Những kết quả và thách thức hiện nay về phát triển ứng dụng bức xạ ion hóa trong y tế

Việc ứng dụng các kỹ thuật bức xạ trong y học hạt nhân (YHHN), xạ trị ung thư và chẩn đoán

hình ảnh ở Việt Nam ngày càng phát triển, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và kết

quả ứng dụng những kỹ thuật mới trong cả 3 chuyên ngành. Đó là kết quả của ghi xạ hình chức năng

chẩn đoán bằng SPECT, trước hết là ung thư của các mô và cơ quan như phổi, xương, tuyến giáp,

thận. Xạ hình tưới máu cơ tim, đặc biệt có giá trị chẩn đoán và tiên lượng trong các bệnh của động

mạch vành. Bên cạnh đó là các kết quả của việc sử dụng kỹ thuật hiện đại PET/CT trong tim mạch

và ung thư. Bài báo cũng nêu lên một số kết quả của việc sử dụng sử dụng các kỹ thuật xạ trị mới

như 3D-CRT; IMRT; IGRT; VMAT . hay mô phỏng bằng hình ảnh PET/CT trong xạ trị ung thư, các

phương pháp X- quang can thiệp để điều trị. Kết quả điều trị ung thư tuyến giáp bằng I-131, ung

thư gan bằng Y-90 microspheres, kỹ thuật cấy hạt phóng xạ gần đây tại Việt Nam cũng được đề cập.

YHHN đã áp dụng kỹ thuật mới gắn đồng vị phóng xạ vào kháng thể đơn dòng trong điều trị đích cho

các bệnh ung thư khác nhau. Trong chẩn đoán hình ảnh là kết quả sử dụng các kỹ thuật tiên tiến về

CT đa dãy, MRI công suất lớn, siêu âm 3D, 4D để chẩn đoán và điều trị bằng điện quang can thiệp.

pdf 10 trang kimcuc 19800
Bạn đang xem tài liệu "Những kết quả và thách thức hiện nay về phát triển ứng dụng bức xạ ion hóa trong y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những kết quả và thách thức hiện nay về phát triển ứng dụng bức xạ ion hóa trong y tế

Những kết quả và thách thức hiện nay về phát triển ứng dụng bức xạ ion hóa trong y tế
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
24 Số 52 - Tháng 9/2017
NHỮNG KẾT QUẢ VÀ THÁCH THỨC HIỆN NAY 
VỀ PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG
BỨC XẠ ION HÓA TRONG Y TẾ
Việc ứng dụng các kỹ thuật bức xạ trong y học hạt nhân (YHHN), xạ trị ung thư và chẩn đoán 
hình ảnh ở Việt Nam ngày càng phát triển, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và kết 
quả ứng dụng những kỹ thuật mới trong cả 3 chuyên ngành. Đó là kết quả của ghi xạ hình chức năng 
chẩn đoán bằng SPECT, trước hết là ung thư của các mô và cơ quan như phổi, xương, tuyến giáp, 
thận... Xạ hình tưới máu cơ tim, đặc biệt có giá trị chẩn đoán và tiên lượng trong các bệnh của động 
mạch vành. Bên cạnh đó là các kết quả của việc sử dụng kỹ thuật hiện đại PET/CT trong tim mạch 
và ung thư. Bài báo cũng nêu lên một số kết quả của việc sử dụng sử dụng các kỹ thuật xạ trị mới 
như 3D-CRT; IMRT; IGRT; VMAT ... hay mô phỏng bằng hình ảnh PET/CT trong xạ trị ung thư, các 
phương pháp X- quang can thiệp để điều trị. Kết quả điều trị ung thư tuyến giáp bằng I-131, ung 
thư gan bằng Y-90 microspheres, kỹ thuật cấy hạt phóng xạ gần đây tại Việt Nam cũng được đề cập. 
YHHN đã áp dụng kỹ thuật mới gắn đồng vị phóng xạ vào kháng thể đơn dòng trong điều trị đích cho 
các bệnh ung thư khác nhau. Trong chẩn đoán hình ảnh là kết quả sử dụng các kỹ thuật tiên tiến về 
CT đa dãy, MRI công suất lớn, siêu âm 3D, 4D để chẩn đoán và điều trị bằng điện quang can thiệp.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
25Số 52 - Tháng 9/2017
Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, các 
ứng dụng bức xạ đã được áp dụng rộng rãi tại các 
cơ sở y tế trong chẩn đoán, điều trị mà vai trò và 
hiệu quả của chúng không thể thay thế được bằng 
các phương pháp khác. Những ứng dụng đó đã 
tạo nên 3 chuyên ngành khác nhau là Chẩn đoán 
hình ảnh (Điện quang), Y học hạt nhân (YHHN) 
và Xạ trị ung thư (XTUT).
Tính đến năm 2016, ngành y tế có hơn 
1.400 cơ sở bức xạ đang hoạt động, chiếm 88,7% 
tổng số cơ sở sử dụng bức xạ của tất cả các ngành 
trong cả nước. Ngày 04 tháng 11 năm 2011 với 
Quyết định số 1958/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính 
phủ đã phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát triển, 
ứng dụng bức xạ trong y tế đến năm 2020. Để 
tìm cách đẩy mạnh tiến độ và khắc phục các khó 
khăn, nhược điểm nhằm thực hiện thành công 
Quy hoạch đó, chúng tôi xin có vài nhận xét và 
đánh giá về triển khai thực hiện và kết quả thu 
được từ đó đến nay đồng thời đưa ra một số bàn 
luận về thách thức và đề nghị cụ thể.
1. Nhiệm vụ cụ thể cuả ngành y tế theo Quy 
hoạch:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển 
kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh sử dụng năng 
lượng hạt nhân và bức xạ nhằm đáp ứng nhu cầu 
ngày càng tăng ở nước ta. Thành lập và triển khai 
kế hoạch xây dựng sao cho tại mỗi tỉnh có ít nhất 
một cơ sở cho từng chuyên ngành Điện quang, 
YHHN và Xạ trị ung thư.
- Đầu tư phát triển kỹ thuật ghi hình bức xạ 
(xạ hình) đến bệnh viện (BV) tỉnh, mỗi BV tỉnh 
có ít nhất một máy ghi hình cắt lớp đơn photon 
(SPECT), cả nước có một số máy ghi hình sử 
dụng đồng vị phát positron (PET).
- Tăng cường đầu tư thiết bị điều trị bệnh 
ung thư bằng kỹ thuật chiếu xạ dùng các nguồn 
phóng xạ (PX) kín, hở và bằng máy gia tốc, đạt tỉ 
lệ ít nhất một thiết bị chiếu xạ trên 1 triệu dân.
- Lập kế hoạch sản xuất từng bước tăng 
dần các loại đồng vị PX và dược chất phóng xạ 
(DCPX) trong nước cho các máy SPECT/CT và 
PET/CT để phục vụ cho chẩn đoán và điều trị.
- Đánh giá tình hình sức khoẻ và dinh 
dưỡng cộng đồng, sàng lọc một số dị tật bẩm sinh 
bằng kỹ thuật đồng vị phóng xạ (ĐVPX).
- Xây dựng Trung tâm quốc gia về YHHN, 
xạ trị và điều trị các bệnh phóng xạ.
2. Các kết quả đã đạt được từ lúc có Quy hoạch 
đến nay (2011-2917):
2.1. Phát triển thêm cơ sở, trang bị và 
kỹ thuật: 
- Thành lập mới hoặc mở rộng trong vài 
năm gần đây một số cơ sở (bệnh viện, trung tâm, 
khoa, đơn vị) cho cả 3 lĩnh vực YHHN, Xạ trị 
ung thư và Điện quang. Hiện cả nước có hàng 
trăm cơ sở Điện quang lớn, nhỏ. Tăng dần các 
cơ sở Ung bướu đơn thuần có xạ trị hoặc cơ 
sở YHHN và Ung bướu có xạ trị hoặc chưa có 
xạ trị tại BV tỉnh, thành phố. Đó là các cơ sở ở 
các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên, 
Lào Cai, Lạng Sơn, Hoà Bình, Phú Thọ, Tuyên 
Quang,Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương,Thái 
Bình, Nam Định,Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, 
Khánh hòa, Quảng Bình, Đà Nẵng, Bình Định, 
Phú Yên, Khánh Hòa, Cần Thơ nâng tổng số 
cơ sở ung thư hiện có lên hơn 20.
- Trang bị thêm máy SPECT hoặc SPECT/
CT và PET/CT tại Trung tâm YHHN và Ung bướu 
của BV đa khoa và BV ung bướu TP Đà Nẵng, 
BV Quảng Ninh, BV Quân y 103 nâng tổng số 
máy SPECT lên 31 và 4 SPECT/CT, 12 PET/
CT với 5 cyclotron hiện đang hoat động trong 
cả nước. Các thiết bị này gần đây phát triển khá 
nhanh vì trong thời gian ngắn sắp tới sẽ có thêm 1 
Cyclotron ở VINATOM Hà Nội, 1 Cyclotron tại 
TP HCM, 1 PET/CT tại BV Ung bướu TP HCM, 
1 PET/CT tại BV đa khoa tỉnh Kiên Giang, 1 
PET/MRI tại BV Bạch Mai và máy SPECT cho 
một số tỉnh thành khác. Toàn quốc hiện có trên 
30 cơ sở YHHN hoạt động với khoảng 20 cơ sở 
YHHN có trang bị máy xạ hình (Gamma Camera, 
SPECT và SPECT/CT, PET/CT) đang phát huy 
được nhiều tác dụng. 
- Thời gian qua một số cơ sở đã được trang 
bị thêm máy gia tốc thẳng (Linac), máy điều 
trị áp sát suất liều cao (HDR-Brachytherapy) 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
26 Số 52 - Tháng 9/2017
sử dụng nguồn Ir-192 và Co-60, thiết bị cấy hạt 
phóng xạ I-125.
- Mua sắm thêm và đưa vào hoạt động một 
số máy CT đa lát cắt 16, 32, 64, 128, 256, 320 và 
640 lát, máy X quang tăng sáng truyền hình, máy 
cộng hưởng từ (MRI) công suất 0,3; 1,5 và 3,9 
Tesla, MRI chụp toàn thân, máy chụp mạch xóa 
nền (DSA) ở các BV trung ương và cấp khu vực, 
tỉnh, thành phố. 
- Hiện cả nước đã có nhiều cơ sở XTUT 
được nâng cấp và thành lập mới. Một số thiết 
bị gia tốc với công nghệ hiện đại như Elekta-
Execess; VARAN Clinac-iX đã xuất hiện tại Việt 
Nam.
2.2. Triển khai ứng dụng các kỹ thuật 
mới:
a) Y học hạt nhân:
- Mở rộng việc áp dụng một số kỹ thuật xạ 
hình mới bằng SPECT, SPECT/CT cho ung thư 
các loại, trước hết là ung thư tuyến giáp thể biệt 
hóa để phát hiện các mô ung thư tồn dư, tái phát 
và di căn, ung thư vú, ung thư phổi không tế bào 
nhỏ, u Lympho ác tinh không Hodgkin... Thực 
hiện thường quy xạ hình cho hầu hết các mô tạng 
bằng các in vivo kit thích hợp để chẩn đoán, đánh 
giá kết quả điều trị, và theo dõi tái phát, di căn 
của nhiều loại ung thư, một số biến chứng huyết 
khối trong ung thư. Phát hiện dị tật bẩm sinh ở 
hệ tiết niệu và gan mật, các bệnh của hệ tiêu hóa, 
xương khớp, đánh giá chức năng thận sau phẫu 
thuật ghép thận tại các cơ sở có trang bị thích hợp 
[1], [2]. 
- Xạ hình cũng giúp ích cho kỹ thuật về 
tim mạch can thiệp [7]. Xạ hình bằng I-131cho 
các bệnh nhân ung thư giáp sau phẫu thuật cắt 
bỏ tuyến giáp để chỉ định liều triệt mô giáp tồn 
dư. Với bệnh nhân có xạ hình bằng I-131 âm 
tính nhưng nồng độ Thyroglobulin hoặc Anti 
thyroglobulin trong máu cao, kỹ thuật PET/CT 
đã giúp chỉ định đúng cho điều trị cần thiết tiếp 
theo. Chuyên khoa YHHN đã phối hợp với các 
trung tâm sinh học phân tử để nghiên cứu các biến 
đổi gen vận chuyển iod NIS ở các bệnh nhân ung 
thư giáp kháng với I-131 điều trị. Đã triển khai 
việc ghi hình PET/CT trong đánh giá sự sống còn 
của cơ tim trong bệnh mạch vành, giúp chỉ định 
đúng các kỹ thuật điều trị thích hợp. Đó là bước 
đi cập nhật và theo kịp thế giới về kiến thức và 
kỹ năng hiện đại của vấn đề này. Cũng có nghiên 
cứu so sánh hình ảnh PET/CT với hình ảnh MRI 
trong ung thư vùng vòm hầu. Nhiều công trình 
nêu rõ PET/CT có giá trị đặc biệt trong ung thư 
như: Chẩn đoán u nguyên phát, hướng dẫn sinh 
thiết; phát hiện di căn, đánh giá giai đoạn; dự báo 
đáp ứng điều trị; đánh giá đáp ứng điều trị; phát 
hiện tái phát, di căn sau điều trị, áp dụng hình 
ảnh PET/CT mô phỏng trong xạ trị ung thư bằng 
Linac và Cyberknife [8].
- Áp dụng thành công kỹ thuật điều trị cho 
gần 100 bệnh nhân ung thư tế bào gan (HCC) 
bằng kỹ thuật xạ trị trong chọn lọc (SIRT) với 
kỹ thuật gây tắc mạch bằng các vi cầu phóng xạ 
Y- 90 tại BV Trung ương quân đội 108, BV Bạch 
Mai và BV Chợ Rẫy [2], [4]
- Áp dụng kỹ thuật điều trị miễn dịch 
phóng xạ (Radioimmunotherapy) cho bệnh nhân 
Lymphosarcoma non Hodgkin bằng kháng thể 
đơn dòng Rituzumab gắn I-131 và đang chuẩn bị 
điều trị một số ung thư đầu cổ bằng Ninotuzumab 
gắn Y-90 [4].
- Triển khai thành công kỹ thuật cấy hạt PX 
trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt tại BV Bạch 
Mai [9].
Tuy nhiên nhược điểm chính của YHHN 
nước ta hiện nay là mạng lưới cơ sở còn mỏng, 
trang bị chuyên khoa còn thiếu, bác sỹ chuyên 
khoa YHHN thiếu, trình độ chuyên môn của cán 
bộ không đồng đều, số có trình độ chuyên môn 
sâu còn ít. Việc đào tạo chuyên khoa YHHN cũng 
gặp rất nhiều khó khăn. Cho đến nay mới chỉ có 
sinh viên hệ bác sỹ đa khoa của trường Đại học 
Y Hà Nội và Học viện quân y 103 được học môn 
YHHN. Các trường Đại học Y dược trong cả nước 
do thiếu cán bộ giảng dạy và cơ sở thực hành nên 
chưa được học về môn học này. Việc đào tạo sau 
đại học về YHHN (từ nội trú, CKI, CKII, Thạc 
sỹ, Tiến sỹ) cũng mới chỉ được tiến hành tại 2 
cơ sở kể trên và đang gặp rất nhiều khó khăn do 
bác sỹ khó đi xa nơi làm việc học tập trung để có 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
27Số 52 - Tháng 9/2017
chứng chỉ chuyên khoa đúng theo yêu cầu.
b) Xạ trị:
Tổng cộng hiện nay trong cả nước có trên 
30 cơ sở xạ trị và 42 máy gia tốc đang hoạt động 
điều trị bệnh nhân. Nhìn chung thời gian qua Xạ 
trị đã có những tiến bộ như: Loại bỏ dần việc 
xạ trị chiếu ngoài bằng các máy Co-60 cũ, tăng 
cường áp dụng kỹ thuật xạ trị áp sát suất liều cao 
bằng nguồn Ir-192 và Co-60 [5]. Đang triển khai 
và mở rộng một số kỹ thuật xạ trị hiện đại như:
- Kỹ thuật xạ trị ba chiều theo hình dạng 
khối u (3D-CRT). Mở rộng ứng dụng hình ảnh 
CT mô phỏng trong lập kế hoạch xạ trị kể cả kỹ 
thuật theo kích thước khối u 3D ở hầu hết các cơ 
sở xạ trị trong cả nước. 
- Một số cơ sở đã và đang triển khai áp dụng 
kỹ thuật xạ trị điều biến liều (IMRT) bằng ngàm 
(Jaw-only) hoặc Collimator đa lá-MLC. Kỹ thuât 
xạ trị nhờ hình ảnh hướng dẫn – IGRT; xạ trị 
hình cung, điều biến liều theo thể tích - VMAT 
(VolumetricArc Radiotherapy), xạ phẫu định vị 
- SRS; xạ trị định vị - SRT, xạ trị định vị một số 
khối u vùng thân - SBRT...
- Kỹ thuật PET/CT mô phỏng lập kế hoạch 
xạ trị: Kỹ thuật PET/CT mô phỏng đã được tiến 
hành ở một số nước phát triển: Mỹ, Đức, Ý, Úc 
Trung tâm YHHN và Ung bướu BV Bạch Mai là 
nơi đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng thành công kỹ 
thuật PET/CT mô phỏng cho lập kế hoạch xạ trị 
gia tốc và cho đến nay đã có gần 1.000 bệnh nhân 
được mô phỏng nhờ PET/CT góp phần vào khả 
năng điều trị thành công bệnh ung thư do mang 
lại độ chính xác cao hơn, kết quả và chất lượng 
điều trị được tốt hơn [6].
- Xạ phẫu (Radiosurgery): Dao gamma, 
CyberKnife) và Dao gamma quay (Rotating 
Gamma Knife). Hiện nay cả nước có 6 Dao 
gamma cổ điển và Dao tia X đang hoạt động ở 
một số bệnh viện lớn. Tháng 7/2007, lần đầu tiên 
tại Việt Nam, hệ thống xạ phẫu Dao Gamma quay 
có nhiều ưu điểm nổi trội được lắp đặt tại Trung 
tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai 
và cho đến nay đã điều trị hơn 4.000 ca u não và 
một số bệnh lý sọ não. 
- Xạ trị trong, chọn lọc (Selective Internal 
Radiotherapy: SIR) hay còn gọi là phương pháp 
tắc mạch phóng xạ (Radio Embolization: RE) : 
Hình 1: Tiến bộ về kỹ thuật XTUT 
Trên CT: không phân biệt được u và tổ 
chức phổi xẹp
Trên PET/CT: dễ xác định u và phổi xẹp 
để sinh thiết đúng chỗ
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
28 Số 52 - Tháng 9/2017
Hình 2: Hình ảnh minh hoạ kỹ thuật SIR và hình 
ảnh CT gan bệnh nhân trước và sau điều trị
Các hạt vi cầu phóng xạ Y-90 (kích thước 
35 µm, T1/2 = 64,1 h; Eß = 0,93 Mev; quãng chạy 
trong tổ chức: 2,5-11 mm) được bơm vào động 
mạch nuôi khối u sẽ đi vào các nhánh động mạch 
nhỏ khắp trong khối u gây tắc mạch cắt nguồn 
dinh dưỡng nuôi u, mặt khác bức xạ bêta với mức 
năng lượng 0,93 MeV do ĐVPX Y-90 gắn trên 
các hạt vi cầu phát ra sẽ tiêu diệt các tế bào ung 
thư, hiệu quả chung sẽ làm giảm thể tích hoặc 
tiêu hoàn toàn khối u mà rất ít ảnh hưởng đến tổ 
chức lành xung quanh. Kỹ thuật này mang lại lợi 
ích lớn cho bênh nhân và đang có triển vọng mở 
rộng áp dụng tại các bệnh viện lớn trong cả nước. 
Đến nay cả nước đã tiến hành thành công cho gần 
100 bệnh nhân bị ung thư gan tiên phát hoặc thứ 
phát (di căn từ nơi khác đến gan).
Cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư tuyến 
tiền liệt
Cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư là phương 
pháp xạ trị áp sát suất liều thấp với các hạt phóng 
xạ I-125 kích thước nhỏ 4,5 x 0,8 mm (Hình 3), 
phát tia gamma năng lượng 35 keV, cấy vào trong 
tổ chức khối u, có tác dụng tiêu diệt tế bào ung 
thư tại chỗ mà không hoặc ảnh hưởng rất ít tới mô 
lành xung quanh. Ưu điểm nổi bật của kỹ thuật 
này là tạo ra liều hấp thụ khá cao cho mô bệnh 
(HDR) mà không chiếu xạ cho mô lành. Các 
đồng vị phóng xạ (ĐVPX) có thời gian bán rã 
không quá ngắn và không quá dài (60 ngày đối 
với I-125) nên có thể để lại các hạt phóng xạ mà 
không cần lấy ra sau khi cấy hạt phóng xạ vào. 
BV Bạch Mai đã thực hiện thành công một số ca 
đầu tiên tại Việt Nam với kết quả tốt đẹp [9].
 Hình 3: Các thiết bị cấy hạt PX điều trị 
ung thư tuyến tiền liệt
Xạ trị trong mổ (IntraOperative 
RadioTherapy: IORT):
IORT được sử dụng ở Mỹ từ năm 1999, 
đến nay hơn 80 cơ sở trên khắp các châu lục ứng 
dụng kỹ thuật này. Có thể áp dụng IORT cho 
nhiều loại ung thư như: Ung thư Vú, Trực tràng, 
Tử cung, Phổi, Bàng quang, Di căn xương, cột 
sống, NHL - B, Sarcoma, Adeno CUP, Kypho-
IORT. Trung tâm Ung bướu của Bv đa khoa trung 
ương ở Huế đã áp dụng thành công kỹ thuật này 
đối với ung thư vú.
Nhìn chung, ngành xạ trị ở nước ta còn 
nhiều khó khăn, hạn chế do thiếu thốn cả về cơ 
sở trang thiết bị và cán bộ được đào tạo bài bản, 
có kinh nghiệm. Hiện cũng chưa có quy hoạch cụ 
thể cho việc phát triển các khoa xạ trị nói riêng. 
Kinh phí hàng năm Nhà nước cấp cho ngành ung 
thư luôn thấp nên việc đầu tư, nâng câp các cơ 
sở xạ trị sẵn có và mở thêm cơ sở mới gặp nhiều 
khó khăn vì các trang bị xạ trị rất đắt tiền, mua từ 
nước ngoài, xây dựng cơ sở hạ tầng tốn kém, chi 
phí bảo dưỡng, thay nguồn xạ định kỳ rất cao. Ở 
nước ta tỷ lệ xạ trị mới đạt khoảng hơn 15% số 
lượng bệnh nhân có nhu cầu do số lượng các thiết 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
29Số 52 - Tháng 9/2017
bị xạ trị còn thiếu, một số thì đã cũ cần sớm 
được thay thế. Quy mô, mạng lưới, cách thức 
tổ chức, trang thiết bị kỹ thuật, số luợng và chất 
lượng kỹ thuật còn yếu, sự chấp nhận của xã hội 
và vai trò tác dụng của xạ trị còn bị hạn chế. Xạ 
trị ung thư ở nước ta phát triển chậm, chưa đều 
còn do những hạn chế về nhân lực (bác sỹ và kỹ 
sư vật lý, kỹ thuật viên về xạ trị). Cả nước hiện 
mới có một số ít cơ sở có khả năng chẩn đoán và 
điều trị ung thư một cách toàn diện, bao gồm cả 
chẩn đoán hình ảnh, YHHN, điều trị phẫu thuật, 
hóa trị và xạ trị.
c) Chẩn đoán hình ảnh:
Thời gian qua chuyên ... MRI phổ để chẩn đoán 
mức độ ác tính của các khối u nhất là u thần kinh 
đệm.
- Mở rộng kỹ thuật chụp mạch xóa nền 
(DSA) cho nhiều bộ phận trong cơ thể, nhất là 
để phát hiện các dị dạng mạch máu (AVM) trong 
não tại các bệnh viện trung ương, khu vực.
- Đặc biệt gần đây đã triển khai mạnh mẽ 
các kỹ thuật điện quang can thiệp mạch để điều 
trị hiệu quả một số bệnh như dị dạng mạch máu 
(AVM), thông động tĩnh mạch trong hộp sọ, 
thông động tĩnh mạch thận, nút tắc động mạch tử 
cung điều trị băng huyết sau đẻ, nút tắc tĩnh mạch 
cửa bằng dù kim loại gây phì đại gan trước phẫu 
thuật, nút mạch để kiểm soát chảy máu nặng do 
chấn thương, điều trị u xơ tử cung và tăng sản 
lành tính tuyến tiền liệt bằng kỹ thuật can thiệp 
nội mạch. Đặc biệt kỹ thuật điên quang can thiệp 
mạch đã phối hợp với YHHN để nút mạch bằng 
vi cầu Y-90 điều trị ung thư gan Vừa qua Chủ 
tịch nước đã trao tặng 2 giải thưởng Hồ Chí Minh 
về khoa học kỹ thuật cho các chuyên ngành ứng 
dụng bức xạ trong y học là Điện quang can thiệp 
và YHHN.
Tuy nhiên thực trạng chung của Điện 
quang chẩn đoán và điều trị của Việt Nam hiện 
nay hầu hết có quy mô nhỏ và thiếu thốn về cơ sở 
(mạng lưới), trang bị, nhân lực, hệ thống đào tạo, 
cán bộ kỹ thuật liên quan, dịch vụ kỹ thuật (kiểm 
định và bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị) 
chưa ngang tầm so với các nước trong khu vực. 
Thực trạng điện quang chẩn đoán và điều trị của 
Việt Nam hiện nay không đồng đều. Hiện tại các 
kỹ thuật cao về điện quang mới chỉ được áp dụng 
ở những BV lớn như BV Bạch Mai, BV Chợ Rẫy, 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
30 Số 52 - Tháng 9/2017
BV Trung ương Huế và BV Quân y 108, 103 
Một số cơ sở thiếu máy điện quang chẩn đoán và 
đặc biệt là máy điện quang can thiệp điều trị. 
d) Sản xuất và cung cấp các dược chất 
phóng xạ (DCPX)
Nhu cầu sử dụng Tc-99m ngày càng 
tăng, ước tính hằng tuần thế giới sử dụng khoảng 
7.000-8.000 Ci. Trong lúc đó việc cung cấp và 
sản xuất của các nước đều có nhiều khó khăn. Sự 
thiếu hụt đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự có các 
giải pháp thích hợp để đáp ứng nhu cầu cần thiết. 
Vì vậy Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt đã đề ra 
một chương trình khoa học nhằm giải quyết việc 
cung ứng Tc-99m cho các cơ sở YHHN trong cả 
nước [1, 3].
Hiện nay Việt Nam chính thức có 5 máy 
Cyclotron (1 máy ở Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ 
Chí Minh, 3 máy ở Hà Nội, 1 máy ở Bệnh viện 
đa khoa Đà Nẵng, sắp tới có thể thêm 1 máy ở 
Kiên Giang và 1 máy ở TP HCM) và sắp có thêm 
2, trong đó 4 máy đang hoạt động ổn định để 
cung cấp DCPX 18FDG dùng cho PET/CT. Hai 
trung tâm Cyclotron ở phía nam và phía bắc cũng 
đã điều chế thử thành công dược chất phóng xạ 
Carbon-11 gắn CHOLINE, ACETAT để sử dụng 
trong chụp PET/CT chẩn đoán ung thư tuyến tiền 
liệt và các khối u ở gan.
Nhìn chung, nhu cầu trước mắt về 18FDG 
cho PET/CT đang được thỏa mãn, thậm chí nếu 
tổ chức và quản lý tốt các Cyclotron hiện có còn 
có thể sản xuất đủ 18FDG cho nhiều máy PET/
CT hơn nếu được lắp đặt không quá xa các 
Cyclotron đó. Tuy nhiên, trên thị trường hiện tại 
đang có một loại minicyclotron với các phần phụ 
trợ được gọi là Biomarker Generator System for 
Molecular Imaging của Mỹ có nhiều ưu điểm. 
Minicyclotron có kích thước nhỏ hơn, vận hành 
đơn giản hơn, cần ít cán bộ kỹ thuật hơn, tính 
an toàn cao hơn, có thể cung cấp các liều 18FDG 
hàng ngày cho từng máy PET/CT tại chỗ. Chúng 
tôi cho rằng cần nghiên cứu áp dụng loại thiết bị 
này vì đó là giải pháp có triển vọng tốt cho việc 
trang bị thêm các máy PET/CT riêng lẻ các ở địa 
phương xa hoặc giao thông khó khăn (Tây Bắc, 
Tây Nguyên, Miền tây Nam bộ...). 
2.3. Bồi dưỡng và Đào tạo cán bộ cho 
các chuyên khoa
- Tổ chức được một số sinh hoạt chuyên 
môn, hội thảo khoa học,tập huấn nghiệp vụ để 
trao đổi kinh nghiệm về cả 3 chuyên ngành trên 
riêng biệt hoặc kết hợp với các chuyên khoa khác. 
- Xuất bản một số sách giáo khoa, sách 
chuyên khảo về YHHN, Điện quang và Xạ trị. 
- Nhiều báo cáo khoa học trong và ngoài 
nước được đăng trong tạp chí chuyên ngành hoặc 
tạp chí Y học thực hành, Y học Việt Nam, Ung 
thư học cũng như Điện quang và Xạ trị ung thư. 
Một số trang web hoạt động tốt cập nhật thông tin 
và các bài vở chuyên môn kể cả các bài dịch từ 
báo chí chuyên môn của nước ngoài. 
3. Khó khăn, tồn tại và thách thức trong ứng 
dụng bức xạ y tế
3.1. Tồn tại của ứng dụng bức xạ trong 
y tế:
a) Công tác xạ trị còn hạn chế, do thiếu 
thốn cả về cơ sở trang thiết bị lẫn cán bộ được 
đào tạo đúng chuyên khoa, có kinh nghiệm và 
quy hoạch cho việc phát triển các khoa xạ trị nói 
riêng cũng chưa cụ thể: 
- Cơ sở vật chất của một số đơn vị X 
quang và YHHN hiện hữu còn thiếu các trang 
thiết bị cơ bản và hiện đại phục vụ chẩn đoán, 
điều trị. Cơ sở vật chất và trang thiết bị chưa đồng 
bộ ở tại các bệnh viện tuyến trung ương và các 
BV tỉnh, huyện. Các BV tuyến tỉnh còn thiếu rất 
nhiều trang thiết bị xạ trị, điện quang và YHHN 
cơ bản để chẩn đoán. Thậm chí ở nhiều BV đang 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
31Số 52 - Tháng 9/2017
phải sử dụng những thiết bị cũ và lạc hậu. Với 
tốc độ phát tiển như hiện nay khó đạt được chỉ 
tiêu do Quy hoạch xác định nhất là về YHHN và 
Xạ trị.
- Mạng lưới Xạ trị, X quang và YHHN 
trong nước chưa đồng bộ, số lượng thiết bị còn 
thiếu so với quy hoạch yêu cầu. Với tình hình 
này đến năm 2020 rất khó đạt được chỉ tiêu 80% 
bệnh viện tỉnh và thành phố trực thuộc trung 
ương có ít nhất 1 máy chụp mạch số hóa, 1 máy 
chụp cắt lớp vi tính (CT) và 100% bệnh viện đa 
khoa huyện có máy xạ trị XQ cao tần, 80% các 
bệnh viện nêu trên có cơ sở YHHN và Ung bướu, 
toàn quốc đạt ít nhất 1 thiết bị xạ trị và 1 thiết bị 
xạ hình cho 1 triệu dân vào năm 2020. 
- Thuốc phóng xạ cho PET/CT đáp ứng 
được nhu cầu của các máy PET/CT ở các thành 
phố lớn nhưng mới tập trung vào 18FDG mà 
chưa phát triển các thuốc khác của ĐVPX 18F 
tuy rằng cyclotron 30 MeV tại BV Quân y 108 có 
khả năng kỹ thuật sản xuất được. Việc cung cấp 
nguồn thuốc phóng xạ trong nước cho điều trị và 
xạ hình SPECT chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực 
tế, còn cần nhập khẩu phần lớn, nhất là 131INa, 
Tc-99m.
- Nguồn nhân lực xạ trị, X quang, YHHN 
còn thiếu, trình độ không đồng đều nhất là cán bộ 
có trình độ chuyên môn để đảm nhiệm các chức 
năng khám chữa bệnh với kỹ thuật cao, hiện đại. 
Chưa có hệ thống đào tạo cán bộ chuyên ngành 
xạ trị, bao gồm cả y học và kỹ thuật và vật lý y 
học một cách đầy đủ, đặc biệt là đào tạo ngành 
chuyên sâu của xạ trị, X-quang và YHHN.
b) Hiện nay cũng chưa có kế hoạch về việc 
xây dựng Trung tâm YHHN trung ương, Trung 
tâm Điện quang Trung ương tại Bệnh viện Bạch 
Mai và Trung tâm xạ trị trung ương tại Bệnh viện 
K nhằm có thể tiến tới thành lập Viện Y học bức 
xạ quốc gia vào năm 2020 như Quy hoạch vạch 
ra.
c) Vấn đề đào tạo bài bản, cấp chứng chỉ 
hành nghề và chính thức hóa chức danh kỹ sư vật 
lý y học chưa được đề cập tới do đó cũng chưa 
có kế hoạch triển khai. Đây đang là khâu yếu 
kém của chất lượng công việc trong ứng dụng 
bức xạ vào y học. Cần tiến tới đảm bảo các cơ 
sở sử dụng bức xạ trong y tế nhất là các cơ sở xạ 
trị phải có đủ các cán bộ vật lý đã qua đào tạo cơ 
bản, chính quy để trở thành những cán bộ vật lý y 
học có trình độ chính thức, tiến tới có chứng chỉ 
hành nghề trong các ngành xạ trị, điện quang và 
YHHN.
d) Công việc bảo dưỡng và kiểm chuẩn 
các thiết bị bức xạ trong y tế còn chưa được quan 
tâm đúng mức và tổ chức thành hệ thống. Các 
lĩnh vực tăng cường năng lực cho phòng chuẩn 
đo lường bức xạ, sản xuất phụ kiện và thiết bị y tế 
chưa thấy có kế hoạch triển khai.
e) Nội dung về đánh giá tình hình sức 
khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng, sàng lọc một số 
dị tật bẩm sinh bằng kỹ thuật đồng vị phóng xạ 
(ĐVPX) hoàn toàn chưa được triển khai.
3.2. Các khó khăn và thách thức trong 
thực hiện quy hoạch:
-Sự phối hợp giữa Bộ Y tế với các Bộ 
ngành liên quan chưa chặt chẽ trong kế hoạch 
thực hiện Quy hoạch do Thủ tướng chính phủ phê 
duyệt và quyết định.
- Chưa có dự toán cụ thể về ngân sách tài 
chính. Đến nay về tổ chức, đã có một số Trung 
tâm và Khoa mới bao gồm cả Ung bướu và 
YHHN. Tuy nhiên, về trang thiết bị cần thiết vẫn 
còn thiếu. Nhiều cơ sở YHHN và Xạ trị hiện nay 
vẫn chưa có SPECT, chưa có LINAC. Cá biệt, 
một vài cơ sở vẫn còn phải sử dụng máy Co-60 đã 
quá cũ, hoạt độ nguồn quá yếu nên không thể đảm 
bảo chất lượng điều trị. Việc thành lập các trung 
tâm khác ở Tây Bắc, Tây Nguyên hay miền đông, 
Tây Nam bộ cũng chưa có kế hoạch rõ ràng.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
32 Số 52 - Tháng 9/2017
- Nhân lực chuyên khoa còn thiếu, chưa 
có hệ thống đào tạo chính thức nhất là cho cán bộ 
kỹ thuật và vật lý cho xạ trị ung thư.
- Chưa thấy triển vọng về cải thiện việc 
cung ứng thuốc phóng xạ trong nước.
4. Đề xuất các giải pháp: 
Để thực hiện tốt nội dung cần làm cho 
giai đoạn I của Quy hoạch chúng tôi xin đề nghị 
thực hiện một số biện pháp sau đây:
a) Thành lập Ban điều hành thực hiện 
Quy hoạch bao gồm lãnh đạo Bộ Y tế gồm các 
Vụ, Cục và một số đơn vị liên quan của Bộ Y tế, 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính
b) Trước mắt cần thêm trang bị về YHHN 
và Xạ trị cho một số cơ sở chuyên khoa (đơn vị, 
khoa, trung tâm) đang hiện hữu như Bệnh viện 
đa khoa hoặc bệnh viện ung thư tỉnh Nghệ An, 
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, 
Hòa Bình, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Đắc Lắc... và 
tiếp theo là các bệnh viện ung thư và đa khoa 
tuyến tỉnh khác theo lộ trình. Cần tạo bước đột 
phá về đầu tư, nhất là đầu tư từ nguồn ngân 
sách nhà nước, các nguồn vốn ODA, nguồn liên 
doanh, liên kết... cho phát triển mạng lưới các cơ 
sở y tế ứng dụng bức xạ để khám, chữa bệnh.
Tăng cường huy động các nguồn vốn hợp pháp 
khác trong xã hội để thực hiện quy hoạch, tăng 
cường xã hội hóa theo đúng qui định của Nhà 
nước để đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị bức 
xạ, điện quang.
c) Tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có chương 
trình chính thức nào về đào tạo cán bộ vật lý, kỹ 
thuật viên theo yêu cầu thực tế. Vấn đề này chưa 
thấy có bước chuyển biến hoặc chuẩn bị nào như 
Quy hoạch đề ra. Cần phải có một tổ chức đào 
tạo với giáo trình thống nhất về kiểm chuẩn cho 
tất cả các kỹ sư ở các trung tâm xạ trị. Cần có 
đề tài nghiên cứu các vấn đề cần giảng dạy cũng 
như giải pháp thực hiện yêu cầu này. Ngoài đào 
tạo cán bộ chuyên môn cho các cơ sở, chúng ta 
cần phải có quy trình và những tiêu chuẩn chung, 
đáng tin cậy, để các trung tâm tham khảo, thực 
hiện theo và tạo ra sự thống nhất trong cả nước.
Đây là công việc đòi hỏi sự phối hợp của nhiều 
cơ quan và Bộ nhưng chưa có một cơ chế chuyên 
trách thích hợp về vấn đề này. Chúng tôi xin nêu 
ra đây một vài ý kiến về nhu cầu và sự cần thiết 
cấp bách của vấn đề đào tạo nhân lực về kỹ thuật: 
Cần phối hợp giữa Bộ y tế, Bộ Giáo dục và Đào 
tạo với Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ 
quan liên quan xây dựng kế hoạch cụ thể về tổ 
chức, tài chính để thiết lập cơ sở đào tạo chính 
quy cán bộ chuyên môn về 3 lĩnh vực YHHN và 
Xạ trị và Điện quang, đặc biệt là các chuyên gia 
về vật lý y học, hoá dược phóng xạ, kỹ thuật viên 
vận hành, bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa thiết 
bị. 
d) Xây dựng và trang bị thêm cho các cơ 
sở xạ trị YHHN và Điện quang để mở rộng việc 
ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong ung thư, 
tim mạch và thần kinh để chẩn đoán, điều trị và 
theo dõi đánh giá kết quả điều trị. Phát triển thêm 
các cơ sở sản xuất, điều chế, phân phối các thuốc 
phóng xạ mới dùng trong chẩn đoán bệnh bằng 
SPECT, PET/CT và điều trị nhất là điều trị miễn 
dịch PX. Muốn vậy nước ta cần sớm có lò phản 
ứng hạt nhân với công suất lớn hơn. Trước mắt 
cần triển khai thành lập các cơ sở nghiên cứu, sản 
xuất phụ tùng, trang thiết bị y tế công nghệ cao 
ứng dụng năng lượng nguyên tử.
e) Định kỳ tổ chức các sinh hoạt chuyên 
đề, hội thảo khoa học để trao đổi kinh nghiệm, 
cập nhật kiến thức cho cả 3 chuyên ngành trên.
5. Kết luận
Ứng dụng bức xạ ion hoá nói chung và 
trong y tế nói riêng mang lại nhiều lợi ích thiết 
thực cả về khoa học, kinh tế và xã hội. Trên cơ 
sở nhận thức đó Nhà nước ta đã có Chiến lược và 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
33Số 52 - Tháng 9/2017
Chính phủ đã có Quy hoạch về ứng dụng bức xạ 
vì mục đích hoà bình trong đó có riêng cho ngành 
y tế đến năm 2020. Quy hoặc chia ra 2 giai đoạn; 
giai đoạn I đến hết năm 2015. Đến nay tuy đã làm 
được một số việc và có khá nhiều kết quả nhưng 
nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn trong thực 
hiện cho đúng Quy hoạch. Có nhiều việc đã làm 
được nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức 
nhất là về tài chính,nhân lực và phương pháp tổ 
chức thực hiện. Điểm qua một số kết quả đã đạt 
được, chúng ta thấy về tiếp thu kỹ thuật không 
đến mức khó khăn mà vấn đề đáng quan tâm nhất 
là làm sao các cơ sở có được trang thiết bị cần 
thiết, con người cần phải được đào tạo bài bản và 
các kỹ thuật chẩn đoán, điều trị bệnh bằng bức xạ 
được tiến hành một cách hiệu quả, an toàn góp 
phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị. 
Tác giả đề nghị một số giải pháp nêu trên đề nghị 
các nhà chuyên môn, các cấp quản lý tham khảo, 
nhằm đẩy mạnh việc thực hiện một cách hiệu quả 
những yêu cầu của Quy hoạch để mang lại lợi ích 
tốt nhất cho con người, cho xã hội.
Phan Sỹ An
Chủ tịch Danh dự Hội vật lý y học VN, 
Phó Chủ tịch Hội Điện quang 
và Y học hạt nhân Việt Nam
______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kỷ yếu Hội nghị Điện quang và YHHN 
toàn quốc lần thứ 18 ngày 19-20/8/2016 tại Đà 
Nẵng.
2. Phan Sỹ An (2017): Sự hình thành, phát 
triển và đóng góp 45 năm qua của Y học hạt nhân 
Việt Nam. Tạp chí Y học thực hành, số 4 (1038), 
trang 4-9.
3. Phan Sỹ An (2013): Những kỹ thuật Y học 
hạt nhân (YHHN) tiến tiến được triển khai gần 
đây ở Việt Nam và lợi ích chúng mang lại. Tạp 
chí KH&CN hạt nhân online 9/2014
4. Phan Sỹ An (2013):Những tiến bộ gần đây 
và triển vọng sắp tới của chuyên nhành y học hạt 
nhân VN. Tạp chí Khoa học & Công nghệ, Bộ 
KH&CN. Số 661, trang 46-51 
5. Nguyễn Xuân Kử - Bùi Diệu. Một số tiến 
bộ về Kỹ thuật Xạ trị Ung thư. NXB Y học, 2010; 
trang 340-355.
6. Mai Trọng Khoa, Vũ Hữu Khiêm, Phạm 
Cẩm Phương, Phạm Văn Thái et al: Application of 
PET/CT simulation in radiation therapy planning 
at the Nuclear Medicine and Oncology, Bạch 
Mai Hospital, Hanoi, Vietnam. Hội nghị quốc tế 
về ứng dụng lâm sàng của PET và PET/CT do 
IAEA tổ chức tại Vienne vào 7-8.11.2011. Paper 
Number: IAEA-CN-185/XXX. See Section C 
of Announcement: Cancer management and 
treatment planning with PET.
7. Vũ Thị Phương Lan, Lê Ngọc Hà: Nghiên 
cứu giá trị tiên lượng của xạ hình SPECT tưới 
máu cơ tim ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. Tạp 
chí Điện quang, 8.2012.
8. Trần Đình Hà, Dương Đình Phùng, Mai 
Trọng Khoa và CS (2017): Đánh giá vai trò của 
PET/CT trong một số bệnh ung thư thường gặp 
tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh 
viện Bạch Mai.Tạp chí Y học thực hành, số 4 
(1038), trang 43-51.
9. Phạm Thị Len, Phạm Anh Tuấn, Trần Văn 
Thống: Kỹ thuật cấy hạt phóng xạ I-125 điều trị 
ung thư tuyến tiền liệt. Tạp chí Y học thực hành, 
số 4 (1038), trang 40-43.

File đính kèm:

  • pdfnhung_ket_qua_va_thach_thuc_hien_nay_ve_phat_trien_ung_dung.pdf