Những đề xuất về phát triển đi lên mạng thế hệ mới - Tương lai của mạng viễn thông

Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc

của khoa học công nghệ, mọi khía cạnh của cuộc

sống xã hội từ lối sống đến nhu cầu tiêu dùng

hàng ngày đều liên quan đến Internet và truyền

thông. Mạng viễn thông trở thành yếu tố gắn chặt

với sự phát triển của xã hội, đã thâm nhập và thay

đổi lối sống của con người, từ việc làm, tiêu khiển

đến những tác động xã hội. Tuy vậy, Internet hiện

thời vẫn thiếu đi sự linh động, sự trong suốt, vấn

đề chuyển đổi, giao thức không phù hợp. Cho

nên, đến nay rất cần có những nghiên cứu cho

mạng viễn thông tương lai, trên cơ sở xem xét

những khía cạnh của mạng viễn thông hiện tại,

và thiết kế mới với các yêu cầu mới, phù hợp cho

các nhu cầu hiện tại cũng như trong tương lai. Bài

báo đã nghiên cứu tầm nhìn mới về mạng viễn

thông tương lai, các tác động của nó với đời sống

con người và xã hội, các mục tiêu cần đạt được

để thực sự có được mạng thế hệ mới, mạng tương

lai của viễn thông. Bài báo còn đề xuất các hướng

phát triển đi lên mạng thế hệ mới của mạng viễn

thông hiện tại, nhất là của mạng Viễn thông Việt

nam hiện nay.

pdf 11 trang kimcuc 7980
Bạn đang xem tài liệu "Những đề xuất về phát triển đi lên mạng thế hệ mới - Tương lai của mạng viễn thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những đề xuất về phát triển đi lên mạng thế hệ mới - Tương lai của mạng viễn thông

Những đề xuất về phát triển đi lên mạng thế hệ mới - Tương lai của mạng viễn thông
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG50 Số 1 năm 2016
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN 
MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI 
CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Trần Minh Anh*, Bùi Trung Hiếu+, Nguyễn Chiến Trinh+ 
* Viễn thông Đà Nẵng 
+ Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông
Tóm tắt: Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc 
của khoa học công nghệ, mọi khía cạnh của cuộc 
sống xã hội từ lối sống đến nhu cầu tiêu dùng 
hàng ngày đều liên quan đến Internet và truyền 
thông. Mạng viễn thông trở thành yếu tố gắn chặt 
với sự phát triển của xã hội, đã thâm nhập và thay 
đổi lối sống của con người, từ việc làm, tiêu khiển 
đến những tác động xã hội. Tuy vậy, Internet hiện 
thời vẫn thiếu đi sự linh động, sự trong suốt, vấn 
đề chuyển đổi, giao thức không phù hợp... Cho 
nên, đến nay rất cần có những nghiên cứu cho 
mạng viễn thông tương lai, trên cơ sở xem xét 
những khía cạnh của mạng viễn thông hiện tại, 
và thiết kế mới với các yêu cầu mới, phù hợp cho 
các nhu cầu hiện tại cũng như trong tương lai. Bài 
báo đã nghiên cứu tầm nhìn mới về mạng viễn 
thông tương lai, các tác động của nó với đời sống 
con người và xã hội, các mục tiêu cần đạt được 
để thực sự có được mạng thế hệ mới, mạng tương 
lai của viễn thông. Bài báo còn đề xuất các hướng 
phát triển đi lên mạng thế hệ mới của mạng viễn 
thông hiện tại, nhất là của mạng Viễn thông Việt 
nam hiện nay.1
Từ khóa: Internet, mạng, NwGN, thế hệ mới, 
tương lai.
I. GIỚI THIỆU
Ngày nay, nhu cầu thông tin và truyền thông trở 
nên cực kỳ quan trọng, là điều kiện sống còn của 
Tác giả liên lạc: Trần Minh Anh, 
email: anhtm.dng@vnpt.vn
Đến tòa soạn: 14/3/2016, chỉnh sửa: 28/4/2016, 
chấp nhận đăng: 30/5/2016.
Một phần kết quả bài báo được trình bày tại hội nghị 
quốc gia ECIT’2015.
mọi hoạt động của xã hội, như kinh tế, chính trị, 
an ninh quốc phòng đến những nhu cầu cần thiết 
hàng ngày của người dân, của mọi tổ chức, doanh 
nghiệp. Việc phát triển mạnh mẽ của mạng viễn 
thông - công nghệ thông tin đã và đang là nền 
tảng phát triển của xã hội, và cũng là nền tảng 
của sự phát triển của các dịch vụ hướng đến cộng 
đồng, hướng đến nhu cầu của toàn xã hội. Vì thế, 
công nghệ mà nhất là công nghệ ngành Thông 
tin-Truyền thông phải đi trước một bước phục vụ 
cho sự phát triển chung đó.
Thách thức đang đặt ra cho hạ tầng mạng viễn 
thông hiện nay đó là hạn chế về tốc độ truy cập, 
chất lượng dịch vụ suy giảm nhiều khi số lượng 
kết nối tăng đột biến. Nguyên nhân là việc thiết 
kế và sử dụng từ những năm 1960 nên tầm nhìn 
thiết kế, cấu trúc của mạng viễn thông chỉ gói gọn 
trong việc chuyển tải thông tin, truyền tin trong 
phạm vi hẹp. Những cải tiến đến nay chỉ giải 
quyết những hạn chế và nhược điểm cục bộ, chưa 
có những giải pháp mang tính tổng thể mang tính 
toàn cầu.
Trong khi đó, số lượng nút mạng tăng nhanh, nhu 
cầu của xã hội gồm cả tổ chức, doanh nghiệp và 
nhất là các hộ gia đình, các cá nhân lại có xu hướng 
tăng đột biến. Các thách thức đó đã làm cho mạng 
viễn thông hiện tại đối mặt với những khó khăn và 
yêu cầu cần có những giải pháp đồng bộ, căn cơ và 
đồng thời là sự chung tay toàn cộng đồng. 
Từ những năm đầu thế kỷ 21, những nước có nền 
kinh tế phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, châu 
Âu đã có những bước đi đầu tiên trong việc 
hoạch định một khung nền cho một mạng mới, 
mang tính giải pháp dài lâu cho công nghệ viễn 
Trần Minh Anh, Bùi Trung Hiếu, Nguyễn Chiến Trinh
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
 Số 1 năm 2016 51
thông của tương lai. Nhiều dự án nghiên cứu 
đã được đưa ra nhằm giải quyết căn bản những 
vấn đề còn tranh cãi, còn gặp phải vướng mắc 
và nhằm nghiên cứu, thiết kế mạng viễn thông 
tương lai thay thế cho mạng hiện tại. Phải kể đến 
các dự án như AKARI, FIND, FP7, New Arch 
 hay các nghiên cứu của ITU-T (nhóm FN) đã 
hoạch định nên một khung sườn, một hình mẫu 
của mạng viễn thông tương lai hay mạng thế hệ 
mới. Mục tiêu hướng đến của những nghiên cứu 
này bao gồm một kế hoạch dài hạn với việc thiết 
kế từ đầu, dần hoàn thiện và định hình một mạng 
viễn thông thế hệ mới (còn được gọi là NwGN). 
Mạng tương lai này (NwGN) đã và đang là cái 
hướng đích hướng đến của cộng đồng mạng trong 
việc xây dựng một thế hệ mạng mang tính mới, 
tính mở [1, 2, 8], và mang tính định hướng cho 
toàn cầu về một Internet có tính khả dụng cao, vừa 
đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa có tầm nhìn 
đến tương lai, cho những nhu cầu cần thiết trong 
tương lai. Các dự án, nghiên cứu trên cụ thể như 
Hình 1 sau:
Hình 1. Các dự án, nghiên cứu về mạng thế hệ mới
Các dự án trên đều tập trung nghiên cứu, thiết kế, 
cấu trúc, cấu tạo mạng  của mạng viễn thông 
thế hệ mới và các mục tiêu nhằm để mạng thế hệ 
mới có thể đáp ứng tốt được nhu cầu của cộng 
đồng xã hội cũng như sự phát triển nhanh của xã 
hội ngày nay. 
Nhằm nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng mạng thế 
hệ mới, cũng như định hướng hướng đến mạng 
thế hệ mới, bài báo tập trung vào phân tích chi 
tiết các yếu tố liên quan đến NwGN như tầm nhìn 
chiến lược về NwGN trong giai đoạn tới, từ đó, 
nêu bật khả năng và những mục tiêu ngắn hạn và 
dài hạn của NwGN. Các mục tiêu này chính là 
đích đến của mọi quốc gia, mọi nhà sản xuất, kinh 
doanh, khai thác mạng trong tương lai. Trên cơ sở 
đó, bài báo đề xuất các định hướng mang tính 
chiến lược, tầm nhìn và tư duy mới về Internet 
nói riêng, công nghệ nói chung, trong đó, việc đề 
xuất liên quan đến tiệm cận hoá mạng viễn thông 
Việt nam hiện tại hướng đến NwGN với mục tiêu 
đi tắt, đón đầu hiệu quả, ít tốn kém và đảm bảo 
phát triển lâu dài, bền vững cho nền kinh tế trong 
thời đại thông tin mới. 
Phần tiếp theo bài báo gồm các phần như sau. 
Phần II nói về tầm nhìn mới về NwGN. Phần III 
mô tả về khả năng và mục tiêu của NwGN. Phần 
IV là các đề xuất về định hướng phát triển đi lên 
NwGN của mạng viễn thông nói chung, mạng 
viễn thông Việt Nam nói riêng. Phần V là phần 
kết luận của bài báo về tiến trình đi lên NwGN từ 
mạng viễn thông hiện nay.
II. TẦM NHÌN MỚI VỀ MẠNG THẾ HỆ MỚI
Xác lập mục tiêu là xây dựng mạng viễn thông 
thế hệ mới có năng lực vượt trội so với mạng hiện 
tại, NwGN nhắm đến việc duy trì và tạo lập một 
mạng mới có khả năng đáp ứng tốt cho một xã 
hội thông tin trong giai đoạn bùng nổ mới. 
Tiếp theo các nghiên cứu của các cường quốc 
hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật Bản  đồng thời 
để xây dựng một khung pháp lý chung, ngay từ 
năm 2009, tổ chức viễn thông quốc tế (ITU) đã 
xây dựng một nhóm công tác đặc biệt về vấn đề 
trên gọi là nhóm FG-FN (Focus Group on Future 
Network). Nhóm trên đã đề xuất một tầm nhìn 
mang tính tổng quát và chiến lược cho mạng 
tương lai như [12], tựu trung ở việc đáp ứng 4 
yêu cầu chính: Môi trường, Dịch vụ, Dữ liệu và 
Kinh tế xã hội, xem Hình 2.
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG52 Số 1 năm 2016
Hình 2. Bốn mục tiêu và mười hai hướng thiết kế mạng 
tương lai - Nguồn [12]
Qua đó, có thể thấy được xu hướng dịch chuyển 
dịch vụ từ tĩnh sang động, từ cố định sang di động, 
từ một vài điểm đến khắp nơi đã trở thành xu 
hướng chung của mạng viễn thông, trong đó 
việc mạng viễn thông hướng đến quảng đại quần 
chúng, đa dạng cách thức kết nối và sử dụng dẫn 
đến số lượng thiết bị viễn thông, chủng loại, loại 
hình dịch vụ và số lượng người tham gia thị trường 
mạng ngày càng tăng mạnh mẽ. Không chỉ thụ 
động hưởng thụ dịch vụ, người sử dụng còn hướng 
đến các dịch vụ chủ động hơn, thông qua các dịch 
vụ tương tác trực tiếp hay trực tiếp lựa chọn hệ 
thống cung cấp tốt hơn khi sử dụng dịch vụ. 
Từ đó, việc chấp nhận tính đa dạng của nhu cầu 
con người, hướng đến đáp ứng nhu cầu thực tế 
của người dùng, NwGN chính là nền móng cho 
hạ tầng thông tin và truyền thông mới đáp ứng sự 
phát triển liên tục, mạnh mẽ của xã hội hiện nay, 
từ nay đến những năm 2020 và các năm tiếp theo. 
Với tầm nhìn như vậy, trước mắt các định hướng 
chính về mặt giải pháp và công nghệ cần được 
thực hiện cụ thể như: NwGN cần hướng đến các 
mục tiêu và các giá trị thực tiễn của xã hội, chia 
sẻ nhận thức mới về các giải pháp liên quan đến 
các vấn đề xã hội trong tương lai, xây dựng một 
hình ảnh của xã hội truyền thông và thông tin 
tương lai và xây dựng một mạng thế hệ mới có 
tầm nhìn hướng xa về tương lai, trong đó yếu tố 
mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng được đặc biệt 
nhấn mạnh ...
Bên cạnh đó, việc xây dựng các giá trị của mạng thế 
hệ mới (NwGN) đóng vai trò quan trọng. Nó hình 
thành nên tầm nhìn mang tính chiến lược, từ đó, 
khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các nhà nghiên 
cứu tập trung xây dựng và hình thành. Các giá trị 
đó, tựu trung là: Giảm thiểu các yếu tố tiêu cực của 
các vấn đề xã hội hiện tại, tối ưu hoá các yếu tố tích 
cực, tiềm năng, đóng góp vào việc tổng hoà các giá 
trị xã hội như [2] đã đề cập. Xem Hình 3.
Hình 3. Các yêu cầu về kỹ thuật của NwGN - Nguồn NICT [2]
Để hiện thực hoá các giải pháp và tầm nhìn mới 
về mạng NwGN, việc tận dụng các giải pháp hiện 
hành bao gồm các giải pháp về các vấn đề xã hội, 
các vấn đề về viễn cảnh tương lai và các giải pháp 
cho việc tổng hoà các yếu tố xã hội, trong đó tôn 
trọng tính đa dạng và khuyến khích sự hợp tác 
của các thành viên trong xã hội đó.
III. KHẢ NĂNG VÀ MỤC TIÊU CỦA MẠNG 
THẾ HỆ MỚI 
A. Khả năng của NwGN
Với tầm nhìn được xác định như phần II, khả 
năng của NwGN được xác định là một mạng 
đem lại những giá trị cơ bản cho xã hội, trong đó 
thông tin, truyền thông ngày càng đóng vai trò 
quan trọng, đủ sức giải quyết các thách thức của 
điều kiện mới. Việc đảm bảo chất lượng dịch vụ, 
Trần Minh Anh, Bùi Trung Hiếu, Nguyễn Chiến Trinh
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
 Số 1 năm 2016 53
đáp ứng tốt hơn về mặt hiệu quả kinh tế, cũng 
như đảm bảo thích ứng tốt với điều kiện môi 
trường, giảm công suất điện trên từng byte thông 
tin để đáp ứng sự phát triển liên tục, mạnh mẽ của 
xã hội trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và 
những năm tiếp theo, chính là những yếu tố mà 
khả năng của NwGN phải đạt được.
B. Các nhóm mục tiêu của NwGN
Để có được những khả năng trên, việc đặt ra các 
mục tiêu cụ thể của NwGN cũng đóng vai trò 
quan trọng, nhất là mang tính định hướng, hướng 
đến một mạng mới, có khả năng đáp ứng mọi nhu 
cầu thông tin, mọi nơi, mọi lúc, với tốc độ cao, 
chất lượng tốt. Việc đặt ra các mục tiêu này được 
định nghĩa bởi nhiều dự án, của nhiều quốc gia, 
nhiều nhà nghiên cứu như phần I đã đề cập, cụ 
thể các nhóm mục tiêu chính như: Nhóm mục 
tiêu mang tính xã hội, nhóm mục tiêu hướng về 
không gian truy nhập, nhóm mục tiêu định hướng 
cơ sở hạ tầng, nhóm mục tiêu về môi trường và 
năng lượng, nhóm mục tiêu về giải pháp kỹ thuật, 
công nghệ và nhóm mục tiêu bảo an, an ninh, an 
toàn dữ liệu.
Mạng viễn thông ngày càng trở thành một mạng 
mà tính xã hội đang thể hiện rõ nét. Do đó, mục 
tiêu xã hội là yếu tố then chốt của NwGN, trong 
đó mục tiêu cụ thể NwGN phải là một mạng 
có thể phục vụ hàng tỉ người, từ trẻ em đến cả 
người già đều có thể trở thành một thành viên của 
mạng, và qua đó mọi nhu cầu, ứng xử, giao tiếp 
của thành viên tham gia mạng được xử lý, quản 
lý phù hợp với tiêu chí của một xã hội thông tin 
rộng mở như [1, 3, 9] đề xuất. Do đó, NwGN cần 
được nâng cao vai trò trong việc hỗ trợ các nhu 
cầu thông tin tuỳ theo lứa tuổi, thu hẹp khoảng 
cách về năng lực sử dụng mạng đồng thời phát 
huy tính hòa nhập, thân thiện với môi trường 
của các thành viên mạng [1, 4, 8], đảm bảo các 
nguyên tắc kinh tế, thiết kế kỹ thuật, yêu cầu thực 
tiễn trong hoạch định chính sách [2, 3, 4, 5], tạo 
điều kiện phát triển, xây dựng sự gắn kết và hỗ 
trợ nghiên cứu chính sách cộng đồng bằng cách 
cung cấp diễn đàn và chỉ dẫn phát triển dịch vụ 
[6]. Để đảm bảo được điều đó, NwGN cần có một 
không gian truy nhập đặc thù, với khả năng truy 
nhập mạng mọi nơi, bằng mọi hình thức khả dĩ: 
di động/cố định, có dây/ không dây  trong đó 
các loại hình dịch vụ đều sử dụng chung hạ tầng 
mạng. 
Hình 4. Hội tụ dịch vụ và hạ tầng mạng
Khi đó, NwGN cần xây dựng cơ sở hạ tầng 
(CSHT) đồng bộ, thống nhất, đa năng, đa dạng 
như [1, 2], với mục tiêu CSHT chất lượng tốt, khả 
năng đáp ứng tốt được yêu cầu ngày càng cao của 
các loại hình dịch vụ mới, công nghệ mới, nhằm 
ngày càng góp phần tạo ra các giá trị thực tiễn 
cuộc sống, gắn liền với các nhu cầu đích thực của 
xã hội, như: khám chữa bệnh, điều hành chính 
phủ e-Gov, giáo dục e-Edu, e-School ... [1, 4], 
hay mạng thông minh, đa dạng [1, 3, 8] ... 
Đạt được các yếu tố trên, NwGN vẫn cần đảm 
bảo về yếu tố môi trường, năng lượng. Đây là 
nhóm mục tiêu chiếm phần lớn sự quan tâm của 
các dự án, vì chính nó quyết định việc chuyển 
mình sang NwGN có thành công hay không, có 
đủ sức thu hút hay không. Với các điều kiện đặt 
ra như lượng tiêu thụ điện của mạng thế hệ mới 
ngày càng nhỏ, bao gồm: giảm tổng lượng điện 
năng tiêu thụ, kiểm soát lưu lượng dữ liệu đi qua 
mạng, tối ưu hóa việc định tuyến thông tin, sử 
dụng mạng tiết kiệm và đạt hiệu quả tối đa với 
tài nguyên số, tài nguyên sóng điện từ, tài nguyên 
khác ... [1, 2, 10], thì rõ ràng tiêu chí về “xanh” 
hóa mạng là rất hiệu quả và đầy sức thu hút. Bên 
cạnh đó, NwGN phải là mạng chịu đựng được các 
thách thức của môi trường, về biến đổi khí hậu ... 
được đề cập trong [4, 8] cũng như nhiều dự án 
khác, nhằm xây dựng một mạng mới có khả năng 
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG54 Số 1 năm 2016
chống chọi lại với các điều kiện khắc nghiệt của 
môi trường, và rõ ràng, đây là một trong những 
vấn đề gai góc nhất trong cách tiếp cận của mạng 
thế hệ mới. 
Đối với mục tiêu về giải pháp kỹ thuật, công 
nghệ, thì rõ ràng, cần áp dụng các công nghệ mới 
nhất, công nghệ hiệu quả nhất phục vụ cho đại 
đa số người dân trong quá trình sử dụng mạng, 
trong đó việc đầu tư về nghiên cứu và phát triển 
(R&D) một cách trọng điểm để tiến tới xây dựng 
một mạng có công nghệ mới nhất phục vụ cho 
việc phát triển mạng xanh, mạng hiệu quả nhất 
cho các nhu cầu thông tin tương lai. Với các công 
nghệ truyền dẫn mới IPoMPLS, OTN, việc mạng 
lõi đạt tốc độ hàng tỷ Mbps sẽ giúp cho việc 
truyền tải thông tin ngày càng thuận tiện, tạo ra 
một mặt phẳng dữ liệu mới, trên đó việc truyền 
tải thông tin được thực hiện nhanh hơn, đồng thời 
các thiết bị truyền dẫn có thể thay đổi cấu hình 
tự động, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về 
dữ liệu trong tương lai, đồng thời giúp cho việc 
tích hợp hệ thống mạng trên nền mạng quang tiên 
tiến, tốc độ cao và đa nhiệm.
Bên cạnh các nhóm mục tiêu trên, nhóm mục tiêu 
an ninh, an toàn dữ liệu cũng là một nhiệm vụ rất 
quan trọng của mạng mới. Với NwGN, các yêu 
cầu về an toàn, an ninh mạng lưới được đặt lên 
cao hơn so với các mạng viễn thông thế hệ trước, 
nhằm đảm bảo an ninh mạng tốt hơn cho người 
sử dụng, cho nhà quản lý cũng như các nhà hoạch 
định chính sách, đồng thời cần thiết kế sao cho hệ 
thống có thể thực hiện được an toàn v ... n Internet của 
mọi thứ. 
5. Xây dựng và triển khai một lộ trình hiện 
đại hóa mạng lői viễn thông, nhằm đáp ứng 
ngay nhu cầu hiện tại, đồng thời có hướng 
đến mạng viễn thông thế hệ mới. Công nghệ 
OTN, theo khuyến nghị G.709, G.872 ... của 
ITU-T tại [14, 15], sẽ là một hướng công nghệ 
rõ ràng của tương lai, ít nhất là vài thập kỷ 
nữa. Với Việt Nam hiện nay, việc nâng cấp, 
đầu tư ngay mạng lõi công nghệ OTN sẽ là 
một hướng công nghệ rất đáng đầu tư ngay 
từ bây giờ [16, 17] để hoàn thiện dần mạng 
lõi, mạng gom. Về mạng truy nhập và các 
mạng ngoại vi, cần có tiến trình hiện đại hoá 
cụ thể, nâng cấp tốc độ của các mạng biên, 
kết nối lõi với tốc độ cao, đồng thời tổ chức 
quang hoá đến cấp thấp nhất trong mạng viễn 
Trần Minh Anh, Bùi Trung Hiếu, Nguyễn Chiến Trinh
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
 Số 1 năm 2016 57
thông, càng nhiều, càng sớm càng tốt. Việc 
tích hợp môi trường truyền tải dịch vụ có dây, 
không dây, sensor, wifi  để có thể phục vụ 
nhu cầu sử dụng dịch vụ mọi lúc, mọi nơi  
Riêng về công nghệ mạng, việc nghiên cứu 
ứng dụng các giải thuật định tuyến đa năng, 
các mô hình mới trong cấu trúc mạng cung 
cấp dịch vụ, phân bổ tài nguyên mạng, chống 
tắc nghẽn cục bộ sẽ giúp cho mạng viễn thông 
ngày càng đáp ứng được chất lượng dịch vụ 
cho người dùng.
6. Tích hợp dịch vụ trên hệ thống IMS mới, đủ 
khả năng đáp ứng nhu cầu của người dùng, 
theo hướng đa dịch vụ trên một nền hạ tầng 
viễn thông. Một ví dụ về ứng dụng hệ thống 
tích hợp IMS như hình 6 – nguồn [11], giúp 
thiết lập đường truyền viễn thông trong mạng 
hiệu quả, đảm bảo chất lượng đường truyền, 
chất lượng dịch vụ.
Hình 6. Tích hợp hệ thống IMS 
trên cơ sở đa dịch vụ - Nguồn [11]
7. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ ảo hóa mạng 
nhằm tăng cường tính độc lập giữa các thành 
viên tham gia mạng, đồng thời tiết kiệm tài 
nguyên vật lý trong điều kiện hạn hẹp của 
mạng viễn thông đồng thời với số lượng 
người tham gia tăng vượt trội. Với tính năng 
mới này, việc chia sẻ nguồn lực mạng sẽ 
mang tính cộng đồng hơn và mang lại nhiều 
hiệu năng hơn. 
8. Xây dựng và ứng dụng nhiều giải pháp định 
tuyến đảm bảo chất lượng dịch vụ QoS theo 
nguyên tắc đa định tuyến đảm bảo QoS. Đa 
định tuyến bao gồm định tuyến QoS, hạn chế 
các bản tin quảng cáo đồng thời quan trọng 
nhất là cho phép người sử dụng có quyền lựa 
chọn đường định tuyến từ nguồn dữ liệu cụ thể.
Về việc tiệm cận đi lên NwGN về mặt kỹ thuật, 
công nghệ theo định hướng chung vẫn là ứng 
dụng các công nghệ mới đảm bảo yêu tố thân 
thiện môi trường, do đó, việc đặt ra các tiêu chuẩn 
ngay từ đầu về môi trường cần phải đặt ra sớm, 
cụ thể như các tiêu chuẩn về tiêu thụ năng lượng, 
các ưu tiên cho các thiết bị sử dụng năng lượng 
tái tạo, năng lượng mặt trời... Từ đó, định hướng 
của các chính sách vĩ mộ của nhà nước về đầu tư 
cho các thiết bị, giải pháp công nghệ tương ứng, 
đảm bảo cho việc ứng dụng càng nhiều càng tốt 
các thiết bị, giải pháp công nghệ mang tính đột 
phá về môi trường, giảm thiểu khí thải nhà kính, 
tiêu thụ năng lượng trên đầu byte thấp, sử dụng 
vật liệu nhẹ, ít tỏa nhiệt, vật liệu tái chế ... sẽ là 
định hướng ưu tiên khi đi lên NwGN. Bên cạnh 
yếu tố môi trường, việc ứng dụng các công nghệ 
để đáp ứng các nhu cầu mang tính xã hội cao cần 
được ưu tiên giải quyết, như việc làm, y tế, giáo 
dục, cân bằng sinh thái, chống biến đổi khí hậu, 
cân bằng và hợp lý trong giới tính, tuổi tác, năng 
lực tự nhiên của mỗi người sử dụng mạng...
Tóm lại, về mặt kỹ thuật và công nghệ, NwGN 
bao hàm hầu như tất cả các công nghệ mới nhất 
nhằm hướng đến một mạng tương lai, một mạng 
mang bản chất xã hội, thân thiện môi trường, 
tương ứng với các mục tiêu và tầm nhìn của mạng 
thế hệ mới như khẳng định ở các phần trên.
2. Hướng tiệm cận NwGN về đẩy mạnh nghiên 
cứu phát triển ứng dụng:
Việc đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của xã hội là 
một mục tiêu mang tính trọng yếu của tiến trình 
hiện đại hóa mạng viễn thông, nên việc nghiên 
cứu phát triển các dịch vụ ứng dụng đã và đang 
là trọng tâm hiện nay. Việc xác định xu hướng 
chuyển đổi bản chất dịch vụ mạng từ chỗ người 
sử dụng thay đổi hành vi để sử dụng thông tin thì 
đến nay hệ thống thông tin phải thay đổi để đáp 
ứng chính nhu cầu thực tế của người sử dụng, 
đảm bảo dịch vụ mọi lúc, mọi nơi và mọi thứ 
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG58 Số 1 năm 2016
cần thiết, để có định hướng phát triển hệ thống 
quản trị dịch vụ tập trung, đó chính là một hướng 
tiệm cận đến NwGN hiện nay. Với sự tiện lợi mà 
mạng mang lại, đặc biệt là các ứng dụng mang 
tính xã hội cao, sẽ rất cần một mạng mang tính 
“đa mạng”, đáp ứng được “đa dịch vụ” trên một 
nền mạng thống nhất như mô tả trong hình 7.
Việc tập trung xây dựng hệ thống quản trị dữ liệu, 
hệ thống cung cấp dịch vụ nội dung đã và đang 
trở thành hướng đi phù hợp với nhu cầu và thị 
hiếu của thị trường. Việc xây dựng hệ thống dịch 
vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội đã đem lại cho 
người phát triển ứng dụng cũng như là nhà cung 
cấp dịch vụ nguồn lợi cực kỳ to lớn. Vì thế, việc 
đẩy mạnh các ứng dụng hướng đến nhu cầu xã 
hội là một hướng tiệm cận đến NwGN mang tầm 
chiến lược trung và dài hạn đối với các nhà quản 
lý vĩ mô. 
Hình 7. Hội tụ dịch vụ trên nền mạng tích hợp, đa nhiệm
Tuy nhiên, một yêu cầu lớn đặt ra là nhà nghiên 
cứu phát triển cần chú ý là các ứng dụng phải đơn 
giản, nhỏ gọn, tiết kiệm năng lượng, đồng thời 
phù hợp với thị hiếu của xã hội, hoặc một tầng lớp 
xã hội. Để các ứng dụng nhanh chóng trở nên phổ 
quát. các ứng dụng cũng cần có giá cả phải chăng, 
hoặc miễn phí và phải trực tiếp đến người dùng, 
phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của 
người dùng. Bài học của Google Play Store, Apple 
Store... là minh chứng cho cách tiệm cận này. Các 
ứng dụng nhỏ gọn, dễ được cộng đồng chấp nhận 
sẽ là hướng đi giúp mạng viễn thông thể hiện là 
công cụ hữu hiệu hướng đến nhu cầu của xã hội, 
phục vụ cho hàng tỷ người và hướng đến mục tiêu 
mọi thứ, mọi lúc, mọi nơi của NwGN.
C. Những bước chuyển biến sang NwGN của mạng 
viễn thông Việt nam:
Với sự tập trung đầu tư, đi tắt đón đầu, đến nay 
việc mạng viễn thông Việt nam đã và đang đáp 
ứng tốt cho các nhu cầu của nền kinh tế, đồng 
thời là một trong những nước ứng dụng 3G hiệu 
quả, và có tốc độ truy cập mạng thuộc loại cao, 
với giá cước thông tin trên mạng thuộc loại thấp 
nhất. Kết quả của việc đầu tư trên thực sự đã đem 
lại những hiệu quả không nhỏ cho nền kinh tế, 
nhất là trong thời đại thông tin và truyền thông 
như hiện nay. 
Các nhà mạng VNPT, MobiFone, Viettel  đã 
được cấp phép đầu tư 3G, 4G và sắp tới là 5G, với 
tốc độ dữ liệu di động đạt trên 40Mbps trên các 
đường xuống, thì hướng đến 4G hay cả 5G trong 
thời gian tới, với tốc độ vượt trội, trên 1Gbps, tạo 
điều kiện rõ ràng cho việc cải thiện chất lượng 
mạng, tích hợp các loại dịch vụ trên nền vô tuyến, 
cũng như trên nền quang  Việc các nhà mạng 
hiện nay của Việt nam triển khai G-PON rộng 
khắp, cũng xem như là một cách tiếp cận NwGN 
về góc độ đa dịch vụ đến với người dùng (hình 8).
Hình 8. Đa dịch vụ đến với người dùng - Nguồn Keio University
Về chính sách của chính phủ, việc triển khai rộng 
khắp e-Gov, e-Commerce cũng như các chính 
sách vĩ mô của nền kinh tế, sẽ rất cần băng thông 
rộng, tốc độ cao của mạng viễn thông hỗ trợ. Để 
giải quyết tốt các bức xúc của nền kinh tế-xã hội 
trong thời gian sắp đến, và khi ngày một nhiều 
nhà cung cấp dịch vụ ra đởi, mạng dịch vụ viễn 
thông phổ biến đến đại bộ phận người dân, doanh 
nghiệp thì việc mạng viễn thông phải thay đổi 
Trần Minh Anh, Bùi Trung Hiếu, Nguyễn Chiến Trinh
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
 Số 1 năm 2016 59
liên tục, và đi trước một bước là điều hiển nhiên. 
Các hướng tiệm cận đề xuất trong phần IV.A và 
IV.B đều là các bước triển khai rất hữu ích, giúp 
cho Việt nam nhanh chóng chuyển đổi, bắt kịp đà 
phát triển công nghệ trong tương lai. 
Chính vì thế, việc phát triển đi lên NwGN là việc 
hết sức cần thiết để có thể đi trước đón đầu, và 
thu lợi nhuận từ việc hoạch định chính sách đáp 
ứng nhu cầu của xã hội trong lĩnh vực thông tin 
như hiện nay.
V. KẾT LUẬN
Hiện đại hoá mạng viễn thông của các nhà khai 
thác trên thế giới nói chung, Việt nam nói riêng 
là một tiến trình cần thiết và cấp thiết trong giai 
đoạn bùng nổ thông tin hiện nay. Với các khuyến 
nghị của ITU-T, cũng như các nghiên cứu của các 
nước mạnh về viễn thông trên thế giới, thì hình 
mẫu của một mạng tương lai như NwGN thực sự 
là một giải pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng cho nền 
kinh tế – xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Tiến trình đi lên NwGN này theo hướng tiệm 
cận hóa theo từng mục tiêu cụ thể của NwGN sẽ 
trước mắt đáp ứng một phần nhu cầu thông tin 
hiện tại, giải quyết một loạt vấn đề nảy sinh hiện 
nay như thiếu băng thông, nghẽn cục bộ  đồng 
thời, là cơ sở quan trọng trong việc đáp ứng nhu 
cầu thông tin, truyền thông ngày càng cao từ nay 
đến 2020 và các năm tiếp theo. 
Để đáp ứng nhu cầu của xã hội thông tin rộng 
mở, với sự tham gia ngày càng tăng của người 
sử dụng dịch vụ, cũng như chất lượng dịch vụ 
ngày càng yêu cầu cao hơn thì xu thế đi lên mạng 
thế hệ mới là một tất yếu. Trong những năm sắp 
tới, khi lưu lượng trên di động cũng như băng 
rộng tăng vọt, việc tiệm cận hoá đi lên NwGN 
của mạng viễn thông Việt nam cũng như các nhà 
khai thác mạng viễn thông trên thế giới là một 
thực tế khách quan, và là điều các nhà khai thác 
đang hướng đến để có thể định hướng phát triển 
kinh doanh trong tương lai.
Trong khuôn khổ bài báo chỉ nêu lên những nét 
tổng quan về mạng thế hệ mới, những mục tiêu, 
yêu cầu và thách thức để định hướng phát triển 
mạng hiện tại sang mạng thế hệ mới trong tương 
lai. Phần IV của bài báo đề xuất một số giải pháp 
liên quan đến việc tiệm cận đến các mục tiêu cần 
đạt được như nêu trong phần III ở trên, nhằm 
cung cấp cho những nhà sản xuất, khai thác, cung 
cấp dich vụ mạng một định hướng để có thể xây 
dựng cho mình một mạng viễn thông hiện đại, đa 
năng, đa nhiệm trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. NIST. New Generation Network 
Architecture – AKARI Conceptual Design, 
2008. AKARI Architecture Design Project 
report, October 2008, 
nict.go.jp/.
[2]. NICT - National Institute of Information 
and Communications Technology, 2009. 
New-Generation Network Technology 
Strategy. 
[3]. Tania Regina Tronco. New Network 
Architectures – The Path to the Future 
Internet, Springer, 2010.
[4]. NFS. XIA - eXpressive Internet Architecture, 
NFS Future Internet Architecture Project, 
2013. 
[5]. Euro-NF, Anticipating the Network of the 
Future – From Theory to Design, 2008.
[6]. European Commission. The EIFFEL 
Support Action: Laying the foundation for 
Future Networked Society, 2010.
[7]. European Commission. ICT – Information 
and communication technologies. FP7 – 
ICT work program 2013. 
europa.eu/fp7/ict/home_en.html
[8]. Research Coordination Working Group, 
and the GENI Research Plan; GENI: Global 
Environment for Network Innovations. 
GENI Design Document 06-28, April 2007. 
[9]. Baruch Awerbuch and Brian Haberman, 
“FIND: Algorithmic foundations for 
Internet Architecture: Clean Slate 
NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ PHÁT TRIỂN ĐI LÊN MẠNG THẾ HỆ MỚI - TƯƠNG LAI CỦA MẠNG VIỄN THÔNG
Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG60 Số 1 năm 2016
Approach,” FIND Project 2009. http://
www.nets-find.net/.
[10]. David Clark, Karen Sollins, John 
Wroclawski, Dina Katabi, Joanna Kulik, 
Xiaowei Yang, Robert Braden, Ted 
Faber, Aaron Falk, Venkata Pingali, Mark 
Handley, Noel Chiappa, 2000. New Arch: 
Future Generation Internet Architecture.
[11]. KamailioWorld 2014. Kamailio, IMS 
and WebRTC. 
carstenbock -kamailioworld-2014.
[12]. ITU-T Recommendation Y.2012, 
“Functional Requirements and architecture 
of the NGN”, release 1, 2006.
[13]. IUT-T, 2010. Committed to connecting 
the world. 
focusgroups/fn/Pages/default.aspx, truy 
cập 12/12/2014.
[14]. ITU-T G.709 (01/03), Interfaces for the 
Optical Transport Network (OTN)
[15]. ITU-T G.872 (10/01), Architecture for the 
Optical Transport Network (OTN) 
[16]. (Ericsson WhitePaper), Hà nội 2010. “OTN 
– Tương lai của truyền tải dữ liệu”. Tạp chí 
Công nghệ Thông tin và Truyền thông. Số 
388(578), kỳ 1 tháng 11/2010, trang 24. 
[17]. Nguyễn Trọng Tâm, 2013. Triển khai hiện 
đại hóa mạng với OTN (phần 1,2) http://
tapchibcvt.gov.vn/TinBai/2610/Trien-khai-
hien-dai-hoa-mang-voi-OTN-phan-1(2), 
truy cập ngày 10/8/2013
PROPOSALS OF FURTHER PROGRESS 
TOWARDS NEW GENERATION 
NETWORK – THE FUTURE OF 
TELECOMMUNICATION NETWORK
Abstract: Today, with the considerable development 
of science and technology, all aspects of social life 
from lifestyle to everyday consumer demand are 
all concerned with Internet and communication. 
The telecommunication (telecom) network 
becomes the vital factor which goes with the 
development of society, has penetrated into and 
changed almost the ins and outs of mankind 
from works, entertainments to social influences. 
However, it is now still short of flexibilities, 
transparencies  due to NAT overuse, mass-
changes, uncomfortable protocols  Hence, it is 
very necessary to have more researches for future 
network, on the base of contemporary network 
accompanied with new requisitions and new 
designs which are compatible with today and 
tomorrow demands.
The paper has researched the new vision of future 
telecom network, its effects on human life and 
society and the charged targets to achieve the 
NwGN – the future telecom network. The paper 
still proposes the orientation of progressing 
towards NwGN from present telecom network, 
and from the currently Vietnamese network in 
particular.
Trần Minh Anh tốt nghiệp đại học ngành 
Điện tử Viễn thông năm 1995 tại Đại học 
Bách Khoa Đà Nẵng, nhận bằng Thạc sỹ 
Kỹ thuật Viễn thông năm 2001 tại Đại học 
Bách khoa Hà Nội. Hiện đang là Nghiên 
cứu sinh tại Học viện Công nghệ Bưu 
chính Viễn thông Việt Nam. Hướng nghiên 
cứu chính là: Mạng thế hệ mới, vấn đề 
đảm bảo chất lượng dịch vụ trên mạng 
viễn thông, kỹ thuật định tuyến trên mạng 
viễn thông 
Bùi Trung Hiếu, nhận bằng kỹ sư viễn 
thông tại trường ĐH kỹ thuật Thông tin 
Liên lạc năm 1978, bằng Tiến sĩ viễn thông 
tại ĐH Zilina, Slovakia, năm 1992. Hiện là 
phó giáo sư, giảng dạy và nghiên cứu về 
viễn thông tại Học viện Học viện Công 
nghệ Bưu chính Viễn thông Việt Nam. 
Nghiên cứu tập trung về mạng truyền tải 
quang, báo hiệu và điều khiển trong mạng 
viễn thông.
Nguyễn Chiến Trinh, nhận bằng kỹ sư 
Điện tử Viễn thông năm 1989 tại Odes-
sa, Ukraina. Nhận bằng Thạc sỹ và Tiến sỹ 
Điện tử Viễn thông lần lượt các năm 1999 
và 2005 tại Đại học Điện tử - thông tin To-
kyo, Nhật Bản. Hiện là Trưởng Bộ môn Viễn 
thông, Khoa Viễn thông 1 thuộc Học viện 
Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Việt Nam. 
Hướng nghiên cứu hiện nay là Mạng thế hệ 
mới, phân tích và mô hình hóa lưu lượng 
mạng, phân bố tài nguyên mạng, đảm bảo 
chất lượng mạng và bảo mật mạng

File đính kèm:

  • pdfnhung_de_xuat_ve_phat_trien_di_len_mang_the_he_moi_tuong_lai.pdf