Nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam và những tác động đến chất lượng môi trường nước

Nghiên cứu được thực hiện để xác định lượng nước được sử dụng và hiệu quả sử dụng dụng nước của 2

con đường sản xuất nhiên liệu sinh học chủ yếu tại Việt Nam: sản xuất ethanol sinh học từ sắn và khí sinh

học từ các công trình khí sinh học và những tác động ngược trở lại của chúng đến chất lượng môi trường

nước. Kết quả cho thấy đối với quy trình sản xuất ethanolsinh học có hiệu suất sử dụng nước tương ứng

0,149 m3/MJ trong đó 99% lượng nước được sử dụng cho giai đoạn canh tác sắn. Đối với quy trình sản xuất

khí sinh học, hiệu suất sử dụng nước tương ứng 0,005 m3/MJ, cao hơn nhiều lần so với sản xuất ethanol

từ sắn. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực đối với môi trường nước từ các công trình khí sinh học cũng

nghiêm trọng hơn.

pdf 5 trang kimcuc 3260
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam và những tác động đến chất lượng môi trường nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam và những tác động đến chất lượng môi trường nước

Nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam và những tác động đến chất lượng môi trường nước
63
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(90)/2018
Efficiency of biochar for rice in Bac Lieu province
Cao Huong Giang, Mai Van Trinh, 
Nguyen Van Thiet, Dao Van Thong, Dang Anh Minh
Abstract
This paper presents results of using biochar to improve crop yields and reduce greenhouse gas (GHG) emissions by 
improving soil nutrition and carbon fixation in Bac Lieu province. The stove MHH-IAE 003 was operated by using 
rice husk, sawdust, peanut husk, maize corn, wood chips for biochar. The biomass from the gasification process could 
help to reduce the applied amount of mineral fertilizers and to increase crop yield as well as to improve the quality of 
the soil. The control formula used in the study was followed by the local recommendations. The results showed that 
the use of 1.5 tons to 3 tons of biochar per hectare increased rice yield and reduced the chemical fertilizer by 20%.
Keywords: Gasifier, biochar, crop residues, Bac Lieu
Ngày nhận bài: 22/4/2018
Ngày phản biện: 28/4/2018
Người phản biện: PGS. TS. Phạm Quang Hà
Ngày duyệt đăng: 10/5/2018
1 Viện Môi trường Nông nghiệp
NHU CẦU SỬ DỤNG NƯỚC CHO SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU SINH HỌC 
TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
Đinh Quang Hiếu1, Phạm Quang Hà1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện để xác định lượng nước được sử dụng và hiệu quả sử dụng dụng nước của 2 
con đường sản xuất nhiên liệu sinh học chủ yếu tại Việt Nam: sản xuất ethanol sinh học từ sắn và khí sinh 
học từ các công trình khí sinh học và những tác động ngược trở lại của chúng đến chất lượng môi trường 
nước. Kết quả cho thấy đối với quy trình sản xuất ethanolsinh học có hiệu suất sử dụng nước tương ứng 
0,149 m3/MJ trong đó 99% lượng nước được sử dụng cho giai đoạn canh tác sắn. Đối với quy trình sản xuất 
khí sinh học, hiệu suất sử dụng nước tương ứng 0,005 m3/MJ, cao hơn nhiều lần so với sản xuất ethanol 
từ sắn. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực đối với môi trường nước từ các công trình khí sinh học cũng 
nghiêm trọng hơn.
Từ khóa: Nhiên liệu sinh học, ethanol, khí sinh học, sử dụng nước, chất lượng nước
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiềm năng phát triển năng lượng sinh học tại 
Việt Nam vô cùng to lớn khi mà nước ta vẫn chủ yếu 
là một nước nông nghiệp, có nhiều loại sinh khối, có 
điều kiện khí hậu để phát triển nhiều loại cây trồng 
làm nguyên liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học. 
Thực tế, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chiến 
lược để phát triển năng lượng sinh học với mục đích 
giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa 
thạch vốn đang dần cạn kiệt, đảm bảo an ninh năng 
lượng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hướng tới 
phát triển đất nước một cách bền vững. Hiện tại, Việt 
Nam đang phát triển 2 hình thức sản xuất nhiên liệu 
sinh học chính, đó là sản xuất ethanol sinh học từ 
sắn và sản xuất khí sinh học (KSH) từ các công trình 
khí sinh học. Nếu như công nghệ KSH đã được du 
nhập vào Việt Nam một thời gian dài - hầm khí sinh 
học hoàn chỉnh đầu tiên được xây vào năm 1964 
tại Hà Nội, Hà Nam Ninh và Hải Hưng (Nguyen, 
2011) và phát triển vô cùng mạnh mẽ trong khoảng 
10 năm trở lại đây thì công nghệ chế biến ethanol 
sinh học lại tương đối mới mẻ (năm 2011 mới có 
chính sách sử dụng xăng E5 thay thế dần cho xăng 
A92). Tương tự các ngành công nghiệp khác, nước 
là nguồn tài nguyên được sử dụng trực tiếp cho quá 
trình sản xuất các loại nhiên liệu sinh học này. Nước 
sạch sau khi được sử dụng bị nhiễm các chất ô nhiễm 
trở thành nước thải, nước thải sau đó được xử lý để 
đạt tiêu chuẩn xả thải và được trả lại môi trường tự 
nhiên. Tuy nhiên, lượng nước được sử dụng có gây 
ra những ảnh hưởng lâu dài đến tài nguyên nước, 
gây ra sự cạnh tranh trực tiếp về sử dụng nước với 
các ngành công nghiệp khác, nông nghiệp và dân 
dụng cũng như chất lượng của nước thải sau khi 
64
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(90)/2018
được xử lý có đạt tiêu chuẩn xả thải không vẫn là 
một câu hỏi trong trường hợp của Việt Nam. Trong 
khuôn khổ bài báo này nhóm nghiên cứu trình bày 
những kết quả đạt được trong nghiên cứu đánh giá 
hiệu quả sử dụng nước và chất lượng nước từ 2 con 
đường sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam. 
Đây là một nội dung quan trọng trong dự án “Tăng 
cường năng lực để nâng cao tính bền vững của năng 
lượng sinh học thông qua sử dụng các chỉ số GBEP” 
do Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp 
Quốc (FAO) tài trợ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sử dụng nước và hóa chất trong quy trình sản 
xuất ethanol từ sắn tại Việt Nam.
- Nước thải từ quá trình sản xuất ethanol từ sắn.
- Sử dụng nước trong vận hành các công trình 
khí sinh học tại Việt Nam.
- Nước thải từ các công trình khí sinh học.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được thu thập từ các nguồn dữ liệu chính 
thống của quốc gia như Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn, Bộ Tài nguyên Môi trường, Tổng 
cục Thống kê, từ các công trình nghiên cứu của đơn 
vị chủ trì Viện Môi trường Nông nghiệp và từ các bài 
báo liên quan được đăng tải trên các tạp chí uy tín có 
trong danh mục ISI và SCOPUS. Những số liệu còn 
thiếu cho việc tính toán sẽ được thu thập trực tiếp 
từ các cuộc điều tra phỏng vấn nhanh nông dân và 
doanh nghiệp sản xuất.
2.2.2. Phương pháp thu thập và phân tích mẫu nước
Mẫu nước được thu thập theo hướng dẫn của 
FAO bao gồm mẫu nước mặt (13 mẫu) và nước 
ngầm (2 mẫu) được thu thập từ các thể nước, dòng 
chảy xung quanh các khu vực có diện tích canh tác 
sắn lớn tại 2 tỉnh Phú Thọ và Tây Ninh. Đối với 
lấy mẫu nước mặt trên dòng chảy như sông, kênh, 
mương, mẫu nước được lấy tại 3 điểm trên dòng 
chảy gần nhất xung quanh khu vực canh tác sắn bao 
gồm 1 mẫu đầu dòng (tại nơi dòng chảy bắt đầu đi 
khu vực canh tác), 1 mẫu giữa dòng và 1 mẫu cuối 
dòng (nơi dòng chảy ra khỏi khu vực canh tác). Đối 
với lấy mẫu nước mặt trên các thể nước cố định như 
ao, hồ, mẫu nước cũng được lấy tại 3 điểm đầu, giữa 
và cuối, mỗi điểm cách bờ ít nhất 4 m. Đối với lấy 
mẫu nước ngầm, nước ngầm được bơm lên từ máy 
bơm tại ruộng sắn của người dân, lấy 3 mẫu lặp cho 
1 điểm.
Mẫu nước được phân tích các chỉ tiêu COD, 
BOD5, N-NH4, Pts và tồn dư các hoạt chất hóa học từ 
thuốc BVTV trong nước theo TCVN (Bảng 1).
Bảng 1. Chỉ tiêu và phương pháp phân tích mẫu nước
2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu điều tra
Xử lý số liệu điều tra bằng phần mềm Excel.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: 12/2016 - 04/2018.
- Địa điểm nghiên cứu: Dữ liệu được thu thập tại 
2 tỉnh Phú Thọ và Tây Ninh được xử lý làm dữ liệu 
đại diện cho cả nước.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sử dụng nước cho sản xuất nhiên liệu sinh học 
tại Việt Nam
3.1.1. Sản xuất ethanol sinh học từ sắn
Theo FAO AQUASTAT (2011), tổng nguồn nước 
tái tạo hàng năm của Việt Nam là 884,1 km3/năm. 
Sản xuất ethanol sinh học gồm 2 giai đoạn: giai đoạn 
canh tác sắn trên đồng ruộng và giai đoạn chế biến 
sắn thành ethanol tại nhà máy. Tại Việt Nam, nước 
được sử dụng cho canh tác sắn chủ yếu là nước mưa 
(Gerbens - Leenes et al., 2009). Do vậy, lượng nước 
được sử dụng cho canh tác được tính toán dựa trên 
tốc độ bốc-thoát hơi nước (ET) trên các cánh đồng 
sắn. Do thiếu dữ liệu về ET trên các cánh đồng sắn 
tại Việt Nam, dữ liệu của Thái Lan được sử dụng 
cho tính toán bởi giữa 2 quốc gia có nhiều sự tương 
đồng về điều kiện khí hậu. Theo nghiên cứu của 
Saueprasearsit và Khummongkol (2006), Attarod và 
cộng tác viên (2009), tốc độ ET từ các cánh đồng sắn 
tại vùng nhiệt đới cao hơn vào ban ngày (từ 8:00 đến 
17:00) với giá trị trung bình 0,33 mm/giờ và không 
đáng kể vào ban đêm. Như vậy, lượng nước được sử 
dụng cho canh tác sắn tương đương 29,7 m3/ngày/
hecta. Trong năm 2015 và 2016, tổng lượng ethanol 
sinh học được tiêu thụ lần lượt là 15.200 m3 và 
29.500 m3 (Do Dong Xuan, 2017). Để sản xuất 1 lít 
ethanol sinh học cần 6 kg củ sắn tươi, năng suất sắn 
trung bình năm 2015 đạt 18,8 tấn/ha. Như vậy, trong 
năm 2015, sản xuất 15.200 m3 ethanol cần 91.200 tấn 
STT Chỉ tiêu phân tích
Đơn 
vị
Phương pháp 
phân tích
1 COD Mg/l SMEWW 5220C:2012
2 BOD5 Mg/l TCVN 6001-1:2008
3 N-NH4 Mg/l TCVN 6179-1:1996
4 Pts Mg/l TCVN 6202:2008
5 2,4-D Mg/l EPA Method 8270d
6 Cypermethrin Mg/l EPA method 8270d
65
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(90)/2018
sắn tươi, tương ứng với thu hoạch 4.851 hecta và sử 
dụng lượng nước đạt 47.544.651 m3. Tương tự, năm 
2016, tổng lượng nước được sử dụng cho giai đoạn 
canh tác sắn để sản xuất ethanol đạt 92.286.216 m3.
Giai đoạn sử dụng nước chủ yếu thứ 2 là chuyển 
hóa sắn thành ethanol sinh học tại các nhà máy sản 
xuất. Tại Việt Nam, dạng sắn nguyên liệu để sản xuất 
ethanol là sắn lát phơi khô. Trung bình để sản xuất 
1 lít ethanol tại nhà máy cần 22,5 lít nước. Như vậy, 
lượng nước được sử dụng cho quá trình chế biến 
sắn thành ethanol tại Việt Nam trong năm 2015 và 
2016 lần lượt là 342.000 m3 và 663.750 m3. Dữ liệu 
tổng hợp tổng lượng nước được sử dụng cho sản 
xuất ethanol từ sắn tại Việt Nam trong năm 2015 và 
2016 và hiệu suất sử dụng nước của con đường này 
được trình bày trong bảng 2. Kết quả cho thấy, do 
sản lượng ethanol tiêu thụ trong 2 năm 2015 và 2016 
thấp nên ngành ethanol nước ta chỉ sử dụng một 
lượng nhỏ nước trong tổng nguồn nước có thể tái 
tạo hàng năm của quốc gia. Tiêu thụ nước chủ yếu 
ở giai đoạn canh tác sắn, chiếm hơn 99% tổng lượng 
nước sử dụng.
3.1.2. Sản xuất khí sinh học từ công trình khí sinh học
- Sản xuất khí sinh học quy mô nông hộ:
Theo dự án LCASP (2017), tổng số lượng các 
hầm KSH quy mô nông hộ tại Việt Nam ước đạt 
450.000, trong đó khoảng 90% (405.000 số công 
trình) đang vận hành. Theo điều tra của Thu và cộng 
tác viên (2012), lượng nước được sử dụng vào mùa 
hè cao hơn mùa đông và trung bình đạt 270 lít/ngày/
công trình hay 98,55 m3/năm/công trình. Như vậy, 
với tổng số 405 nghìn công trình đang vận hành, 
năm 2017 tổng lượng nước được sử dụng ước tính 
39,91 triệu m3/năm. Kích thước trung bình của một 
hầm khí sinh học quy mô nông hộ là 10 m3, và tốc 
độ sản xuất khí ước tính 3 m3/ngày hoặc 1095 m3/
năm (FAO, 2012). Tổng lượng KSH được sản xuất 
từ các công trình quy mô nông hộ ước tính khoảng 
443.475.000 m3 tương đương 9.579.060 GJ. 
- Sản xuất khí sinh học quy mô trang trại:
Theo Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và PTNT 
(2016), Việt Nam có 14.370 hầm khí sinh học quy 
mô trung bình, 90% số hầm (12.933) đang còn vận 
hành. Ước tính, một hầm KSH quy mô trung bình có 
thể tích 500 m3 và có thể tạo ra 52.500 m3 KSH/năm/
công trình. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện có khoảng 
900 công trình quy mô lớn (thể tích hầm 2000 m3) 
có thể tạo ra 210.000 m3 KSK/năm/công trình. Tổng 
lượng KSH có thể tạo ra từ các hầm quy mô trang 
trại đạt 868 triệu m3 tương đương 18.748.422 GJ/
năm. Dựa trên số đầu vật nuôi ước tính các hầm 
KSH quy mô trang trại sử dụng 53.696.594 m3/năm.
- Sản xuất khí sinh học quy mô công nghiệp:
Dữ liệu tính toán được thu thập từ các cuộc 
phỏng vấn với các doanh nghiệp sản xuất tinh bột 
sắn tại Phú Thọ và Tây Ninh. Những nhà máy này sử 
dụng một lượng nước trung bình 720.750 m3/năm/
nhà máy. Với khoảng 102 nhà máy chế biến tinh bột 
sắn đang hoạt động trên khắp Việt Nam, tổng lượng 
nước sử dụng trong một năm đạt 73,52 triệu m3 và 
tạo ra lượng năng lượng tương đương 4.859.378 GJ.
- Tổng sản xuất khí sinh học:
Tổng hợp các dữ liệu ở trên, tổng lượng năng 
lượng tiềm năng có thể được sản xuất từ các 
công trình KSH ở các quy mô khác nhau khoảng 
33.186.860 GJ. Tổng lượng nước được sử dụng cho 
vận hành các công trình khoảng 167,12 triệu m3. 
Do vậy, hiệu suất sử dụng nước của con đường KSH 
được tính toán là 0,005 m3/MJ (Bảng 3).
Bảng 3. Sử dụng nước cho sản xuất 
khí sinh học tại Việt Nam
Bảng 2. Sử dụng nước cho sản xuất ethanol sinh học tại Việt Nam
Thông số Giá trị năm 2015 Giá trị năm 2016
Tổng nguồn nước có thể tái tạo hàng năm 884,1 km3/năm 884,1 km3/năm
Hệ số sử dụng nước cho canh tác sắn 9.801 m3/ha/năm 9.801 m3/ha/năm
Tổng lượng nước sử dụng cho sản xuất ethanol từ sắn 0,04784 km3/năm 0,09296 km3/năm
Tỷ lệ sử dụng nước của sản xuất ethanol từ sắn so 
với tổng nguồn nước có thể tái tạo hàng năm 0,0054% 0,0105%
Hiệu suất sử dụng nước 0,149 m3/MJ 0,149 m3/MJ
Thông số Giá trị
Tổng nguồn nước có thể tái tạo 
hàng năm 884,1 km
3/năm
Tổng lượng nước được sử dụng 
cho vận hành các công trình KSH 0,167 km
3/năm
Tổng năng lượng tạo thành từ các 
công trình KSH 33,19 triệu GJ
Tỷ lệ sử dụng nước của sản xuất 
KSH so với tổng nguồn nước có 
thể tái tạo hàng năm
0,019%
Hiệu suất sử dụng nước 0,005 m3/MJ
66
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(90)/2018
3.2. Chất lượng nước
3.2.1. Sản xuất ethanol từ sắn
Mẫu nước được thu thập xung quanh các khu 
vực sản xuất sắn lớn tại 2 tỉnh Phú Thọ và Tây Ninh 
được phân tích để đánh giá mức độ ô nhiễm. Kết quả 
phân tích được tổng hợp và so sánh với các TCVN 
về chất lượng nước mặt và nước ngầm (Bảng 4). Kết 
quả cho thấy các nguồn nước này đang bị ô nhiễm, 
đặc biệt là việc dư thừa N và P, không có tồn dư các 
hoạt chất hóa học trong thuốc BVTV trong nước. 
Đây có thể là kết quả của việc sử dụng không hợp lý 
phân bón và không có biện pháp bảo vệ để tránh sự 
rửa trôi và rò rỉ vào trong nguồn nước. 
Do tại thời điểm điều tra (04/2017), tất cả các nhà 
máy sản xuất ethanol đều đang tạm dừng hoạt động 
vì nhiều lý do nên nhóm nghiên cứu không thể thu 
thập mẫu nước thải sau xử lý.
3.2.2. Sản xuất khí sinh học
Dữ liệu về chất lượng nước thải từ các công trình 
KSH được thu thập từ kết quả của cuộc điều tra quy 
mô lớn do Viện Môi trường Nông nghiệp thực hiện 
tại 10 tỉnh trên khắp cả nước với 300 mẫu nước thải 
từ các công trình quy mô nhỏ (< 25 m3), vừa (25 - 
100 m3) và lớn (> 100 m3).
Bảng 4. Nồng độ các chất ô nhiễm trong nguồn nước xung quanh khu vực trồng sắn
Ghi chú: “ND”: không phát hiện; “-”: không quy định
Bảng 5. Hàm lượng các chất ô nhiễm trong các mẫu nước thải sau biogas
Vị trí lấy mẫu pH COD (mg/l)
BOD5 
(mg/l)
N-NH4 
(mg/l) Ptt (mg/l) Cypermethrin 2,4-D
Tam Nông -Phú Thọ 
(nước mặt) 6,36 ± 0,14 138 ± 4 83,9 ± 4,1 4,2 ± 0,8 0,22 ± 0,03 ND
Thanh Sơn- Phú Thọ 
(nước mặt) 6,92 ± 0,07 118,2 ± 2,4 72,4 ± 2,7 2,97 ± 1,2 4,6 ± 0,13 ND
Tân Châu - Tây Ninh 
(nước mặt) 6,84 ± 0,21 224,7 ± 12,1 117,4 ± 3,6 9,8 ± 1,3 52,9 ± 0,84 ND
Châu Thành - Tây 
Ninh (nước mặt) 6,56 ± 0,21 363,3 ± 21,6 213 ± 6,4 11,1 ± 2,3 1,58 ± 0,22 ND
Tân Biên - Tây Ninh 
(nước ngầm) 4,75 ± 0,14 114 ± 1 63,9 ± 3,2 3,5± 1,4 0,172 ± 0,03 ND
QCVN 08-MT: 
2015/BTNMT 5,5 - 9 50 25 1 0,5
QCVN 09-MT: 
2015/BTNMT 5,5 - 8,5 - - 0,9 -
Về mặt ô nhiễm môi trường, tuy không thể xử lý 
triệt để sự ô nhiễm từ nước thải chăn nuôi, việc áp 
dụng công nghệ xử lý yếm khí thông qua hình thức 
xây dựng các công trình KSH giúp giảm tác động 
tiêu cực từ nước thải chăn nuôi. Cụ thể, kết quả phân 
tích và so sánh nồng độ các chất ô nhiễm giữa trước 
và sau xử lý từ công trình KSH cho thấy việc giảm 
74,8% COD, 73,5% BOD5, 91,7% chất rắn lơ lửng, 
13,9% N tổng số, 7,6% P tổng số và 47,8% coliform 
tổng số (Bảng 5). 
Thông số Đơn vị
Lượng các chất ô nhiễm trong các
mẫu nước thải được thu thập QCVN 62-MT:2016/
BTNMT
KT1 KT2 Composite
Nts mg/l 265,62 218,55 188,40 150
TSS mg/l 4.639,84 3.690,85 3.223,11 150
COD mg/l 1.083,83 875,14 726,70 300
BOD5 mg/l 565,42 429,99 385,36 1000
Tổng coliform MPN/100 ml 1.948 2.814 4.331 5.000
67
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(90)/2018
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Trong năm 2016, ngành sản xuất ethanol sinh 
học tại Việt Nam ước tính sử dụng khoảng 0,0105% 
tổng lượng nước có thể tại tạo hàng năm, hiệu suất 
sử dụng nước tương ứng 0,149 m3/MJ. Lượng nước 
được sử dụng để vận hành các hệ thống biogas tương 
đương 0,019% tổng lượng nước, hiệu suất sử dụng 
nước 0,005 m3/MJ, cao hơn nhiều so với hiệu suất 
sử dụng nước của ngành sản xuất ethanol sinh học.
- Một lượng lớn các chất ô nhiễm, chủ yếu là N và 
P được phát hiện trong các mẫu nước thu thập gần 
các khu vực trồng sắn. Đối với nước thải từ các nhà 
máy chế biến, do không thu thập được mẫu nước 
sau xử lý nên việc đánh giá thực tế chất lượng nước 
thải sau xử lý chưa thể thực hiện được. Sản xuất KSH 
chứa đựng nhiều rủi ro đến chất lượng môi trường 
nước do nước thải sau xử lý vẫn có hàm lượng các 
chất gây ô nhiễm cao.
4.2. Đề nghị
Theo quyết định Chính phủ về “Đề án phát triển 
nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến 
năm 2025”, ngành năng lượng sinh học sẽ tiếp tục 
được mở rộng. Do đó, các vùng nguyên liệu sắn cần 
được quy hoạch thích hợp để tránh việc khai thác 
nước quá mức và cạnh tranh sử dụng nước với các 
hoạt động khác. Đối với nước thải từ các nhà máy 
sản xuất cần được theo dõi và kiểm định chất lượng 
nước thường xuyên để tránh các sự cố môi trường 
có thể xảy ra. Đối với nước thải từ các công trình 
KSH cần có biện pháp xử lý tiếp tục trước khi xả thải 
ra các nguồn nước công cộng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2016. Thực 
trạng và giải pháp xử lý chất thải ngành chăn nuôi.
Attarod P., Komori D., K. Hayashi, M. Aoki, T. 
Ishida, K. Fukumura, S. Boonyawat, P. Polsan, 
P. Tongdeenok, P. Somboon and S. Punkngum, 
2009. Seasonal change of evapotranspiration and 
crop coefficient in a rain fed paddy field, cassava 
plantation and teak plantation in Thailand, accessed 
on 7 Sep 2016. Available from 
nagoyau.ac.jp/game/6thconf/html/abs_html/pdfs/
T5PA06Aug 04163854.pdf. 
Do Dong Xuan, 2017. The orientation in the production 
and use of bio-fuels in Vietnam, accessed on 16 Nov 
2017. Available from www.globalbioenergy.org/
fileadmin/user_upload/gbep/docs/AG2/Viet_Nam_
project/Final_Mettings/Dong_Do-Xuan.pdf.
FAO, 2011. Viet Nam - Geography, Climate and 
Population, accessed on 12 Sep 2016. Available from 
index.stm.
Gerbens-Leenes W., Hoekstra A.Y. and van der Meer 
T.H., 2009. The water footprint of bioenergy. PNAS, 
106 (25): 10219-10223.
LCASP, 2017. Annual Report 2017, accessed on15 Nov 
2017. Available from 
kien-thuc/2017_04/131326556632985253_lcasp-lic- 
annual-rep.pdf.
Nguyen Vo Chau Ngan, 2011.Small-scale anaerobic 
digesters in Vietnam - development and challenges. 
Journal of Vietnamese Environment, 11(1): 12-18.
Saueprasearsit P. and Khummongkol P., 2006. 
Comparison of method of determining evapotranspiration
rate on a cassava plantation in tropical region, 
accessed on 7 Sep 2016. Available from 
jgsee.kmutt.ac.th/see1/cd/file/E-078.pdf.
Thu C.T.T., Cuong P.H., Hang L.T., Chao N.V., Anh 
L.X., Trach N.X. and Sommer S.G., 2012. Manure 
management practices on biogas and non-biogas 
pig farms in developing countries using livestock 
farms in Viet Nam as an example. Journal of Cleaner 
Production, 27 (2012): 64-71.
Water need for biofuels production and the impact 
on water environment quality in Vietnam
Dinh Quang Hieu, Pham Quang Ha
Abstract
The study was conducted to determine the amount of water used in two main biofuel production pathways in Viet 
Nam: bioethanol from cassava and biogas from biodigesters and their adverse impacts to water quality. The results 
showed that the water use efficiency of bioethanol based cassava was 0.149 m3/MJ, of which 99% water used for 
cassava cultivation phase. For the biogas production, the water use efficiency was 0.005 m3/MJ, much higher than 
the production of ethanol from cassava. Howerver, the negative impacts on water environment from the biogas 
production pathway is also more serious.
Key words: Biofuel, ethanol, biogas, water use efficiency, water quality
Ngày nhận bài: 14/4/2018
Ngày phản biện: 19/4/2018
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Kiều Băng Tâm
Ngày duyệt đăng: 10/5/2018

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_su_dung_nuoc_cho_san_xuat_nhien_lieu_sinh_hoc_tai_vi.pdf