Những chức năng cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Chức năng của nhà nước là những

phương diện hoạt động cơ bản của Nhà

nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt

ra trước nhà nước. Chức năng nhà nước

được xác định xuất phát từ bản chất nhà

nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp

của xã hội quyết định. Chức năng nhà

nước phản ánh tập trung và đầy đủ nhất

bản chất của nhà nước.

Chức năng của nhà nước có nhiều cách

phân loại khác nhau. Căn cứ vào phạm vi

hoạt động của nhà nước, chức năng của

nhà nước được phân chia thành chức năng

đối nội và chức năng đối ngoại.

Chức năng của Nhà nước Cộng hòa Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay thể hiện rõ bản chất nhân dân của

Nhà nước Việt Nam và hướng đến phục vụ

lợi ích của nhân dân. Do vậy, cơ sở kinh tế

- xã hội, bản chất, nhiệm vụ chiến lược và

mục tiêu lâu dài của Nhà nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sẽ quyết định

nội dung, hình thức và phương pháp thực

hiện các chức năng cơ bản của nhà nước.

pdf 8 trang kimcuc 20240
Bạn đang xem tài liệu "Những chức năng cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những chức năng cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Những chức năng cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
NHỮNG CHỨC NĂNG CƠ BẢN 
CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đỗ Chí Hiếu 
Khoa lý luận chính trị 
Email: dochihieugdct@gmail.com
Ngày nhận bài: 08/5/2019
Ngày PB đánh giá: 07/10/2019
Ngày duyệt đăng: 15/10/2019
TÓM TẮT: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, 
Nhà nước cần phải coi trọng và thực hiện tốt hơn nữa chức năng của mình. Việc thực hiện tốt chức năng 
sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa diễn ra thuận lợi hơn, củng cố địa vị lãnh 
đạo của Đảng, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Từ khóa: chức năng, đối nội, đối ngoại, nhà nước
THE BASIC FUNCTION OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM 
IN THE CURRENT PERIOD
ABSTRACT: In terms of development of market economy, international integration and globalization 
today, the State must respect and implement better its functions. The good implementation of the state’s 
functions will contribute to promoting the process of international integration, globalization to take 
place more favorable, also consolidate the Party’s leading position, contributing to the victory of the 
innovation and development of the country.
Keywords: functions, internal, external, state
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng của nhà nước là những 
phương diện hoạt động cơ bản của Nhà 
nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt 
ra trước nhà nước. Chức năng nhà nước 
được xác định xuất phát từ bản chất nhà 
nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp 
của xã hội quyết định. Chức năng nhà 
nước phản ánh tập trung và đầy đủ nhất 
bản chất của nhà nước.
Chức năng của nhà nước có nhiều cách 
phân loại khác nhau. Căn cứ vào phạm vi 
hoạt động của nhà nước, chức năng của 
nhà nước được phân chia thành chức năng 
đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng của Nhà nước Cộng hòa Xã 
hội Chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn 
hiện nay thể hiện rõ bản chất nhân dân của 
Nhà nước Việt Nam và hướng đến phục vụ 
lợi ích của nhân dân. Do vậy, cơ sở kinh tế 
- xã hội, bản chất, nhiệm vụ chiến lược và 
mục tiêu lâu dài của Nhà nước Cộng hòa 
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sẽ quyết định 
nội dung, hình thức và phương pháp thực 
hiện các chức năng cơ bản của nhà nước.
4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Bài viết tập trung nghiên cứu nội dung 
các chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà 
nước Việt Nam để thấy được ý nghĩa việc 
thực hiện chức năng của Nhà nước đối với 
việc phát triển toàn diện về kinh tế, chính 
trị, văn hóa, xã hội Việt Nam trong thời 
kỳ đổi mới.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Chức năng đối nội
2.1.1. Chức năng bảo vệ chế độ xã 
hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, 
trật tự an toàn xã hội
Đây là một trong những chức năng căn 
bản nhất của Nhà nước ta. Muốn tiến hành 
sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước 
ta phải bảo đảm an ninh chính trị, trật tự 
an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà 
nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời đập 
tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực 
thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho 
Nhân dân sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, 
Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực 
lượng an ninh, các cơ quan bảo vệ pháp 
luật, đồng thời phải “phát huy sức mạnh 
tổng hợp của hệ thống chính trị, tính tích 
cực cách mạng của khối đại đoàn kết toàn 
dân, phối hợp lực lượng quốc phòng và an 
ninh trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, 
trật tự” .
2.1.2.Chức năng bảo vệ quyền tự do, 
dân chủ của Nhân dân
Đây là một trong những chức năng của 
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan 
trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng này 
thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước 
kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do 
Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, việc 
thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức 
mạnh của nhà nước trong việc thực hiện 
tất cả các chức năng khác của nhà nước, 
quan hệ đến sự tồn tại, phát triển của bản 
thân nhà nước và chế độ. Đảng ta nhấn 
mạnh “Nhà nước có mối liên hệ thường 
xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng 
và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu 
sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và 
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng 
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, 
vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ 
của nhân dân”.
2.1.3. Tổ chức quản lý nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tổ chức và quản lý nền kinh tế là chức 
năng quan trọng hàng đầu nhằm tạo dựng 
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã 
hội, không ngừng nâng cao đời sống vật 
chất, tinh thần của nhân dân, củng cố quốc 
phòng an ninh.
Nội dung chủ yếu của chức năng này 
là: Củng cố, phát huy quan hệ sản xuất, 
xã hội chủ nghĩa; phát triển, lực lượng sản 
xuất trên cơ sở áp dụng những thành tựu 
mới nhất của khoa học, kỹ thuật và công 
nghệ vào sản xuất. Bên cạnh đó, hoàn thiện 
cơ chế quản lý nền kinh tế bằng những 
phương pháp mới như xây dựng và thực 
hiện các chương trình, kế hoạch, pháp luật 
về phát triển nền kinh tế, sử dụng hệ thống 
các đòn bẩy, kích thích kinh tế; kiểm tra, 
giám sát việc thực hiện các chính sách, 
pháp luật kinh tế; thực hiện việc phân 
phối sản phẩm lao động theo nguyên tắc 
lao động; giải quyết các vấn đề xã hội có 
ảnh hưởng trực tiếp với sự phát triển kinh 
tế và mở rộng kinh tế đối ngoại.
Chức năng tổ chức và quản lý nền kinh 
tế hiện nay đã có sự thay đổi so với trước 
kia cả về nội dung và phương pháp thực 
hiện. Trước đây, chức năng tổ chức và 
quản lý nền kinh tế được thực hiện theo 
5TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
cơ chế kế hoạch hóa tập trung thì hiện nay 
cũng với chức năng này chúng ta đang điều 
hành có hiệu quả nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa bằng chính 
sách, pháp luật và các công cụ khác nhằm 
tạo ra môi trường kinh doanh, thuận lợi, 
bình đẳng, an toàn cho các chủ thể kinh 
doanh, khơi dậy tiềm năng của tất cả các 
thành phần kinh tế trong nước và nguồn 
lực đầu tư nước ngoài đóng góp cho tăng 
trưởng kinh tế chung của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định 
nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế là: “Ổn định 
kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng 
và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, 
hiệu quả, phát triển bền vững; huy động 
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; 
từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện 
đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.1.4. Tổ chức và quản lý nền văn 
hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và 
giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây 
dựng là xã hội do Nhân dân lao động làm 
chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở 
một nền khoa học và công nghệ tiên tiến; 
có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc 
dân tộc; con người được giải phóng khỏi 
sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống 
ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển 
toàn diện cá nhân. Muốn xây dựng xã hội 
đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự 
nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát 
triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc 
sách hàng đầu để phát huy nhân tố con 
người, phát huy vai trò then chốt của khoa 
học và công nghệ. Đó là những động lực 
trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện 
cần thiết cho việc thực hiện các chức năng 
khác của nhà nước vừa nhằm tổ chức quản 
lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm 
thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội. 
Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất nước 
bước vào những giai đoạn phát triển tiếp 
theo trong tương lai, hòa nhập với sự phát 
triển của nền văn minh thế giới.
Nội dung của quản lý nhà nước đối với 
văn hóa là: Bảo tồn và phát triển các di sản 
văn hóa dân tộc, các giá trị văn học nghệ 
thuật, ngôn ngữ, chữ viết, thuần phong mỹ 
tục của dân tộc, tôn tạo các di tích lịch sử, 
văn hóa, danh lam thắng cảnh; khai thác 
các kho tàng văn hóa cổ truyền và phải 
có sự tiếp thu những tinh hoa nền văn 
hóa của nhân loại. Đất nước ta cũng đang 
đứng trước nhiều khó khăn và thách thức 
lớn, trong đó có cả sự tác động về văn hóa 
trước yêu cầu của việc xây dựng, nền văn 
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc 
dân tộc và giải quyết những vấn đề xã hội. 
Những tiêu cực, tệ nạn xã hội, nhiều loại 
hình nghệ thuật không phù hợp với thuần 
phong mỹ tục của dân tộc đã gây phản tác 
dụng trong việc giáo dục nhân cách, đạo 
đức của con người
Quản lý nhà nước về giáo dục có các 
nội dung gồm: xây dựng và chỉ đạo thực 
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, 
chính sách phát triển giáo dục; ban hành 
và tổ chức thực hiện các văn bản quy 
phạm pháp luật về giáo dục; quy định mục 
tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu 
chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn trường học, 
biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách 
giáo khoa và giáo trình; quy chế thi cử và 
cấp văn bằng. Tổ chức bộ máy quản lý 
giáo dục, huy động và sử dụng các nguồn 
lực để phát triển giáo dục; tổ chức, quản 
lý nghiên cứu, khoa học, công nghệ trong 
ngành giáo dục; quan hệ quốc tế về giáo 
dục, tặng các danh hiệu cho người có 
6 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
công với sự nghiệp giáo dục, thanh tra, 
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại 
hội Đảng lần thứ X đã xác định nhiệm vụ 
những năm tới của giáo dục và đào tạo là 
“Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; 
đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương 
pháp dạy và học, thực hiện chuẩn hóa, 
hiện đại hóa, xã hội hóa và chấn hưng nền 
giáo dục Việt Nam”.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách 
mạng khoa học và công nghệ hiện đại và 
quá trình toàn cầu hóa làm cho khoa học, 
công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực 
trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu đối 
với sự phát triển của mỗi quốc gia. Chúng 
ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện 
của một đất nước nghèo nàn, lạc hậu về 
công nghệ. Do vậy Đảng và Nhà nước đã 
đặt ra chủ trương đi tắt, đón đầu những 
công nghệ mới để phục vụ công cuộc 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Xuất phát từ thực tế và yêu cầu đặt ra mà 
quan điểm nhất quán của Đảng ta trong 
quá trình đổi mới là cả giáo dục, khoa 
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, 
là nền tảng và động lực đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại 
điều 49, Luật khoa học và công nghệ ngày 
09/6/2000 quy định nội dung chủ yếu 
của quản lý nhà nước về khoa học, công 
nghệ bao gồm: xây dựng và chỉ đạo thực 
hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, 
kế hoạch, nhiệm vụ khoa học và công 
nghệ; ban hành và tổ chức thực hiện các 
văn bản quy phạm pháp luật về khoa học, 
công nghệ; tổ chức bộ máy quản lý khoa 
học, công nghệ; tổ chức, hướng dẫn đăng 
ký hoạt động của tổ chức khoa học, công 
nghệ, quỹ phát triển khoa học, công nghệ. 
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quy định việc 
đánh giá, nghiệm thu ứng dụng và công 
bố kết quả nghiên cứu, khoa học và phát 
triển công nghệ, các chức vụ, giải thưởng 
khoa học công nghệ; tổ chức quản lý công 
tác thẩm định khoa học, công nghệ; tổ 
chức, chỉ đạo công tác thống kê, thông tin 
khoa học, công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng 
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ 
về khoa học, công nghệ, hợp tác quốc tế 
về khoa học, công nghệ; thanh tra, kiểm 
tra, xử lý vi phạm và giải quyết các tranh 
chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động 
khoa học, công nghệ.
Quản lý nhà nước về khoa học, công 
nghệ phải bảo đảm sự phát triển toàn diện 
các ngành khoa học, công nghệ đó là phát 
triển khoa học xã hội; phát triển khoa học 
tự nhiên và công nghệ. Đổi mới đồng bộ 
cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. 
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại 
hội Đảng lần thứ XI cũng nhận định mặt 
hạn chế, khuyết điểm của khoa học, công 
nghệ đó là “Khoa học, công nghệ chưa 
thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa 
gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ 
phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho khoa 
học, công nghệ còn thấp, sử dụng chưa 
hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung 
còn lạc hậu, đổi mới chậm”.
Bên cạnh việc tổ chức quản lý của nhà 
nước đối với văn hóa, giáo dục khoa học 
và công nghệ thì nhà nước còn phải giải 
quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra. Xuất 
phát từ bản chất nhân dân của nhà nước 
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn coi 
việc giải quyết các vấn đề xã hội, đáp ứng 
những nhu cầu, đòi hỏi của xã hội là một 
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất 
của mình trong lĩnh vực đối nội. Trong 
việc phát triển nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những 
ưu điểm, mặt tích cực thì cũng để lại nhiều 
7TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
mặt trái về xã hội cần phải giải quyết như: 
Dân số và việc làm; bảo vệ môi trường, 
xóa đói, giảm nghèo; chế độ ưu đãi cho 
đối tượng đặc biệt; bảo hiểm xã hội và an 
sinh xã hội; chăm sóc, bảo vệ sức khỏe 
của nhân dân; chống tệ nạn xã hội
Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định 
quan điểm “Kết hợp các mục tiêu kinh 
tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi 
cả nước”, với bản chất nhân dân của nhà 
nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta phải 
có trách nhiệm ghi nhận và bảo đảm các 
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, 
nó thể hiện tính nhân đạo, nhân văn, dân 
chủ của nhà nước ta với phương châm tất 
cả vì con người. Chức năng bảo vệ các 
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân 
được triển khai trên các nội dung: Xây 
dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, chính 
sách, pháp luật về con người, quyền của 
công dân; mở rộng các quyền và lợi ích 
hợp pháp của công dân phù hợp với sự 
phát triển về kinh tế, xã hội; hoàn thiện 
cơ chế, chính sách, pháp luật về quyền, 
lợi ích hợp pháp của công dân và hợp tác 
quốc tế về quyền con người.
2.2. Chức năng đối ngoại
2.2.1. Bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa
Nhà nước ta thực hiện chức năng đối 
ngoại nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng 
hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở 
rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận 
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc 
tế đối với phong trào cách mạng thế giới. 
Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của chính 
sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế 
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo 
vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp 
phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của 
nhân loại thế giới vì hòa bình, độc lập dân 
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Chức năng bảo vệ Tổ quốc là một 
trong những chức năng cơ bản quan trọng 
nhất của nhà nước và là chức năng của mọi 
nhà nước. Đó là những phương diện hoạt 
động của nhà nước nhằm mục đích chống 
lại các thế lực thù địch bên ngoài, những 
âm mưu chống phá từ bên trong, nhằm 
giữ vững độc lập, thống nhất và toàn vẹn 
lãnh thổ của đất nước. Trước đây, nhiều 
nhà nước thường phát động chiến tranh 
xâm lược nước khác. Ngày nay, nhiều nhà 
nước vẫn tìm cách áp đặt ý chí của mình 
đối với nước khác. Trong điều kiện đó, 
các nhà nước phải thực hiện các hoạt động 
nhằm bảo vệ đất nước, chống lại các cuộc 
chiến tranh xâm lược cũng như các ảnh 
hưởng tiêu cực khác từ bên ngoài.
Công cuộc xây dựng đất nước hiện 
nay luôn đi song hành với nhiệm vụ tăng 
cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ 
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa như báo cáo chính trị tại Đại 
hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt 
Nam xác định là: “Bảo vệ vững chắc độc 
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh 
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an 
toàn xã hội và nền văn hóa, bảo vệ Đảng, 
Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ 
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích 
quốc gia, dân tộc”. 
Trên cơ sở đường lối, chính sách quốc 
phòng toàn dân và toàn diện của Đảng, 
Nhà nước phải xây dựng và tổ chức thực 
hiện chiến lược và hệ thống pháp luật về 
quốc phòng, thường xuyên kiểm tra, giám 
sát việc thực hiện pháp luật về quốc phòng 
để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất 
8 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
nước để bảo vệ Tổ quốc; kết hợp chặt 
chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh và 
ngược lại trong quy hoạch và kế hoạch 
phát triển kinh tế xã hội; phối hợp hoạt 
động quốc phòng và an ninh với hoạt động 
đối ngoại; xây dựng lực lượng quân đội 
nhân dân và công an nhân dân cách mạng 
chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; xây dựng 
lực lượng dự bị động viên và dân quân tự 
vệ; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ 
Tổ quốc; phát triển nền công nghiệp quốc 
phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại; nâng cao 
đời sống vật chất của cán bộ, công nhân, 
nhân viên quốc phòng và thực hiện tốt các 
chính sách hậu phương quân đội; giáo dục 
quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực 
hiện tốt nghĩa vụ quân sự.
Trong thời điểm hiện nay, quốc phòng 
và an ninh cũng đặt ra nhiều thách thức đó 
là các thế lực thù địch thay đổi chiến lược và 
phương thức chống phá nhân dân, lợi dụng 
phương thức phi vũ trang là chủ yếu, lợi 
dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn 
giáo, dân tộc để can thiệp vào công việc nội 
bộ nước ta, thực hiện chiến lược “diễn biến 
hòa bình” kết hợp bạo loạn lật đổ. Để đối 
phó với tình hình mới, quan điểm chỉ đạo 
của Đảng ta là: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ 
nghĩa không chỉ là đối phó với hành động vũ 
trang xâm lược của kẻ địch từ bên ngoài mà 
còn phải đặc biệt chăm lo xây dựng và giữ 
vững bên trong, đối phó với những thủ đoạn 
phi vũ trang của địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ 
quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng 
vũ trang mà là sức mạnh tổng hợp của quốc 
gia và chế độ, lấy sức mạnh kinh tế, chính trị 
làm cơ sở.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ 
một số giải pháp chủ yếu để xây dựng nền 
quốc phòng toàn dân là: Tăng cường vai 
trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, 
điều hành của nhà nước trong xây dựng 
nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức 
mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc 
phòng; đẩy mạnh xây dựng thế trận, quốc 
phòng toàn dân vững chắc; đẩy mạnh xây 
dựng lực lượng quốc phòng, tập trung xây 
dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo 
yêu cầu mới, phối hợp các lực lượng, cảnh 
giác sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động 
ngăn ngừa và đối phó hiệu quả mọi tình 
huống.
2.2.2. Thiết lập, củng cố mối quan hệ 
quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập 
kinh tế quốc tế, chúng ta phải làm tốt chức 
năng thiết lập, củng cố, phát triển các mối 
quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước 
trên thế giới, không phân biệt chế độ chính 
trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở cùng tồn 
tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền 
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can 
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình 
đẳng và các bên cùng có lợi.
Thiết lập mối quan hệ quốc tế rộng 
mở có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
nước ta hiện nay. Làm tốt chức năng này, 
chúng ta sẽ tạo ra môi trường hòa bình, tạo 
điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh 
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và 
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ 
quyền quốc gia. Thiết lập quan hệ quốc 
tế phải thực hiện trên tất cả các mặt về 
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa 
học, công nghệ, xã hội Để thực hiện 
chức năng này, nhà nước phải xây dựng 
và tổ chức thực hiện chính sách, hệ thống 
pháp luật về đối ngoại và kiểm tra, giám 
sát, xử lý các vi phạm; mở rộng quan hệ 
nhiều mặt, song phương và đa phương 
9TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
với các quốc gia vùng lãnh thổ và các tổ 
chức quốc tế; chủ động hội nhập kinh tế 
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy 
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác 
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định 
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân 
tộc quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân 
tộc, bảo vệ môi trường, coi trọng và phát 
triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các 
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng 
giềng, tăng cường công tác thông tin đối 
ngoại, đẩy mạnh công tác giáo dục, đào 
tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại; không 
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật về 
đối ngoại.
2.2.3.Tham gia vào cuộc đấu tranh 
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, 
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay với 
mục tiêu xây dựng một thế giới mới tiến 
bộ thì Nhà nước ta phải tích cực tham giải 
quyết những vấn đề toàn cầu nhằm bảo vệ 
hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và 
chạy đua vũ trang; tôn trọng độc lập chủ 
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự do 
lựa chọn con đường phát triển của mỗi dân 
tộc trên thế giới, ủng hộ các phong trào giải 
phóng dân tộc, các dân tộc và các nước 
đang đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Chủ động tích cực góp phần vào cuộc 
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa 
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ 
xã hội. Các hoạt động đối ngoại phong 
phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà 
nước và các hoạt động quốc tế nhân dân 
đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ 
đoàn kết hữu nghị với các đảng phái chính 
trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công 
nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho 
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó 
tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho 
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối 
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, chính 
sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan 
hệ quốc tế theo phương châm “Việt nam 
muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các 
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu 
vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nhiệm 
vụ của hoạt động đối ngoại trong thời gian 
tới là tiếp tục tạo môi trường và điều kiện 
quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển 
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu 
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa 
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ 
xã hội. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập 
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần 
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả 
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ 
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ 
lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, 
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ 
môi trường sinh thái.
3. KẾT LUẬN
Ở Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ 
nghĩa Việt Nam, việc thực hiện chức năng 
nhà nước chính là việc thực hiện quyền 
lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên 
thực tế. Việc nghiên cứu các chức năng 
của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Về 
lý luận, nó giúp ta nhận thức sâu sắc và 
đầy đủ hơn bản chất, vai trò xã hội, nhiệm 
vụ chiến lược và mục tiêu lâu dài của Nhà 
nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội. Về thực tiễn, việc nghiên 
cứu này giúp cung cấp những luận cứ 
khoa học để đưa ra những giải pháp hữu 
hiệu cho việc phân định thẩm quyền của 
các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao 
10 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong 
điều kiện mới, thời kỳ đổi mới hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Đoan, Lê Minh Tâm 
(1998), Lý luận nhà nước và pháp luật, 
NXB công an nhân dân.
2. Lê Minh Toàn, Lê Minh Thắng 
(2003), Pháp luật đại cương, NXB Chính 
trị quốc gia.
3. Nguyễn Cửu Việt (1997), Lý luận 
chung về nhà nước và pháp luật, NXB Đại 
học Quốc gia Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời 
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất 
bản Sự Thật, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfnhung_chuc_nang_co_ban_cua_nha_nuoc_cong_hoa_xa_hoi_chu_nghi.pdf