Những điểm mới cơ bản của luật thư viện 2019

Pháp lệnh Thư viện (sau đây gọi là

Pháp lệnh) được Ủy ban Thường vụ Quốc

hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 2000,

chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 4

năm 2001 đã mở ra một thời kỳ phát triển

mới của sự nghiệp thư viện Việt Nam. Thư

viện đã có vị thế mới, trở thành một thiết

chế văn hóa, thông tin, giáo dục ngoài nhà

trường không thể thiếu trong công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước, nâng cao dân

trí, bồi dưỡng nhân tài.

Nhờ có việc thực thi Pháp lệnh, mạng

lưới thư viện đã phát triển rộng khắp, giúp

cho người sử dụng có điều kiện tiếp cận và

sử dụng thông tin, tri thức tại nơi học tập,

sinh sống và công tác thuận tiện, dễ dàng

hơn. Gần đây, với việc đổi mới phương

thức phục vụ và đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin vào hoạt động thư viện,

người sử dụng đã có thêm cơ hội sử dụng

thư viện không bị giới hạn trong trụ sở của

thư viện mà còn có thể được phục vụ qua

hình thức phục vụ lưu động, luân chuyển và

qua không gian mạng.

pdf 5 trang kimcuc 8380
Bạn đang xem tài liệu "Những điểm mới cơ bản của luật thư viện 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điểm mới cơ bản của luật thư viện 2019

Những điểm mới cơ bản của luật thư viện 2019
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/202012
NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT THƯ VIỆN 2019
TS Vũ Dương Thúy Ngà
 Vụ Thư viện, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
● Tóm tắt: Giới thiệu khái quát một số điểm mới của Luật Thư viện vừa được Quốc hội thông qua. 
Nêu một số kiến nghị, đề xuất để Luật Thư viện được thực thi hiệu quả trong thực tiễn, góp phần 
phát triển sự nghiệp thư viện và văn hóa đọc ở Việt Nam.
● Từ khóa: Luật Thư viện; Pháp lệnh Thư viện; Việt Nam.
OVERVIEW OF NEW CHANGES IN THE LIBRARY LAW 2019
● Abstract: An overview of some new points of the Library Law have just been passed by the 
National Assembly. Stating some recommendations and suggestions for the Law on Library to be 
effectively implemented in practice, contributing to the development of library career and reading 
culture in Vietnam.
● Keywords: Library Law; Library Ordinance; Vietnam.
Pháp lệnh Thư viện (sau đây gọi là 
Pháp lệnh) được Ủy ban Thường vụ Quốc 
hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 2000, 
chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 4 
năm 2001 đã mở ra một thời kỳ phát triển 
mới của sự nghiệp thư viện Việt Nam. Thư 
viện đã có vị thế mới, trở thành một thiết 
chế văn hóa, thông tin, giáo dục ngoài nhà 
trường không thể thiếu trong công cuộc xây 
dựng và phát triển đất nước, nâng cao dân 
trí, bồi dưỡng nhân tài. 
Nhờ có việc thực thi Pháp lệnh, mạng 
lưới thư viện đã phát triển rộng khắp, giúp 
cho người sử dụng có điều kiện tiếp cận và 
sử dụng thông tin, tri thức tại nơi học tập, 
sinh sống và công tác thuận tiện, dễ dàng 
hơn. Gần đây, với việc đổi mới phương 
thức phục vụ và đẩy mạnh ứng dụng công 
nghệ thông tin vào hoạt động thư viện, 
người sử dụng đã có thêm cơ hội sử dụng 
thư viện không bị giới hạn trong trụ sở của 
thư viện mà còn có thể được phục vụ qua 
hình thức phục vụ lưu động, luân chuyển và 
qua không gian mạng. Số lượng người sử 
dụng thư viện đến thư viện và số lượt sách 
báo được đưa ra phục vụ trong thư viện 
công cộng từ năm 2014 - 2018 được tổng 
hợp trong Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả phục vụ người sử dụng của thư viện công cộng
Các chỉ tiêu 2014 2015 2016 2017 2018
Tổng lượt 
người sử 
dụng thư viện 
24.073.568 21.439.302 25.205.656 29.477.733 36.066.809
Tổng lượt 
sách báo 
phục vụ của 
thư viện
51.921.652 57.647.404 46.121.762 55.157.021 58.384.121
(Nguồn số liệu: Số liệu hoạt động thư viện công cộng qua các năm 2014 - 2018)
Tuy nhiên, sau hơn 18 năm thi hành, 
Pháp lệnh đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. 
Một số quy định không còn phù hợp với hệ 
thống văn bản pháp lệnh hiện hành, nhiều 
nội dung quy định không còn đáp ứng với 
yêu cầu phát triển của hoạt động thư viện, 
một số nội dung chưa được quy định hoặc 
chưa cụ thể. Thực hiện Nghị quyết số 
57/2018/QH14 ngày 08 tháng 6 năm 2018 
của Quốc hội ban hành Chương trình xây 
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2020 13
dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh 
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 
2018 và Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 28 
tháng 6 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ, 
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) 
được phân công thực hiện chủ trì soạn thảo 
Luật Thư viện. Luật Thư viện đã được xây 
dựng trên cơ sở luận cứ khoa học và tổng 
kết thực tiễn thi hành, tham khảo có chọn lọc 
kinh nghiệm của một số nước trong khu vực 
và trên thế giới, vận dụng phù hợp với thông 
lệ và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết 
hoặc tham gia, kế thừa các quy định còn phù 
hợp của Pháp lệnh và các văn bản hướng 
dẫn thi hành đã được kiểm nghiệm qua 
thực tiễn. Sau một thời gian triển khai, ngày 
21/11/2019, Luật Thư viện đã được Quốc hội 
chính thức thông qua. Luật Thư viện gồm 06 
chương, 52 điều, có nhiều điểm mới so với 
Pháp lệnh Thư viện trước đây.
1. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT THƯ VIỆN 2019 SO 
VỚI PHÁP LỆNH THƯ VIỆN 
Thứ nhất: Luật Thư viện mở rộng phạm 
vi và đối tượng áp dụng, đặt ra quy định 
mới về các loại thư viện
Về phạm vi điều chỉnh: Pháp lệnh chỉ 
điều chỉnh hệ thống thư viện công lập, chưa 
điều chỉnh hệ thống thư viện tư nhân, thư 
viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài được 
thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Pháp 
lệnh Thư viện quy định thư viện bao gồm 02 
loại hình: Thư viện công cộng và thư viện 
chuyên ngành, đa ngành [2]. Luật Thư viện 
có hiệu lực từ ngày 01/7/2020 quy định thư 
viện được tổ chức theo 02 mô hình: Thư viện 
công lập và Thư viện ngoài công lập. Theo 
đó Thư viện công lập do Nhà nước đầu tư, 
bảo đảm điều kiện hoạt động và đại diện chủ 
sở hữu được tổ chức theo mô hình đơn vị sự 
nghiệp công lập hoặc phù hợp với mô hình 
của cơ quan chủ quản. Thư viện ngoài công 
lập sẽ do tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ 
chức, cá nhân nước ngoài, cộng đồng dân cư 
đầu tư và bảo đảm điều kiện hoạt động được 
tổ chức theo mô hình doanh nghiệp, tổ chức 
sự nghiệp hoặc mô hình khác.
Các loại thư viện được quy định trong 
Luật Thư viện gồm: Thư viện Quốc gia Việt 
Nam; Thư viện công cộng; Thư viện chuyên 
ngành; Thư viện lực lượng vũ trang; Thư viện 
đại học; Thư viện cơ sở giáo dục mầm non, 
phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 
cơ sở giáo dục khác; Thư viện cộng đồng và 
thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng và 
Thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có 
phục vụ người Việt Nam.
Thứ hai: Chính sách phát triển thư viện 
gắn với phát triển văn hóa đọc
Khác với Pháp lệnh, Luật Thư viện đã quy 
định rõ các nội dung có liên quan đến việc 
Nhà nước đầu tư cho thư viện công lập để 
tránh tình trạng đầu tư dàn trải. Các nội dung 
bao gồm: Ưu tiên đầu tư cho Thư viện Quốc 
gia Việt Nam, thư viện cấp tỉnh và thư viện 
có vai trò quan trọng; Hiện đại hóa thư viện; 
Xây dựng thư viện số, tài nguyên thông tin 
dùng chung, tài nguyên thông tin mở; Liên 
thông thư viện trong nước và nước ngoài; 
Sưu tầm, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu 
cổ, quý hiếm, các bộ sưu tập tài liệu có giá 
trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học; Tổ 
chức dịch vụ thư viện lưu động, luân chuyển 
tài nguyên thông tin phục vụ khu vực biên 
giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu 
số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó 
khăn, đặc biệt khó khăn; Đào tạo, bồi dưỡng 
nâng cao năng lực và phát triển nguồn nhân 
lực thư viện và nghiên cứu, ứng dụng thành 
tựu khoa học và công nghệ tiên tiến trong 
hoạt động thư viện. Điểm đáng chú ý trong 
Luật Thư viện là phát triển thư viện cần gắn 
với việc phát triển văn hóa đọc. Luật đã quy 
định: “lấy ngày 21/4 là Ngày Sách và Văn 
hóa đọc Việt Nam”. Theo khoản 2 Điều 29 
của Luật này, việc phát triển văn hóa đọc 
được thực hiện thông qua các hoạt động sau:
- Tổ chức các hoạt động nhằm hình 
thành thói quen đọc sách trong gia đình, 
trường học, cơ quan, tổ chức trên phạm vi 
toàn quốc;
- Hướng dẫn phương pháp, kỹ năng đọc 
sách, khai thác thông tin cho trẻ em tại các 
thư viện trường học và thư viện công cộng;
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/202014
- Phát triển kỹ năng thông tin cho người 
sử dụng thư viện trong tìm kiếm, đánh giá, 
khai thác và sáng tạo thông tin, tri thức;
- Đẩy mạnh liên thông giữa thư viện công 
cộng với các thư viện khác trên địa bàn; Truy 
cập và khai thác thông tin, kiến thức từ các 
thư viện số dùng chung qua thiết bị điện tử di 
động; Sử dụng các dịch vụ thư viện lưu động 
và luân chuyển tài nguyên TT-TV.
Thứ ba: Mở rộng đối tượng được thành 
lập thư viện
Theo Pháp lệnh Thư viện, chỉ có tổ chức 
của Việt Nam có quyền thành lập thư viện. 
Các tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt 
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân 
nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt 
Nam có quyền tham gia vào các hoạt động 
do thư viện tổ chức.
Luật Thư viện mới đã mở rộng quy định 
này, tăng cường công tác xã hội hóa hoạt 
động thành lập thư viện. Theo đó, không chỉ 
dừng lại ở các tổ chức của Việt Nam mà mọi 
tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư đều có 
quyền thành lập thư viện ngoài công lập khi 
đáp ứng đủ các điều kiện:
- Mục tiêu, đối tượng phục vụ được xác 
định rõ ràng;
- Tài nguyên thông tin phù hợp với chức 
năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ của thư 
viện;
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm 
phục vụ cho hoạt động thư viện; 
- Người làm công tác thư viện có chuyên 
môn phù hợp với hoạt động của thư viện;
- Người đại diện theo pháp luật của thư 
viện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ tư: Quy định về hoạt động thư viện 
và việc thực hiện liên thông giữa các thư 
viện
Hoạt động thư viện ở Việt Nam chỉ có thể 
phát triển được khi các thư viện thực hiện 
đúng chức trách và nhiệm vụ của mình, tổ 
chức các hoạt động chuyên môn nghiệp 
vụ khoa học, đúng quy định của pháp luật. 
Điểm mới của Luật Thư viện so với Pháp 
lệnh Thư viện trước đây là đã có một chương 
với 14 điều quy định về hoạt động thư viện, 
trong đó quy định các nguyên tắc hoạt động 
thư viện, bao gồm: 
- Lấy người sử dụng thư viện làm trung 
tâm; Tạo lập môi trường thân thiện, bình 
đẳng; Bảo đảm quyền tiếp cận và sử dụng 
thư viện của tổ chức, cá nhân; 
- Tài nguyên thông tin được thu thập, xử 
lý, lưu giữ, bảo quản và phổ biến phù hợp 
với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia 
và chuẩn nghiệp vụ liên quan trong lĩnh vực 
thư viện; 
- Thường xuyên đổi mới sáng tạo về quy 
trình, sản phẩm thông tin, dịch vụ thư viện 
trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học và 
công nghệ tiên tiến; 
- Thực hiện liên thông thư viện;
- Tuân thủ quy định của pháp luật về sở 
hữu trí tuệ, khoa học và công nghệ, công 
nghệ thông tin, an ninh mạng và quy định 
khác của pháp luật có liên quan.
Gắn với dây chuyền hoạt động thư viện, 
Luật đã đặt ra các quy định cụ thể. Điểm 
mới của Luật là đã đưa ra những quy định, 
trong đó tạo điều kiện thuận lợi cho các thư 
viện phát triển trong bối cảnh việc ứng dụng 
công nghệ thông tin và truyền thông đang 
được đẩy mạnh. 
Trong chương về hoạt động thư viện có 
đưa ra quy định về xây dựng và cung cấp 
dịch vụ thư viện số. Thư viện số là thư viện 
hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên 
thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà 
người sử dụng truy cập và khai thác thông 
qua thiết bị điện tử và không gian mạng. 
Xây dựng cơ sở dữ liệu, thư viện số là chức 
năng, nhiệm vụ của tất cả các loại hình thư 
viện. Việc phát triển tài nguyên thông tin số 
được dựa trên cơ sở thu thập tài liệu số hoặc 
số hóa tài liệu của thư viện. Người sử dụng 
được cung cấp quyền truy cập tài nguyên 
thông tin số và các dạng khác.
Để các thư viện chú trọng hơn đến việc 
liên kết, chia sẻ với nhau trong hoạt động 
thư viện, Luật Thư viện đã đặt ra những quy 
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2020 15
định cụ thể hơn về liên thông thư viện. Liên 
thông thư viện là hoạt động liên kết, hợp 
tác giữa các thư viện nhằm sử dụng hợp 
lý, có hiệu quả tài nguyên, tiện ích, kết quả 
xử lý và các sản phẩm, dịch vụ thư viện. 
Thực hiện liên thông là nguyên tắc hoạt 
động chung của cả thư viện công lập và thư 
viện ngoài công lập (khoản 4 Điều 24). Tài 
nguyên thông tin được xây dựng từ ngân 
sách nhà nước phải được liên thông, chia 
sẻ giữa các thư viện. 
Theo quy định của Luật Thư viện, liên 
thông thư viện bao gồm các nội dung: Hợp 
tác trong việc bổ sung, mua, thu thập tài 
nguyên thông tin dùng chung và hợp tác 
trong xây dựng mục lục liên hợp; Chia sẻ, 
sử dụng chung tài nguyên thông tin giữa các 
thư viện; Chia sẻ kết quả xử lý tài nguyên 
thông tin và sản phẩm TT-TV và liên kết 
tổ chức dịch vụ thư viện phục vụ người sử 
dụng thư viện.
Theo đó, việc liên thông thư viện được 
thực hiện theo các phương thức: Liên thông 
theo khu vực địa lý; Theo nhóm thư viện 
có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục 
vụ tương đồng; Theo nội dung, lĩnh vực tài 
nguyên thông tin thư viện và liên thông giữa 
các loại thư viện.
Cơ chế thực hiện liên thông thư viện 
được quy định như sau:
- Thư viện được Nhà nước ưu tiên đầu 
tư làm nòng cốt trong xây dựng, chia sẻ và 
khai thác tài nguyên thông tin dùng chung 
giữa các thư viện;
- Hợp tác trong việc bổ sung, mua quyền 
truy cập và chia sẻ tài nguyên thông tin 
nước ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn kinh 
phí của Nhà nước và xã hội;
- Tài nguyên thông tin được xây dựng từ 
ngân sách nhà nước phải được liên thông, 
chia sẻ giữa các thư viện [1].
Để việc thực hiện liên thông, kết nối chia 
sẻ thông tin trong các thư viện được triển 
khai nghiêm túc, trong thời gian tới Chính 
phủ sẽ xây dựng và ban hành nghị định 
hướng dẫn cụ thể hơn về các quy định này.
Thứ năm: Việc đánh giá hoạt động thư 
viện phải thực hiện hằng năm
Đây là quy định hoàn toàn mới so với Pháp 
lệnh, theo đó, việc đánh giá hoạt động thư 
viện được thực hiện đối với tất cả các loại thư 
viện nhằm mục đích phục vụ công tác quản 
lý nhà nước về thư viện và nâng cao hiệu quả 
hoạt động thư viện. Thư viện được nhìn nhận 
là một cơ quan, tổ chức hoặc một bộ phận 
của cơ quan tổ chức cung cấp dịch vụ công. 
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, thư viện được 
Nhà nước bảo trợ với mục đích hỗ trợ quyền 
tiếp cận thông tin và lợi ích hưởng thụ văn 
hóa cơ bản của công dân, nâng cao trình độ 
văn minh xã hội và nâng cao tố chất khoa 
học và văn hóa cho công dân, truyền bá văn 
minh của nhân loại, gìn giữ sự tự tôn trong 
văn hóa truyền thống của dân tộc. Chính vì 
thế, việc đánh giá hoạt động thư viện là một 
trong những yêu cầu đặt ra để các thư viện 
có thể đánh giá được đầy đủ những kết quả 
đã đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại 
để hoàn thiện dịch vụ của mình. 
Việc thực hiện đánh giá hoạt động thư 
viện phải đảm bảo các nguyên tắc: Khách 
quan, chính xác, đúng quy định; Trung thực, 
công khai, minh bạch, bình đẳng và định kỳ 
hằng năm.
Tiêu chí, phương pháp, thủ tục đánh giá 
hoạt động thư viện được thực hiện theo tiêu 
chuẩn quốc gia. Quy định này có điểm tương 
đồng với quy định của một số nước phát triển 
ở châu Á. Chẳng hạn như, Luật Thư viện Nhật 
Bản quy định: Thư viện phải tiến hành đánh 
giá tình hình điều hành thư viện, đồng thời 
phải có biện pháp cần thiết nhằm cải thiện 
tình hình điều hành thư viện dựa trên kết quả 
đó [5]. Luật Thư viện Công cộng nước cộng 
hòa Nhân dân Trung Hoa cũng xác định: Bộ 
Văn hóa và Du lịch, Sở Văn hóa và Du lịch 
các tỉnh trực thuộc Trung ương, khu tự trị có 
trách nhiệm xây dựng các tiêu chuẩn đánh 
giá trình độ, chất lượng dịch vụ thư viện công 
cộng và tổ chức đánh giá chất lượng, mức độ 
phục vụ của thư viện công cộng. Việc đánh 
giá này phải có sự tham gia của công chúng, 
kết quả đánh giá phải được công bố rộng rãi 
và được sử dụng để tăng cường đầu tư cho 
thư viện hoặc khen thưởng [5].
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/202016
Trong Luật Thư viện 2019 đã quy định rõ 
việc tổ chức thực hiện đánh giá hoạt động 
thư viện, bao gồm: Thư viện tự đánh giá; Cơ 
quan, tổ chức thành lập thư viện đánh giá 
và cơ quan quản lý nhà nước về thư viện 
đánh giá [1]. Như vậy, định kỳ hằng năm 
tất cả các thư viện đều phải đánh giá hoạt 
động theo tiêu chuẩn quốc gia. Hiện nay, 
đã có hai tiêu chuẩn quốc gia liên quan đến 
đánh giá hoạt động thư viện được ban hành, 
đó là: TCVN 11774:2016 (ISO 11620:2014) 
Thông tin và tư liệu - Bộ chỉ số đánh giá hoạt 
động thư viện và TCVN 12103:2017 (ISO 
16439:2014) Thông tin và tư liệu - Phương 
pháp và thủ tục đánh giá tác động của thư 
viện. Việc đánh giá và lựa chọn các tiêu chí 
trong các TCVN sẽ được thực hiện theo văn 
bản hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, 
Thể thao và Du lịch.
2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 
Luật Thư viện góp phần hoàn thiện hệ 
thống pháp luật, tiếp tục thể chế hóa quan 
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp 
luật của Nhà nước, quy định về quyền con 
người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân 
trong lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội được 
quy định tại Hiến pháp năm 2013 và đảm 
bảo tính thống nhất, đồng bộ với các luật liên 
quan. Để Luật Thư viện đi vào thực tiễn, cần:
1. Đối với Chính phủ: Sớm xây dựng và 
ban hành Nghị định quy định chi tiết một số 
điều thi hành Luật Thư viện
2. Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 
lịch
- Xây dựng và ban hành các Thông tư 
hướng dẫn cụ thể các điều khoản đã được 
phân công trong Luật Thư viện;
- Tổ chức phổ biến Luật Thư viện và các 
văn bản hướng dẫn để việc triển khai Luật 
Thư viện hiệu quả và thực sự đi vào đời sống.
3. Kiến nghị với Bộ ngành, địa phương
- Triển khai công tác tuyên truyền, phổ 
biến Luật Thư viện;
- Nâng cao năng lực, hiệu quả, lãnh đạo, 
chỉ đạo và quản lý nhà nước trong việc xây 
dựng, phát triển mạng lưới thư viện bộ ngành, 
địa phương theo quy định của Luật Thư viện;
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang 
thiết bị, nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động 
thư viện phát triển, đặc biệt chú trọng đối với 
các thư viện được ưu tiên đầu tư có vai trò 
quan trọng đảm bảo tiêu chí theo quy định 
của Chính phủ.
4. Đối với các thư viện và cơ quan, tổ 
chức, cá nhân liên quan
- Nghiêm túc tìm hiểu và thực hiện các 
quy định của Luật Thư viện;
- Nâng cao vai trò tham mưu tích cực, 
chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công 
chức các cơ quan quản lý nhà nước trong 
công tác xây dựng và ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật về thư viện tại các bộ ngành, 
địa phương;
- Nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ, 
viên chức làm công tác thư viện về vai trò, 
vị trí của ngành, ý thức về quyền hạn, trách 
nhiệm của mỗi cá nhân trong việc tổ chức và 
cung cấp các dịch vụ thư viện theo quy định 
của Luật;
- Nâng cao nhận thức của những người 
tham gia, liên quan và sử dụng dịch vụ thư viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2019). Luật Thư viện số 46 thông 
qua ngày 21 tháng 11 năm 2019
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2000). Pháp 
lệnh Thư viện. 
3. Nghị định 72 số 72/2002/NĐ-CP của Chính 
phủ ngày 06 tháng 8 năm 2002 quy định chi tiết 
thi hành Pháp lệnh Thư viện quy định.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019). Báo 
cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Thư viện.
5. Luật Thư viện Nhật Bản/Nguyễn Quốc 
Vương dịch.
6. Luật Thư viện Trung Quốc: Ban hành ngày 04 
tháng 11 năm 2017 và có hiệu lực ngày 01 tháng 
01 năm 2018, truy cập tại: 
cn/npc/xinwen/2017-11/04/content_2031427.
htm/LêTùng Sơn dịch.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-11-2019; Ngày 
phản biện đánh giá: 6-12-2019; Ngày chấp nhận 
đăng: 15-01-2020).
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI

File đính kèm:

  • pdfnhung_diem_moi_co_ban_cua_luat_thu_vien_2019.pdf