Nhận xét kết quả sớm điều trị u, nang tuyến vú lành tính bằng vi sóng

Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp cắt đốt bằng vi sóng (MWA)

trong điều trị nang và các khối u vú lành tính. Đối tượng và phương pháp: 41 bệnh nhân (BN)

với tổng cộng 64 nang và u vú lành tính được cắt đốt bằng vi sóng, sau đó tiếp tục được theo

dõi từ tháng 8/2018 - 9/2019. Kết quả: Kích thước tổn thương trung bình 2,8 ± 0,6 cm (1,5 - 4,0

cm). Thời gian MWA trung bình 2,4 phút (0,5 - 7,5 phút). Kết quả siêu âm kiểm tra sau điều trị

bằng MWA cho thấy 100% nang lành tính và 85% khối u lành tính đáp ứng hoàn toàn, 15% khối

u lành tính đáp ứng một phần. Tính thẩm mỹ sau thủ thuật được 100% BN đánh giá xuất sắc.

Không xuất hiện phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính trong suốt thời gian theo dõi. Kết luận:

Việc áp dụng MWA điều trị nang và u lành tuyến vú cho hiệu quả cao. Các triệu chứng và kích

thước tổn thương giảm đáng kể sau điều trị. Đồng thời, phương pháp này còn đảm bảo tính

thẩm mỹ và khả năng hồi phục nhanh cho BN.

pdf 7 trang kimcuc 3100
Bạn đang xem tài liệu "Nhận xét kết quả sớm điều trị u, nang tuyến vú lành tính bằng vi sóng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận xét kết quả sớm điều trị u, nang tuyến vú lành tính bằng vi sóng

Nhận xét kết quả sớm điều trị u, nang tuyến vú lành tính bằng vi sóng
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 67 
NHẬN XÉT KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ U, NANG TUYẾN 
VÚ LÀNH TÍNH BẰNG VI SÓNG 
Huỳnh Quang Khánh1, Ngô Quốc Hưng1, Nguyễn Văn Khôi1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp cắt đốt bằng vi sóng (MWA) 
trong điều trị nang và các khối u vú lành tính. Đối tượng và phương pháp: 41 bệnh nhân (BN) 
với tổng cộng 64 nang và u vú lành tính được cắt đốt bằng vi sóng, sau đó tiếp tục được theo 
dõi từ tháng 8/2018 - 9/2019. Kết quả: Kích thước tổn thương trung bình 2,8 ± 0,6 cm (1,5 - 4,0 
cm). Thời gian MWA trung bình 2,4 phút (0,5 - 7,5 phút). Kết quả siêu âm kiểm tra sau điều trị 
bằng MWA cho thấy 100% nang lành tính và 85% khối u lành tính đáp ứng hoàn toàn, 15% khối 
u lành tính đáp ứng một phần. Tính thẩm mỹ sau thủ thuật được 100% BN đánh giá xuất sắc. 
Không xuất hiện phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính trong suốt thời gian theo dõi. Kết luận: 
Việc áp dụng MWA điều trị nang và u lành tuyến vú cho hiệu quả cao. Các triệu chứng và kích 
thước tổn thương giảm đáng kể sau điều trị. Đồng thời, phương pháp này còn đảm bảo tính 
thẩm mỹ và khả năng hồi phục nhanh cho BN. 
* Từ khóa: Tổn thương vú lành tính; U vú; Nang vú; Cắt đốt vi sóng. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thay đổi sợi bọc tuyến vú, bao gồm bướu 
sợi tuyến, u xơ và u nhú, là loại u vú lành 
tính phổ biến nhất. Thay đổi sợi bọc thường 
gặp ở BN nữ, đặc biệt ở độ tuổi từ 20 - 40 
[1]. Nang tuyến vú thường xuất hiện ở 
phụ nữ tuổi tiền mãn kinh, từ 35 - 50 tuổi. 
Bệnh nhân có thay đổi sợi bọc hoặc 
nang tuyến vú sẽ được theo dõi định kỳ, 
không cần can thiệp. Tuy nhiên, một số 
tổn thương lớn có thể gây đau, đỏ và 
căng tức, đặc biệt khi bị bội nhiễm hoặc 
áp-xe. Do vậy, cần can thiệp các tổn 
thương lành tính trong một số trường hợp 
có xuất hiện triệu chứng hoặc liên quan 
đến thẩm mỹ. Thông thường, thay đổi sợi 
bọc sẽ được điều trị bằng phẫu thuật cắt 
bỏ u. Phương pháp này thường gây đau, 
mất máu và để lại sẹo lớn. Đối với nang 
vú, phương pháp hút bằng kim nhỏ được 
áp dụng cho nang có kích thước nhỏ, tuy 
nhiên, khả năng tái phát khá cao; phẫu 
thuật lấy nang được áp dụng với các 
nang lớn, tái phát, tuy nhiên, phương 
pháp này gây đau và để lại sẹo. 
Trong những năm gần đây, MWA 
được sử dụng rộng rãi trong cắt đốt khối 
u ở thận, gan và phổi, tuyến giáp, tuyến 
vú. Mặc dù MWA dưới hướng dẫn của 
hình ảnh rất hữu ích, tuy nhiên nghiên 
cứu về đề tài này trong điều trị tổn 
thương ở vú còn rất hạn chế [2], đặc biệt 
là ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này: Đánh giá tính an toàn và 
hiệu quả của kỹ thuật MWA trong điều trị 
các tổn thương lành tính tuyến vú. 
1. Bệnh viện Chợ Rẫy 
Người phản hồi: Huỳnh Quang Khánh (huynhquangkhanhbvcr@gmail.com) 
 Ngày nhận bài: 20/12/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 9/4/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 68 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân có tổn thương vú lành tính: 
một u hay nhiều u, một bên vú hay cả hai 
vú được thực hiện MWA trong vòng 12 
tháng, từ tháng 8/2018 - 9/2019 tại Khoa 
Tuyến vú, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Bệnh nhân được giải thích cụ thể về 
nội dung, mục đích của nghiên cứu và 
đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- U, nang tuyến vú một hoặc hai bên. 
- Nang tuyến vú có kích thước ≥ 10 mm, 
tái phát hoặc nang lớn có triệu chứng. 
- U lành tuyến vú. 
- Thực hiện chọc hút dịch nang xét 
nghiệm tế bào dưới hướng dẫn siêu âm, 
hoặc sinh thiết lõi u vú dưới hướng dẫn 
siêu âm có kết quả lành tính. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Bệnh nhân đang hành kinh. 
- Bệnh nhân đang cho con bú. 
- Bệnh nhân áp-xe vú. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả 
cắt ngang, theo dõi dọc. 
* Quy trình điều trị: 
- Chuẩn bị BN: Vị trí của nang và u 
được xác định bằng siêu âm để xác định 
hướng tiếp cận dễ nhất và an toàn nhất. 
Tiêm 2 ml lidocaine 2% qua da và tại vùng 
xung quanh tổn thương để gây tê cục bộ. 
- Cắt đốt bằng vi sóng: Bằng phương 
tiện của hãng Medwaves (hình 1) theo 
quy trình của Xu và CS [3]. Tùy vào kích 
thước của nang hoặc khối u để lựa chọn 
loại ăng-ten phù hợp (bảng 1). Để tránh 
bỏng da, nhiệt độ đốt đặt ở mức 70°C, 
thời gian đốt chỉ từ 1 - 3 phút. 
Hình 1: Bộ phát vi sóng và các kim đốt. 
Bảng 1: Loại ăng-ten. 
Diện tích đốt tối 
đa 
Loại Khẩu kính 
Độ 
dài 
(cm) Rộng (cm) 
Sâu 
(cm) 
Nhỏ 16 2 2,5 3,0 
Mini 16 1 1,3 1,4 
Thủ thuật chọc hút bằng kim nhỏ được 
thực hiện trước khi cắt đốt nang vú, tiến 
hành theo trình tự như sau: Đầu tiên, một 
ăng-ten được đặt vào trong lòng nang. 
Tiếp đó, đưa kim nhỏ vào để hút toàn bộ 
dịch, trong khi vẫn giữ nguyên vị trí của 
ăng-ten. Cuối cùng, toàn bộ nang được 
cắt đốt bằng MWA. Dịch trong nang được 
gửi đi làm xét nghiệm mô bệnh học. 
Tiến hành thủ thuật bằng cách đâm 
ăng-ten vào tổn thương để cắt đốt. Có thể 
điều chỉnh vị trí đặt ăng-ten bằng cách di 
chuyển kim nhiều lần, để đảm bảo vùng 
cắt đốt bao phủ toàn bộ tổn thương, 
đồng thời ít gây ảnh hưởng đến các mô 
lân cận. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 69 
Các dấu hiệu sinh tồn, triệu chứng đau, 
nôn ói, mệt mỏi và khó thở được theo dõi 
trong suốt quá trình làm thủ thuật. 
Ngưng thủ thuật khi fentanyl không 
giúp kiểm soát đau cho BN, hoặc có biến 
chứng nặng xảy ra. 
- Theo dõi sau cắt đốt: 
Sau thủ thuật, BN được giữ lại để theo 
dõi trong 24 giờ. Dấu hiệu sinh tồn được 
ghi nhận 1 tiếng/lần trong 2 giờ đầu, sau 
đó 3 tiếng/lần trong 24 giờ tiếp theo. Các 
triệu chứng sau cắt đốt như đau, sốt, mệt 
mỏi, buồn nôn, chóng mặt, khó thở 
được ghi nhận và xử trí. Trường hợp xảy 
ra biến chứng được xác định và xử trí 
sớm nhất dưới sự hỗ trợ của xét nghiệm 
và chẩn đoán hình ảnh. 
Các tổn thương sau cắt đốt được theo 
dõi qua siêu âm sau 1 tuần, 3, 6 và 12 tháng. 
* Các chỉ tiêu nghiên cứu: 
- Tuổi, đặc điểm u vú, vị trí, kích thước, 
phân loại BIRADS trên siêu âm hay nhũ 
ảnh, số lượng tổn thương mỗi bên vú, tổn 
thương có sờ thấy hay không. 
- Phương pháp đốt u: Hoàn toàn hay 
không, thời gian đốt. 
- Đánh giá an toàn: Dựa trên tỷ lệ tử 
vong và biến chứng trong và sau thủ 
thuật (tụ máu, bỏng da, đau, mất dấu tổn 
thương trên siêu âm). 
- Đánh giá hiệu quả điều trị: Dựa trên 
tỷ lệ giảm kích thước được tính theo 
đường kính lớn nhất so sánh với tổn 
thương trước khi cắt đốt. Tổn thương có 
sờ thấy. Ngoài ra tính thẩm mỹ và sự hài 
lòng của BN cũng được đánh giá. 
Bảng 2: Bảng phân loại đánh giá hiệu 
quả điều trị. 
Tổn thương sau cắt đốt Phân loại 
đáp ứng 
Tỷ lệ giảm 
kích thước 
Các dấu hiệu 
khác trên siêu 
âm 
Đáp ứng 
hoàn toàn 
> 80% Không có gì 
Đáp ứng 
một phần 
≥ 20% và ≤ 
80% 
Hoại tử hoặc tạo 
hang trung tâm 
Không đáp 
ứng 
< 20% - Dạng đặc 
- Không hoại tử 
hoặc tạo hang 
trung tâm 
Theo dõi sau thủ thuật, hiệu quả điều 
trị được đánh giá tại thời điểm 3, 6 và 
12 tháng vì kích thước của tổn thương 
còn tiếp tục giảm sau 1 năm [4]. 
- Dừng theo dõi khi BN được đánh giá 
đáp ứng hoàn toàn. Các trường hợp 
được đánh giá đáp ứng một phần hoặc 
không đáp ứng trong lần thăm khám 
trước đó được tiếp tục theo dõi đến khi 
đáp ứng hoàn toàn hoặc kết thúc 12 tháng 
theo dõi. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu 41 BN với 64 nang và khối 
u có kết quả mô bệnh học lành tính được 
cắt đốt bằng vi sóng dưới hướng dẫn của 
siêu âm: 
Độ tuổi trung bình 45,71± 12,36, trẻ 
nhất 24 tuổi, lớn nhất 73 tuổi. 
1. Đặc điểm tổn thương 
Kích thước tổn thương trung bình 
2,8 ± 0,6 cm, nhỏ nhất 1,5 cm và lớn nhất 
4,0 cm. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 70 
Bảng 3: Đặc điểm và phân bố của tổn 
thương (n = 41). 
Đặc điểm n (%) 
Cả 2 bên vú 23 (56,1) 
Vú trái 12 (29,3) 
Vị trí 
Vú phải 6 (14,6) 
Nang lành 27 (65,9) 
U lành 14 (34,1) 
BIRADS 2 27 (65,9) 
BIRADS 3 13 (31,7) 
Đặc điểm tổn 
thương 
BIRADS 4 1 (2,4) 
2. Vị trí của tổn thương 
Bảng 4: Vị trí của tổn thương (n = 64). 
Đặc điểm, vị trí tổn thương n (%) 
1 tổn thươnga 18 (28,1) 
2 tổn thươnga 41 (64,1) 
3 tổn thươnga 3 (4,7) 
4 tổn thươnga 2 (3,1) 
Nằm sát bề mặt da 7 (10,9) 
Nằm sát cơ ngực 9 (14,1) 
Nằm sát quầng vú 11 (17,2) 
Nằm trong mô vú 37 (57,8) 
Sờ thấy 59 (92,2) 
Không sờ thấy 5 (7,8) 
(a: Số lượng tổn thương nằm ở 1 bên vú) 
3. Kết quả thủ thuật 
- Thời gian đốt trung bình 2,4 phút, 
ngắn nhất 0,5 phút, dài nhất 7,5 phút. 
- 100% tổn thương vú lành tính được 
đốt bằng vi sóng, cho thấy tổn thương 
được đốt hoàn toàn khi được đánh giá 
bằng hình ảnh siêu âm. 
- Tất cả đều thực hiện tê tại chỗ, không 
trường hợp nào phải sử dụng fentanyl. 
* Tai biến, biến chứng: Dị ứng thuốc tê: 
1 BN (2,4%); đau trong lúc phẫu thuật: 
2 BN (4,8%); không gặp trường hợp nào 
bỏng da và tử vong. 
Sau thủ thuật cắt đốt, 1 BN (2,4%) dị 
ứng thuốc tê, được xử trí như trường hợp 
sốc phản vệ và đã ổn định. 
Ngoài ra, 2 BN (4,8%) cảm thấy đau 
trong quá trình cắt đốt. Nguyên nhân do vị 
trí tổn thương nằm sát thành ngực, đã 
được xử trí tiêm thuốc tê để tách khối u ra 
xa thành ngực. Sau đó, tiếp tục thực hiện 
MWA và loại bỏ được tổn thương. 
Tương tự, với trường hợp có thời gian 
cắt đốt lâu nhất (2,4%), do vị trí đâm kim 
bị nóng lên, cần gây tê cục bộ để giảm 
đau. Kết quả, tổn thương được cắt bỏ 
hoàn toàn, BN không bị bỏng. 
Mặc dù một số trường hợp tổn thương 
nằm sát da hoặc quầng vú, nhưng không 
BN nào bị bỏng da. Không trường hợp 
nào bị mất hình ảnh trên siêu âm do sử 
dụng lượng lớn thuốc gây tê, cũng như bị 
chảy máu hoặc tụ máu sau cắt đốt. 
* Theo dõi: 
Thời gian theo dõi trung bình là 08 tháng, 
ngắn nhất 3 tháng và dài nhất 12 tháng. 
Bảng 5: Đặc điểm tổn thương sau can 
thiệp. 
Đặc điểm tổn 
thương 
Trước can 
thiệp 
n (%) 
Sau can 
thiệp 
n (%) 
Sờ thấy 59 (92,2) 4 (6,2) 
Không sờ thấy 5 (7,8) 60 (93,8) 
Tổng 64 (100,0) 64 (100,0) 
Tỷ lệ tổn thương không sờ thấy tăng 
từ 7,8 lên 93,8%. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 71 
Bảng 6: Đánh giá hiệu quả điều trị. 
Loại tổn thương 
Phân loại đáp ứng U lành 
n (%) 
Nang 
n (%) 
Đáp ứng hoàn toàn 12 (85) 27 (100) 
Đáp ứng một phần 2 (15) 0 (0) 
Không đáp ứng 0 (0) 0 (0) 
Tổng 14 (100) 27 (100) 
Kiểm tra dưới hình ảnh siêu âm: 100% 
nang và 85% u lành tính đáp ứng hoàn 
toàn, 15% tổn thương lành tính đáp ứng 
một phần trong suốt quá trình theo dõi. 
Tất cả BN đều hài lòng về tính thẩm 
mỹ sau thủ thuật. Hoàn toàn không xuất 
hiện phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính 
trong suốt quá trình theo dõi. 
BÀN LUẬN 
Để giảm thiểu đau, mất máu và sẹo, kỹ 
thuật xâm lấn tối thiểu kết hợp với hình 
ảnh dẫn đường là phương pháp hữu hiệu 
trong điều trị cắt bỏ tổn thương ở vú. Tuy 
nhiên, hầu hết các nghiên cứu gần đây 
chỉ tập trung vào việc cắt đốt các tổn 
thương ác tính [5, 9], chỉ có một vài tác 
giả sử dụng MWA trên các u vú lành 
[3, 4, 10]. 
1. Lựa chọn cỡ ăng-ten và năng lượng 
cắt đốt 
Sử dụng ăng-ten nhỏ để đốt các tổn 
thương có kích thước > 2 cm và kim rất 
nhỏ cho tổn thương < 2 cm. 
Có 2 chế độ lựa chọn năng lượng cắt 
đốt: Theo nhiệt độ và theo năng lượng. 
Xu J. và CS, Zhang W. và CS, cũng như 
Yu J. và CS lựa chọn theo năng lượng, 
duy trì năng lượng đốt ở mức 30W, 40W 
và 28.3W [3, 4, 10]. Duy trì mức năng 
lượng sẽ dẫn đến việc nhiệt độ cắt đốt bị 
thay đổi. Chúng tôi lựa chọn chế độ nhiệt 
độ để duy trì nhiệt độ đốt. Khi tiếp xúc với 
nhiệt độ từ 46 - 60°C, các tế bào sẽ bị 
hoại tử, cấu trúc mô bị thay đổi không 
phục hồi được tùy vào thời gian tiếp xúc, 
trong khi nhiệt độ từ 60 - 100°C có thể 
gây chết tế bào ngay lập tức. Do vậy, 
nhiệt độ sử dụng để cắt đốt cần được 
thiết lập trong khoảng 60 - 100°C. Tuy 
nhiên, do hiện tượng truyền nhiệt, nếu để 
nhiệt độ đốt phát ra ở đầu ăng-ten quá 
lớn sẽ rất dễ gây bỏng da (tại vị trí đâm 
kim). Ngược lại, nhiệt độ đốt thấp sẽ kéo 
dài thời gian cắt đốt. Vì vậy, để phá hủy 
hoàn toàn các tế bào của tổn thương, 
đồng thời tránh làm bỏng da BN, chúng 
tôi lựa chọn mức nhiệt độ duy trì tại đầu 
ăng-ten là 70°C . 
Tổng cộng 64 tổn thương lành tính 
trên 41 BN được cắt đốt bằng phương 
pháp MWA dưới hướng dẫn của siêu âm. 
Kích thước trung bình của nang và u là 
2,8 ± 0,6 cm, nhỏ nhất 1,5 cm và lớn nhất 
4,0 cm. Thời gian đốt trung bình 2,4 phút, 
nhanh nhất 0,5 phút và lâu nhất 7,5 phút. 
Toàn bộ tổn thương đã được loại bỏ, 
không trường hợp nào bị bỏng da. 
Yu J. và CS [10] nghiên cứu trên 122 
BN với 198 tổn thương đã được cắt đốt 
bằng vi sóng với năng lượng trung bình 
28,3 ± 6,2W, thời gian đốt trung bình 3,2 
phút. Kết quả: 99,5% tổn thương được 
loại bỏ hoàn toàn, chỉ 1 tổn thương lớn 
(3,6 cm) được cắt bỏ một phần. 
Zhang W. và CS [4] cũng sử dụng 
MWA cắt đốt 205 tổn thương vú lành tính 
trên 182 BN với mức năng lượng 40W. 
Kết quả kiểm tra bằng siêu âm cản quang 
cho thấy 87,32% tổn thương được cắt bỏ 
hoàn toàn. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 72 
2. Biến chứng và mức an toàn 
Có 2 nguyên nhân dẫn đến bỏng da. 
Đầu tiên do sự truyền nhiệt trên ăng-ten. 
Nhiệt độ được tạo ra ở đầu kim đốt được 
truyền lên toàn bộ thân kim, khiến vùng 
da ở vị trí đâm kim dễ bị bỏng. Để tránh 
hiện tượng bỏng gây ra do dẫn nhiệt, 
nhiệt độ đốt cần được để ở mức 70°C. 
Nguyên nhân thứ hai là vị trí của tổn 
thương. Đối với các tổn thương nằm sát 
bề mặt da, nhiệt độ cắt đốt cũng đồng 
thời làm nóng vùng da lẫn các mô lân 
cận, dễ dẫn đến bỏng da. Khi đó, cần 
tiêm thuốc tê để tách rời tổn thương khỏi 
bề mặt da. 
2 BN (4,8%) cảm thấy đau khi đang 
cắt đốt, nguyên nhân do tổn thương nằm 
sát da và thời gian đốt kéo dài, đã xử trí 
tiêm thêm thuốc tê. Tuy nhiên, cần điều 
chỉnh lượng thuốc tê cho phù hợp, quá ít 
có thể khiến BN đau, quá nhiều có thể 
làm mất dấu tổn thương trên hình ảnh 
siêu âm. 
Đặc biệt, 1 BN (2,4%) bị dị ứng với 
thuốc tê, vấn đề này đã được thể hiện 
trong tiền sử bệnh, tuy nhiên kết quả xét 
nghiệm trước khi thực hiện thủ thật không 
ghi nhận phản ứng dị ứng nào. Chúng tôi 
đã theo dõi xử trí khi có hiện tượng sốc 
trước khi tiến hành thủ thuật. Các triệu 
chứng phản vệ bắt đầu xuất hiện khi việc 
cắt đốt gần như đã hoàn thành, nói cách 
khác khi này khối u đã được loại bỏ hoàn 
toàn. Sau khi ngừng thủ thuật và xử trí 
phản vệ, tình trạng của BN ổn định và 
không có diễn tiến nặng. 
Nhìn chung, mức độ đau và cảm giác 
nóng khi thực hiện cắt đốt ở mức tất cả 
BN có thể chịu được. Đồng thời, không 
xuất hiện biến chứng nào. Kết quả này 
khá tương đồng với nghiên cứu của Yu J. 
và CS [10]. Nghiên cứu của Zhang W. và 
CS, các biến chứng như đau, da sưng 
đỏ, giãn ống dẫn sữa và chảy mỡ gặp 69 
ca (38%). Tuy nhiên, các biến chứng trên 
giảm đi hoặc mất hoàn toàn sau khi được 
điều trị triệu chứng [4]. 
Sau thủ thuật BNđược theo dõi định kỳ 
từ 3 - 12 tháng, trung bình là 8 tháng, tùy 
đáp ứng của tổn thương sau thủ thuật. Số 
tổn thương sờ thấy giảm từ 59 (92,2%) 
xuống còn 4 (6,3%) sau điều trị và theo 
dõi. Trong nghiên cứu của Yu J. và CS 
[10], theo dõi sau 14 tháng, tỷ lệ tổn 
thương sờ thấy cũng giảm nhưng còn 
khá cao (từ 90,2% xuống 45,9%). Kết quả 
kiểm tra bằng siêu âm cho thấy, 100% tổn 
thương dạng nang và 85% tổn thương 
dạng u đáp ứng hoàn toàn, 15% tổn 
thương dạng u đáp ứng một phần trong 
thời gian theo dõi, cao hơn so với nghiên 
cứu của Zhang W. và CS [4]. Về tính 
thẩm mỹ, sau thủ thuật, 100% BN đều 
cảm thấy hài lòng. Không xảy ra bất kỳ 
phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính. 
3. Ưu, nhược điểm của kỹ thuật 
MWA trong điều trị tổn thương lành 
tính ở vú 
- Ưu điểm: Là can thiệp tối thiểu, chỉ 
cần thực hiện gây tê khi làm thủ thuật. 
Thêm vào đó, nhờ có hỗ trợ trên kim nhỏ 
(16G) giúp can thiệp vào nhiều tổn 
thương cùng lúc mà không gây thêm tổn 
thương hoặc biến dạng vú. Bên cạnh việc 
thao tác nhanh, kỹ thuật này hoàn toàn 
không để lại sẹo trên da, đảm bảo tính 
thẩm mỹ cho BN. 
- Nhược điểm: Không xác định được 
chính xác tính lành hoặc ác của một tổn 
thương. Mẫu sinh thiết lấy ra từ kim nhỏ 
rất dễ cho kết quả âm tính giả, gây khó 
khăn trong quy trình theo dõi sau thủ 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020 
 73 
thuật. Cần làm thêm xét nghiệm mô học 
để xác định. Sinh thiết vú chân không 
(VABB) là một trong các phương pháp 
giúp lấy được mẫu lớn hơn. Tuy nhiên, 
do VABB sử dụng kim lớn (8G, 10G) nên 
dễ gây tổn thương mô vú, đặc biệt trong 
trường hợp BN có nhiều hoặc có tổn 
thương lớn. Do vậy, chúng tôi ưu tiên sử 
dụng phương pháp sinh thiết lõi theo kim 
dẫn đường. Một kim dẫn đường được 
đưa đến tổn thương để lấy mẫu sinh thiết 
lõi. Sau đó, ăng-ten được đưa vào qua 
kim dẫn đường để thực hiện MWA. 
Phương pháp này không chỉ tránh được 
bỏng da tại vị trí đâm kim mà còn giúp 
giảm thiểu việc đâm kim nhiều lần làm tổn 
thương các mô vú lân cận. Đáp ứng một 
phần cũng là một hạn chế của kỹ thuật 
này vì khiến BN cảm thấy lo lắng và 
không hài lòng do vẫn có thể sờ thấy khối 
u sau thủ thuật. 
KẾT LUẬN 
Ứng dụng kỹ thuật MWA điều trị tổn 
thương vú lành tính có tính khả thi và hiệu 
quả cao: Các triệu chứng và kích thước 
tổn thương giảm đáng kể sau điều trị; 
đồng thời, tính thẩm mỹ và khả năng hồi 
phục nhanh cho BN cũng được đảm bảo. 
Đây là một kỹ thuật mới, mặc dù còn 
một số hạn chế nhưng là lựa chọn tốt cho 
việc điều trị các tổn thương ở vú. Đây là 
kỹ thuật xâm lấn tối thiểu giúp cắt bỏ 
hoàn toàn nang và u vú lành tính mà 
không cần phẫu thuật, không gây đau 
đớn, mất máu, đồng thời không để lại sẹo 
cho BN. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Miltenburg D.M., Speight V.O. Benign 
breast disease. Obstet and Gynecol Clin N 
Am. 2008, 35, pp.285-300. 
2. Schmitz A.C., Gianfelice D., Daniel B.L. 
et al. Image-guided focused ultrasound ablation 
of breast cancer: Current status, challenges, 
and future directions. European Radiology. 
2008, 18, pp.1431-1441. 
3. Xu J., Wu H., Han Z. et al. Microwave 
ablation of benign breast tumors: A 
prospective study with minimum 12 months 
follow-up. Int J Hyperthermia. 2018, 35(1), 
pp.253-261. 
4. Zhang W., Li J.M., He W. et al. 
Ultrasound-guided percutaneous microwave 
ablation for benign breast lesions: Evaluated 
by contrast-enhanced ultrasound combined 
with magnetic resonance imaging. J Thoracic 
Disease. 2017, 9(11), pp.4767-4773. 
5. Vargas H.I., Dooley W.C., Gardner R.A. 
et al. Focused microwave phased array 
thermotherapy for ablation of early-stage 
breast cancer: Results of thermal dose 
escalation. Annals of Surgical Oncology. 
2004, 11(2), pp.139-146. 
6. Zhou W., Jiang Y., Chen L. et al. Image 
and pathological changes after microwave 
ablation of breast cancer: A pilot study. Eur J 
of Radiology. 2014, 83, pp.1771-1777. 
7. Roubidoux M.A., Yang W., Starfford R.J. 
Image-guided ablation in breast cancer 
treament. Techniques in Vascular and 
Interventional Radiology. 2014, 17, pp.49-54. 
8. Flaming M.M., Holbrook A.I., Newell 
M.S. Update on image-guided percutaneous 
ablation of breast cancer. A Roentgen Ray 
Society. 2017, 208(2), pp.267-274. 
9. Huston T.L., Simmons R.M. Ablative 
therapies for the treatment of malignant 
diseases of the breast. The American J 
Surgery. 2005,189, pp.694-701. 
10. Yu J., Chen B.H., Zhang J. et al. 
Ultrasound guided percutaneous microwave 
ablation of benign breast lesions. Oncotarget. 
2017, 8(45), pp.79376-79386. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_xet_ket_qua_som_dieu_tri_u_nang_tuyen_vu_lanh_tinh_bang.pdf