Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ

Ca dao, tục ngữ là một bộ phận của

văn học dân gian, gồm những bài văn

vần do đông đảo quần chúng nhân

dân sáng tác, được lưu truyền chủ

yếu bằng phương thức truyền miệng,

được phổ biến rộng rãi, có sức sống

lâu bền và mang đậm bản sắc văn

hóa dân tộc.

Thông qua ca dao, tục ngữ, con người

tiếp nhận các giá trị, chuẩn mực đạo

đức để điều chỉnh hành vi của mình

phù hợp với yêu cầu của dư luận xã

hội đặt ra nhằm mục đích hướng con

người đến chân, thiện, mỹ. Ca dao,

tục ngữ Việt Nam được xem là “hòn

ngọc quý” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11:

559) bởi nó đóng vai trò nâng cao đời

sống tinh thần, giáo dục con người

hướng đến những giá trị sống tốt đẹp,

góp phần giúp cho các cá nhân trong

xã hội định hình khuôn mẫu, lối sống,

nhân cách của con người Việt Nam từ

trước tới nay.

Chính vì vậy, nghiên cứu những

chuẩn mực đạo đức cơ bản của

người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ

vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ,

lưu truyền những giá trị trong cuộc

sống của các thế hệ đi trước, vừa góp

phần vào việc xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và

phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân

tộc.

pdf 8 trang kimcuc 3180
Bạn đang xem tài liệu "Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ

Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
14 
NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN 
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG CA DAO, TỤC NGỮ 
 NGUYỄN QUẾ DIỆU* 
Ca dao, tục ngữ là sản phẩm của đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam, 
phản ánh phong phú, đa dạng đời sống sinh hoạt của nhân dân, nhất là mối 
quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống. Trong đó, các chuẩn 
mực đạo đức như: lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất hay 
tinh thần nhân nghĩa và các đức tính trung thực, cần cù, tiết kiệm của người Việt 
Nam cũng được thể hiện trong ca dao, tục ngữ với biểu đạt hết sức ngắn gọn, 
dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung phân 
tích làm rõ một số chuẩn mực đạo đức cơ bản được thể hiện qua ca dao, tục 
ngữ. 
Từ khóa: chuẩn mực đạo đức, ca dao, tục ngữ Việt Nam 
Nhận bài ngày: 22/7/2019; đưa vào biên tập: 29/7/2019; phản biện: 2/8/2019; duyệt 
đăng: 8/10/2019 
1. GIỚI THIỆU 
Ca dao, tục ngữ là một bộ phận của 
văn học dân gian, gồm những bài văn 
vần do đông đảo quần chúng nhân 
dân sáng tác, được lưu truyền chủ 
yếu bằng phương thức truyền miệng, 
được phổ biến rộng rãi, có sức sống 
lâu bền và mang đậm bản sắc văn 
hóa dân tộc. 
Thông qua ca dao, tục ngữ, con người 
tiếp nhận các giá trị, chuẩn mực đạo 
đức để điều chỉnh hành vi của mình 
phù hợp với yêu cầu của dư luận xã 
hội đặt ra nhằm mục đích hướng con 
người đến chân, thiện, mỹ. Ca dao, 
tục ngữ Việt Nam được xem là “hòn 
ngọc quý” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11: 
559) bởi nó đóng vai trò nâng cao đời 
sống tinh thần, giáo dục con người 
hướng đến những giá trị sống tốt đẹp, 
góp phần giúp cho các cá nhân trong 
xã hội định hình khuôn mẫu, lối sống, 
nhân cách của con người Việt Nam từ 
trước tới nay. 
Chính vì vậy, nghiên cứu những 
chuẩn mực đạo đức cơ bản của 
người Việt Nam trong ca dao, tục ngữ 
vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ, 
lưu truyền những giá trị trong cuộc 
sống của các thế hệ đi trước, vừa góp 
phần vào việc xây dựng nền văn hóa 
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và 
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân 
tộc. 
2. ĐẠO ĐỨC VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO 
ĐỨC XÃ HỘI VIỆT NAM 
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, đạo đức là “một hình thái ý 
*
 Trường Đại học Trần Đại Nghĩa. 
NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 
15 
thức xã hội, là tập hợp những nguyên 
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm 
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử 
của con người trong quan hệ với nhau 
và quan hệ với xã hội, chúng được 
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi 
truyền thống và sức mạnh của dư 
luận xã hội” (Học viện Chính trị Quốc 
gia Hồ Chí Minh, 2014: 8). 
Đạo đức là một lĩnh vực chỉ xuất hiện 
trong đời sống của xã hội loài người, 
là một phương thức cơ bản để điều 
chỉnh thái độ, hành vi của các cá nhân, 
cộng đồng nhằm giải quyết mối quan 
hệ giữa con người với con người 
cũng như giữa cá nhân với cộng đồng, 
xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. 
Để con người thực sự hành động phù 
hợp với các yêu cầu đã được đặt ra 
trong các phạm trù đạo đức, thì cần 
phải có một hệ thống các nguyên tắc, 
phương pháp, cách thức có ảnh 
hưởng, chi phối hành vi đạo đức của 
con người, để họ hành động cho đúng, 
cho “chuẩn”, được xã hội chấp nhận 
gọi là chuẩn mực đạo đức. Tác dụng 
của các chuẩn mực đạo đức là nhằm 
điều chỉnh hành vi đạo đức của các cá 
nhân, nhóm, cộng đồng, xã hội mà 
mục tiêu cao hơn, đó là nhằm mang 
lại lợi ích cho chính họ. 
Đồng thời, khi nói đến đạo đức là nói 
đến hệ thống giá trị, trong đó, các tiêu 
chuẩn, giá trị của đạo đức được con 
người giải quyết một cách phù hợp và 
đúng đắn mối tương quan về mặt lợi 
ích: lợi ích của con người, lợi ích của 
cộng đồng, xã hội. Trong đời sống, 
con người hành động phù hợp với 
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức sẽ 
được cộng đồng, xã hội đồng tình, 
ủng hộ; còn những hành vi, hành 
động trái với các nguyên tắc, chuẩn 
mực đạo đức sẽ bị cộng đồng, xã hội 
phê phán, lên án và xa lánh. Hệ thống 
các chuẩn mực, nguyên tắc, quy tắc, 
giá trị đạo đức phù hợp với đời sống 
của cộng đồng, xã hội sẽ thúc đẩy xã 
hội phát triển một cách tích cực, 
ngược lại, sẽ tạo nên những ảnh 
hưởng tiêu cực đến quá trình phát 
triển của xã hội. 
Phẩm chất đạo đức cần có ở các cá 
nhân, cộng đồng xã hội trong một xã 
hội nhất định như trung thành và sẵn 
sàng hy sinh vì Tổ quốc; tình yêu 
thương, nghĩa vụ, trách nhiệm của 
con người đối với con người; hoặc 
những phẩm chất như trung thực, cần 
cù, tiết kiệm, giản dị trong cuộc 
sống Những quan điểm và những 
phẩm chất đạo đức nói trên đã xuất 
hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống 
xã hội, được các hình thái ý thức xã 
hội phản ánh, trong đó có văn học 
nghệ thuật nói chung và ca dao, tục 
ngữ Việt Nam nói riêng. 
3. NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 
CƠ BẢN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ 
Với tính xã hội vốn có, ca dao, tục 
ngữ phản ánh chân thực đời sống, 
sinh hoạt của nhân dân ta trong lịch 
sử phát triển của dân tộc dưới dạng 
những câu nói, lời thơ ngắn gọn. 
Trong đó, nổi bật nhất là các chuẩn 
mực về lòng yêu nước, tinh thần đấu 
tranh kiên cường, bất khuất, tinh thần 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
16 
nhân nghĩa, đoàn kết, hay các đức 
tính trung thực, cần cù, tiết kiệm của 
nhân dân ta. Những chuẩn mực đạo 
đức ấy được thể hiện một cách tha 
thiết, sâu lắng bằng những lời nói, 
những câu thơ dân gian tuy ngắn gọn 
nhưng hết sức sâu sắc nhằm phản 
ánh và điều tiết các quan hệ xã hội, 
thái độ, hành vi, ứng xử giữa con 
người với con người trong xã hội Việt 
Nam ở những giai đoạn lịch sử nhất 
định. 
3.1. Lòng yêu nước của người Việt 
Nam trong ca dao, tục ngữ 
Yêu nước là “một trong những tình 
cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố 
qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm 
tồn tại của các quốc gia biệt lập” (V.I. 
Lênin, 1977: 326). Lịch sử hàng nghìn 
năm dựng nước và giữ nước, vừa 
chống chọi với thiên tai, vừa đấu tranh 
chống quân xâm lược đã hun đúc nên 
lòng yêu nước cho các thế hệ người 
Việt Nam. Đối với đất nước ta, yêu 
nước chính là “sợi chỉ đỏ xuyên qua 
toàn bộ lịch sử” (Trần Văn iàu, 1 0 
100), là một trong những giá trị truyền 
thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. 
Lòng yêu nước của người Việt Nam 
trong ca dao, tục ngữ được thể hiện 
qua hệ thống tri thức của nhân dân ta 
đối với quê hương, đất nước, đó là 
những tình cảm và ý chí, thúc đẩy mọi 
người dân hành động vì nền độc lập, 
tự do của Tổ quốc. 
Lòng yêu nước được thể hiện trong 
ca dao, tục ngữ Việt Nam bằng những 
ngôn từ rất gần gũi với cuộc sống, 
sinh hoạt của nhân dân nhưng cũng 
rất sâu lắng. Trong đó, nhiều câu ca 
dao, tục ngữ nói lên lòng tự hào đối 
với cảnh đẹp thiên nhiên, con người 
tài hoa hay ca ngợi các sản vật của 
các vùng miền của đất nước Chẳng 
hạn, ca dao Việt Nam đã khắc họa vẻ 
đẹp phong cảnh thơ mộng của vùng 
đất xứ Nghệ “Đường vô xứ Nghệ 
quanh quanh/ Non xanh, nước biếc 
như tranh họa đồ” (Trung tâm Khoa 
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 
2002, tập 15: 158); hay ca ngợi những 
đức tính tốt đẹp của con người, như 
“ ái Xuân Lai, trai Bảo Tháp” (Trung 
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn 
Quốc gia, 2002, tập 1: 180) (làng 
Xuân Lai và Bảo Tháp thuộc xã Đông 
Cứ, Gia Bình, Bắc Ninh ngày nay). 
Ngày xưa gái Xuân Lai vốn giỏi đan 
tre, trúc, còn trai làng Bảo Tháp lại giỏi 
trồng trọt và làm lọng. Hoặc “Bến Tre 
gái đẹp thiệt thà/ Nói năng nhỏ nhẹ, 
mặn mà có duyên” (Trung tâm Khoa 
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 
2002, tập 15: 13 ), cũng đã đề cập 
đến các đặc trưng nhất định của 
những người con gái, con trai vừa đẹp 
người đẹp nết, lao động giỏi đến từ 
các vùng, miền khác nhau của quê 
hương, đất nước. 
Bên cạnh đó, tình cảm của nhân dân 
Việt Nam đối với quê hương, đất 
nước còn được biểu hiện thông qua 
việc ca ngợi những nghề nghiệp, sản 
phẩm đặc trưng của các vùng, miền 
như “Bình Lãng rút kén ươm tơ, chợ 
trâu Quỹ Nhất, bánh đa làng Vò”, “Họ 
Dương lập làng, họ Hoàng đào giếng”, 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 
17 
văn Quốc gia, 2002, tập 1: 10 , 1 0) 
Khi đề cập đến khả năng “rút kén, 
ươm tơ” người xưa nghĩ ngay đến 
Bình Lãng bởi đây là làng nghề nổi 
tiếng, trở thành thương hiệu của 
người dân nơi đây, còn “Quỹ Nhất” là 
nơi diễn ra mua bán trâu - con trâu 
vốn là “đầu cơ nghiệp” của người Việt 
xưa và nói đến nghề tráng bánh đa thì 
phải kể ngay đến Làng Vò. 
Đặc biệt, lòng yêu nước còn được thể 
hiện trong ca dao, tục ngữ bằng việc 
đề cao ý chí tự lực, tự cường trong 
xây dựng và bảo vệ đất nước của 
người Việt Nam cũng như phê phán 
các hành vi gây tổn hạn đến đời sống, 
văn hóa của dân tộc và lên án các 
hành vi bán nước, cướp nước của bè 
lũ tay sai, của các thế lực ngoại xâm. 
Để giành lại và giữ gìn được nền độc 
lập, các thế hệ cha ông ta đã trải qua 
nhiều cuộc kháng chiến chống giặc 
ngoại xâm, khẳng định nền độc lập, 
chủ quyền của dân tộc. Nếu như Lý 
Thường Kiệt khẳng định nền độc lập, 
chủ quyền của dân tộc: “Nam quốc 
sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước 
Nam, vua Nam ở), song song đó, ca 
dao, tục ngữ “Cổ Loa là đất Đế kinh/ 
Trông ra lại thấy tòa thành Tiên xây”, 
“Ruộng ta ta cấy ta cày/ Không 
nhường một tấc cho bầy Nhật Tây/ 
Chúng mày lảng vảng tới đây/ Rủ 
nhau gậy cuốc, đuổi ngay khỏi làng” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 15: 142, 251). 
Ca dao, tục ngữ Việt Nam ca ngợi tinh 
thần đấu tranh kiên cường, bất khuất 
chống giặc ngoại xâm; hoặc nói lên 
lòng biết ơn những anh hùng có công 
đánh giặc, giữ nước hay ý chí căm thù 
của nhân dân ta đối với kẻ thù “Bạch 
Đằng giang là sông cửa ải, tổng Hà 
Nam là bãi chiến trường”, “Đánh giặc 
họ Hàn, làm quan học Đặng”, “Hai 
mươi mốt Lê Lai, hai mươi hai Lê Lợi” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 1: 98, 161, 
1 ) đã góp phần giúp nhân dân ta 
ghi nhớ những chiến công lừng lẫy 
trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền 
năm 3 , Lê Hoàn năm 1 và Trần 
Hưng Đạo năm 12 , truyền thống 
đánh giặc của họ Hàn hay nhớ đến 
ngày giỗ của hai vị anh hùng dân tộc 
Lê Lợi, Lê Lai. Hoặc “Ru con con ngủ 
cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa bành 
ông voi/ Muốn coi, lên núi mà coi/ Có 
bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng”, 
“Con ơi con ngủ cho say/ Cha con đi 
giết sạch loài Lang-sa(1) / Lớn lên con 
nối chí cha/ Ra đi giết giặc, nước nhà 
bình yên” (Trung tâm Khoa học Xã hội 
và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 
251, 262) cho thấy sự căm thù cũng 
như lòng quyết tâm, sẵn sàng hy sinh 
tất cả để đánh đuổi quân xâm lược, 
giành lại độc lập, tự do cho đất nước. 
Qua ca dao, tục ngữ lên án những 
hành động tham ô, bán nước của 
quan lại triều đình cũng như sự xâm 
lược của kẻ thù. “Chạy như chạy 
chánh tổng”, “Chạy như chạy lý 
trưởng” (Trung tâm Khoa học Xã hội 
và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 1: 
776) ám chỉ những vị trí dễ bòn rút, 
tham ô của dân. Hay lên án chúa 
Nguyễn vì chúa Nguyễn đã từng giao 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
18 
hảo với Pháp, tạo tiền đề cho Pháp 
vào xâm lược Việt Nam, gieo rắc nỗi 
bất hạnh cho nhân dân ta “Thằng Tây 
hắn ở bên Tây/ Bởi vua chúa Nguyễn 
rước thầy đem sang/ Cho nhà cho 
nước tan hoang/ Cho thiếp ngậm 
đắng, cho chàng ăn cay” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 15: 272). 
3.2. Nhân nghĩa trong ca dao, tục 
ngữ Việt Nam 
Từ xa xưa, con người Việt Nam vốn 
đoàn kết, tương thân, tương ái, 
nương tựa vào nhau để vừa chống 
chọi với những khắc nghiệt của thiên 
nhiên, vừa đấu tranh chống quân xâm 
lược, do đó, tư tưởng nhân nghĩa của 
con người Việt Nam cũng sớm được 
hình thành. 
“Nhân nghĩa” chính là “lòng yêu 
thương và sự trọng điều phải” (Nguyễn 
Lân, 2006: 1323). 
Con người yêu thương nhau phải 
hành động vì nhau và đó là điều phù 
hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã 
hội. Điều này được phản ánh trong ca 
dao, tục ngữ Việt Nam trên một số 
phương diện cụ thể. 
Một là, lòng yêu thương, trước hết 
giữa những con người chung huyết 
thống trong gia đình đến mối quan hệ 
với những người xung quanh và cao 
hơn nữa đó là mối quan hệ giữa cá 
nhân với cộng đồng xã hội. “Ơn cha, 
nghĩa mẹ cao dày/ Tình chồng nghĩa 
vợ thảo ngay trọn đời” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 15: 306, 430). Trong 
mối quan hệ thầy - trò, bè bạn “Muốn 
sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay 
chữ thì yêu lấy thầy” (Trung tâm Khoa 
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 
2002, tập 15: 619). Với bạn bè, “Bạn 
bè là nghĩa tương tri, sao cho sau 
trước một bề mới nên” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 1: 439). Thông qua ứng 
xử từ những mối quan hệ này với 
hàng xóm, cộng đồng, xã hội con 
người điều chỉnh hành vi của mình 
cho phù hợp, trên tinh thần tương trợ, 
giúp đỡ lẫn nhau như “tối lửa tắt đèn 
có nhau”, đoàn kết, gắn bó với nhau 
để chinh phục thiên nhiên và hợp lực 
tạo nên sức mạnh chống quân xâm 
lược. Rộng hơn nữa, ca dao, tục ngữ 
đề cập đến các quan hệ “đồng bào” 
trong cùng một đất nước, sẵn sàng 
hành động vì tình thương đối với đồng 
bào, đối với quê hương, đất nước. 
Tình thương ấy không chỉ là giúp đỡ 
nhau vượt qua mọi khó khăn, mà còn 
là sự cảm thông, chia sẻ những nỗi 
đau, mất mát của con người trong một 
cộng đồng, xã hội, như “Một con 
ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 2: 69 ); “Nhiễu điều phủ 
lấy giá gương/ Người trong một nước 
phải thương nhau cùng” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 15: 625). 
Hai là, khuyến khích, cổ vũ cho việc 
thiện, điều tốt, bảo vệ lẽ phải, đồng 
thời phê phán, lên án những thói hư 
tật xấu gây hại cho cộng đồng, xã hội. 
Những câu tục ngữ, ca dao “Có đức 
NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 
19 
mặc sức mà ăn” (Trung tâm Khoa học 
Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, 
tập 2: 133); hoặc “Làm trai đứng ở 
trên đời/ Sao cho xứng đáng giống nòi 
nhà ta/ hé vai gánh đỡ sơn hà/ Sao 
cho tỏ mặt mới là trượng phu” (Trung 
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn 
Quốc gia, 2002, tập 15: 1092) qua đó 
nhắn nhủ mọi người biết tôn trọng lẽ 
phải và biết cách xử sự cho đúng mực, 
hợp tình hợp lý trong cuộc sống. 
Ba là, bên cạnh sự cổ vũ cho việc làm, 
hành động vì lẽ phải, thì đồng thời lên 
án những hành vi bất nghĩa, phê phán 
những thói hư tật xấu nhằm chống cái 
ác, hướng con người tới cái thiện. “Ác 
giả ác báo, hại nhân nhân hại”, “Cấy 
ác thì gặt ác” (Trung tâm Khoa học Xã 
hội và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 
629, 631); “Ra tay cầm lửa đốt trời, 
chẳng may lửa rớt lửa rơi xuống đầu” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 2: 640); 
“Nghĩa nhân chi thứ cường quyền/ 
Chúng chỉ vì tiền sinh chuyện hại dân” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 15: 636). 
3.3. Đức tính trung thực, cần cù, 
tiết kiệm của con người Việt Nam 
trong ca dao, tục ngữ 
Lịch sử dựng nước và giữ nước của 
dân tộc Việt Nam gắn liền quá trình 
hình thành và phát triển nền kinh tế - 
xã hội nông nghiệp truyền thống. Từ 
xa xưa, các thế hệ cha ông ta đã khai 
hoang lập ấp, phát triển chăn nuôi và 
trồng trọt, hình thành các cộng đồng 
dân cư. Hàng ngàn năm qua dân tộc 
Việt Nam vừa đấu tranh chống ngoại 
xâm vừa chống chọi với thiên tai và 
cải tạo thiên nhiên đã góp phần to lớn 
trong việc hình thành, mở mang nền 
văn hóa dân tộc. Nền kinh tế nông 
nghiệp và đời sống xã hội ở nông thôn 
đã tạo nên sự cố kết và tính cộng 
đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của 
các làng, xã. Sự cố kết này dựa trên 
quan hệ láng giềng, huyết tộc hoặc 
dòng họ, hình thành nên quan hệ nhà - 
làng - nước hết sức bền vững của dân 
tộc Việt Nam. Chính vì vậy, để củng 
cố mối liên kết nhà - làng - nước ấy, 
những đòi hỏi về mặt đạo đức cũng 
được đặt ra cho con người sống trong 
cộng đồng xã hội, đó là con người cần 
phải có các đức tính như trung thực, 
cần cù, tiết kiệm. 
Đức tính trung thực, cần cù, tiết kiệm 
của con người Việt Nam phản ánh 
qua ca dao, tục ngữ khá sâu sắc “Ăn 
ngay nói thật, mọi tật mọi lành”, 
“Những người tính nết thật thà, đi đâu 
cũng được người ta tin dùng” (Trung 
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn 
Quốc gia, 2002, tập 2: 618, 624); 
“Người gian thì sợ người ngay/ Người 
ngay chẳng sợ đường cày khúc khiu” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 15 10 5) đã 
đề cao đức tính trung thực của người 
Việt Nam. Con người muốn sống với 
nhau có nghĩa, có tình thì trước hết 
không chỉ phải trung thực, thẳng thắn 
với nhau, mà còn phải tìm mọi cách 
để ngăn chặn các biểu hiện của sự 
giả dối, như “Bịa láo ông Táo bẻ 
răng”, “Một lời nói dối, sám hối bảy 
ngày” (Trung tâm Khoa học Xã hội và 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
20 
Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 619, 
623) nhằm điều chỉnh hành vi của các 
cá nhân trong cộng đồng, xã hội. 
Hay: “Buông tay cày lại quay tay cuốc” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 1: 325); “có 
làm, có ăn”, “Có khó nhọc mới có lọc 
có rang” (Trung tâm Khoa học Xã hội 
và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 2: 
134); hay các câu ca dao “Cày đồng 
đang buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót 
như mưa ruộng cày”, “Ai ơi chớ bỏ 
ruộng hoang/ Bao nhiêu tấc đất, tấc 
vàng bấy nhiêu”, “Muốn no thì phải 
chăm làm/ Một hạt lúa vàng chín giọt 
mồ hôi” (Trung tâm Khoa học Xã hội 
và Nhân văn Quốc gia, 2002, tập 15: 
659, 676, 1106) nói lên đức tính cần 
cù, chịu thương, chịu khó. Bên cạnh 
đó phê phán thói lười biếng: “Ăn thì ăn 
miếng ngon, làm thì chọn việc cỏn con 
mà làm”, “ iàu đâu đến thằng lười” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 2: 130, 
136); “ iàu đâu đến kẻ ngủ trưa/ 
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 15: 1116). 
Tiết kiệm để để dành khi ốm đau, cơ 
nhỡ, khi thiên tai, địch họa là đức tính 
cần thiết của người Việt Nam “Ăn 
bữa mai để củ khoai bữa mốt”, “Tiết 
kiệm sẵn có đồng tiền/ Phòng khi túng 
nhỡ không phiền lụy ai” (Trung tâm 
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc 
gia, 2002, tập 2: 687, 6 2). Đối lập với 
tiết kiệm là tính hoang phí. Phê phán 
thói hoang phí ở con người được 
nhấn mạnh để nhắc nhở nhau tránh 
thói hư tật xấu này: “Có đồng nào xào 
đồng ấy”, “Ít chắt chiu hơn nhiều phung 
phí”, “Làm một tấc, ăn một thước” 
(Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân 
văn Quốc gia, 2002, tập 2: 689, 691). 
4. KẾT LUẬN 
Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục 
ngữ Việt Nam là một hình thái ý thức 
xã hội, được hình thành, phát triển 
trên cơ sở, nền tảng của đời sống 
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lịch 
sử. Ca dao, tục ngữ Việt Nam được 
xem như là một “bộ bách khoa toàn 
thư về kiến thức (), tôn giáo, triết 
học của nhân dân” (Đinh ia Khánh - 
Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn, 
2002: 15) và nó góp phần nâng cao 
nhận thức, gìn giữ và lưu truyền hệ 
thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư 
duy của con người, trong đó có đạo 
đức. Các câu nói ngắn gọn, khúc chiết, 
vần điệu nhưng gần gũi và sâu sắc về 
mọi phương diện của đời sống không 
chỉ là những bài học sinh động đối với 
tất cả mọi người mà còn góp phần to 
lớn trong giáo dục, điều chỉnh hành vi 
của con người hướng đến chân - 
thiện - mỹ. 
Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa 
hiện nay, những tư tưởng đạo đức 
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vẫn 
chứa đựng nhiều giá trị tích cực cần 
được phát huy trong điều kiện mới.  
CHÚ THÍCH 
(1) 
Lang-sa: Pháp. 
NGUYỄN QUẾ DIỆU – NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC 
21 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2014. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban 
chấp hành Trung ương Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng 
yêu cầu phát triển bền vững đất nước. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà 
Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
3. Đinh ia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn. 2002. Văn học dân 
gian Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
4. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập - tập 6, tập 11. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2000. Giáo trình Đạo đức học. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia. 
6. V.I. Lênin. 1977. Toàn tập - tập 41. Mátxcơva Nxb. Tiến bộ. 
7. Nguyễn Lân. 2006. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM. 
8. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 1999. Đại từ điển tiếng Việt. Hà Nội Nxb. Văn hóa - Thông 
tin. 
9. Trần Văn iàu. 1 0. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hà Nội 
Nxb. Khoa học Xã hội. 
10. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. 2002. Tổng tập văn học dân 
gian người Việt - tập 1, tập 2, tập 15. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_chuan_muc_dao_duc_co_ban_cua_nguoi_viet_nam_trong_ca_d.pdf