sinh viên chuyển sai câu chủ động sang bị động, đó là xác định sai thành phần của câu. Vì vậy, giảng viên cần yêu cầu sinh viên xác định rõ thành phần của câu trước khi chuyển đặc biệt thành phần chủ ngữ, bổ ngữ trực tiếp trong câu chủ động và tác nhân trong câu bị động. Việc này giảng viên cũng thường không yêu cầu sinh viên vì họ nghĩ rằng, đây là vấn đề đơn giản. Nhưng thực tế, không ít sinh viên chuyển sai vì không xác định được thành phần của câu. 4.5. Các hiện tượng ngữ pháp cơ bản phải thường xuyên được củng cố trong suốt quá trình học. Để học tốt dạng bị động, người học phải nắm vững rất nhiều các hiện tượng ngữ pháp khác. Nhưng thực tế các sinh viên thường không nhớ hết các hiện tượng ngữ pháp đã học. Chính vì vậy, khi học một hiện tượng ngữ pháp mới giảng viên cần giúp các em ôn lại những hiện tượng ngữ pháp có liên quan. Ví dụ khi học về câu bị động, sinh viên bắt buộc phải nắm vững một số các hiện tượng ngữ pháp cơ bản sau: thời thức của động từ, đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, hợp giống số của phân từ quá 54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY khứ Nói tóm lại các vấn đề ngữ pháp phải thường xuyên được củng cố, nhắc lại và nâng cao trong suốt quá trình học ngoại ngữ. 4.6. So sánh câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp Hiện nay, hầu như sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp đều là sinh viên được xét tuyển từ tổ hợp Anh, Toán, Ngoại ngữ, có nghĩa là họ đã học tiếng Anh ít nhất 3 năm ở phổ thông và tiếng Anh là một trong ba môn xét tuyển vào đại học. Như vậy, họ đã đạt được một trình độ tiếng Anh tương đối tốt. Tiếng Anh và tiếng Pháp có chung nguồn gốc là cùng thuộc hệ ngôn ngữ Latinh nên hai thứ tiếng này có rất nhiều điểm tương đồng về mặt từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Đây là một lợi thế cho những người đã biết tiếng Anh học tiếng Pháp (Nguyễn Thị Dương Nga, 2017, tr.16). Dạng bị động của tiếng Anh có khá nhiều điểm giống tiếng Pháp, nhất là vấn đề liên quan đến thời trong câu bị động trong khi đó, vấn đề này trong tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. Nhờ đặc điểm này chúng tôi xin đưa ra một đề xuất như sau: đối với những sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, họ đã hiểu rõ cách dùng dạng bị động trong tiếng Anh, vì vậy, giảng viên có thể chỉ cho họ những điểm giống nhau của dạng bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Ví dụ : Câu chủ động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Anh Cấu trúc SN1 + V + SN2 SN2 + être + PP (participe passé) + par/de +SN1 SN2 + to be + PP (past participle) + by +SN1 Thời, thức của động từ V(présent) V(passé composé) V(imparfait) V(plus-que-parfait) V(futur simple) V(conditionnel présent) V(conditionnel passé) être (présent) + PP être (passé composé) + PP être (imparfait) + PP être (plus-que-parfait) + PP être ( futur simple) + PP être (conditionnel présent)+ PP être (conditionnel passé) + PP to be (simple present) + PP to be (simple past) + PP to be (past continuous) + PP to be (past pefect) + PP to be (simple future) + PP to be (present conditionnel + PP to be (past conditionnel) + PP Bằng cách so sánh này sinh viên đã học tiếng Anh sẽ hiểu về dạng bị động tiếng Pháp một cách dễ dàng hơn. 4.7. Chú ý những nét khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Việt trong khi dịch. Vấn đề dịch thuật, sinh viên thường quá lệ thuộc vào cách diễn đạt tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Sở dĩ như vậy vì người học chưa thấy rõ được những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Vì vậy trong quá trình giảng dạy giảng viên cần phải so sánh đối chiếu hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn ngữ. Nếu được phân tích kỹ những nét tương đồng và khác biệt giữa dạng bị động tiếng Pháp và lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt thì người học sẽ thấy rằng, không nhất thiết cứ phải chuyển một câu bị động của tiếng Pháp thành lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt. Trong những trường hợp phải chỉ rõ bổ ngữ tác nhân thì khi dịch sang tiếng Việt cũng không nhất thiết phải dùng cấu trúc có sự tham gia của từ bởi mà người học có thể dùng cấu trúc có từ do, vì. 55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Il est épuisé par ses voyages incessants. (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77) Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) Còn trong những trường hợp cần thể hiện sự đánh giá của người nói đối với tác động của hành động lên đối tượng thì người học phải có sự cân nhắc giữa cấu trúc có các từ bị và được. 5. KẾT LUẬN Dạng bị động trong tiếng Pháp là một hiện tượng ngữ pháp tương đối khó. Để học tốt dạng bị động đòi hỏi người học phải nắm vững khá nhiều các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Trong khi đó, sinh viên khoa tiếng Pháp hầu như chưa được học tiếng Pháp ở bậc phổ thông nên việc nắm chắc tất cả các hiện tượng ngữ pháp không phải là dễ đối với các em. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu này với hy vọng nó sẽ là một tài liệu hữu ích cho giảng viên và sinh viên khoa tiếng Pháp nhằm giúp cho giảng viên có những phương pháp giảng dạy thích hợp, còn sinh viên nhận ra lỗi của mình và có thể tránh được các lỗi đó trong quá trình học dạng bị động tiếng Pháp./. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Dũng (2005), 350 exercices (Niveau supérieur1), Bản dịch từ tiếng Pháp, NXB Thanh niên, TP Hồ Chí Minh. Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm trung tâm: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số 96, tr.1-5. Trần Hương Lan, Trần Thị Hoàng Minh (2011), So sánh dạng bị động trong tiếng Pháp và trong tiếng Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Thị Dương Nga (2017), “Mạo từ trong tiếng Pháp và tiếng Anh - Một số lưu ý trong giảng dạy môn ngoại ngữ 2 tiếng Pháp cho học viên, sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Học viện Khoa học Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 07, tr.16-25. Cardiot-Cueilleron J. et autres (1992), 350 exercices (Niveau supérieur1), Hachette, Paris. Grévisse M. (1988), Le Bon Usage – 3è édition, Duculot, Paris. Morsel M.H. et autres (1993), L’exercisier, Grenoble. A STUDY ON THE DIFFICULTIES IN LEARNING THE FRENCH PASSIVE VOICE ENCOUNTERED BY THE STUDENTS AT HANOI NATIONAL UNIVERSITY OF EDUCATION AND SEVERAL SUGGESTIONS TO TEACHING METHODS TRAN HUONG LAN Abstract: Grammar plays an important role in learning a language in general and in learning French in particular. To learn French well, besides many other factors, the learner must first master basic grammatical phenomena. One of the most basic and popular grammatical phenomena in French is the passive voice. During the process of teaching, we realize that students often have to face a lot of difficulties in learning this grammatical phenomenon. This report aims to analyse the common difficulties of students in learning passive voice, as well as identify the reasons and then propose some suggestion to improve teaching methods. Keywords: passive voice, grammatical teaching methods, translation Received: 19/11/2017; Revised: 13/12/2017; Accepted for publication: 30/12/2017
File đính kèm:
- nhung_kho_khan_thuong_gap_cua_sinh_vien_truong_dai_hoc_su_ph.pdf