Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật
Trong Văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, các tác giả khi xây dựng chân dung,
miêu tả nhân vật không chỉ vay mượn công thức thánh nhân trong thần thoại Trung Quốc
thể hiện ở những so sánh với động vật và thực vật, vũ trụ mà còn sử dụng, khai thác những
yếu tố khác dưới góc nhìn tướng thuật (Thuật xem tướng chủ yếu thông qua quan sát các
đặc trưng về diện mạo, ngôn hạnh, cử chỉ con người để dự đoán tiền đồ và vận mệnh cát
hung, họa phúc, bần tiện, phú quý trong tương lai) nhằm dự báo trước vận mệnh nhân vật
(chủ yếu qua hình tướng, vật tướng và tâm tướng).
Bạn đang xem tài liệu "Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0005 Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 34-40 This paper is available online at NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN TƯỚNG THUẬT Trần Thị Thanh Nhị Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế Tóm tắt. Trong Văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, các tác giả khi xây dựng chân dung, miêu tả nhân vật không chỉ vay mượn công thức thánh nhân trong thần thoại Trung Quốc thể hiện ở những so sánh với động vật và thực vật, vũ trụ mà còn sử dụng, khai thác những yếu tố khác dưới góc nhìn tướng thuật (Thuật xem tướng chủ yếu thông qua quan sát các đặc trưng về diện mạo, ngôn hạnh, cử chỉ con người để dự đoán tiền đồ và vận mệnh cát hung, họa phúc, bần tiện, phú quý trong tương lai) nhằm dự báo trước vận mệnh nhân vật (chủ yếu qua hình tướng, vật tướng và tâm tướng). Từ khóa: Dự báo, tướng thuật, hình tướng, nhân vật. 1. Mở đầu Các hiện tượng dự báo nói chung và tướng thuật nói riêng không chỉ là một hiện tượng văn hoá mà còn là chất liệu nghệ thuật của văn học, nhất là văn học trung đại. Các nhà văn lúc xây dựng, miêu tả chân dung nhân vật, nhất là những nhân vật thánh nhân, quân tử, đấng bậc bao giờ cũng sử dụng yếu tố tướng thuật để dự báo tương lai sau này của họ. Vì thế, có một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này như Nguyễn Hữu Sơn trong nghiên cứu về sự ra đời của các thiền sư đã chỉ ra: "bao giờ cũng gắn với các hiện tượng lạ, những điềm lạ, giấc mơ lạ. . . các thiền sư từ nhỏ đã bộc lộ những dấu hiệu thiên bẩm khác thường cả về tư chất, tướng mạo, tài năng, sở thích, tiếng cười, giọng nói. . . " [6;29, 31], Trần Đình Sử nghiên cứu chân dung nhân vật từ văn hoá thần bí, tô tem nguyên thuỷ đã nhìn nhận yếu tố tướng thuật xuất phát từ văn hoá: "chân dung con người thường được khắc hoạ khuôn sáo nhưng lại mang kí hiệu của một quan niệm văn hoá thần bí lâu đời. . . Các dấu hiệu về rồng, hổ, lân, báo. . . đánh dấu nguồn tô tem nguyên thuỷ, được tập hợp lại như sự chung đúc linh thiêng của đất trời" [7;74- 75] còn Lê Thu Yến khi phân tích về các yếu tố tâm linh trong văn học trung đại, trong đó chỉ ra nhiều phương thức dự báo: "Các yếu tố tâm linh trong văn học trung đại bao gồm: Trời phật, thần, tiên, cầu cúng, khấn vái, hồn ma, hóa kiếp, phép thuật, tướng số, bói toán, phong thủy, điềm báo, báo ứng, mộng. . . Đây là những yếu tố thuộc thế giới tâm linh hiện diện như một thế tất yếu trong văn học trung đại mà khi nghiên cứu chúng ta không thể bỏ qua, không thể không chú ý" [10;4]. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nhận định, thừa nhận sự có mặt của tướng thuật trong xây dựng chân dung nhân vật. Bài viết của chúng tôi dựa trên lí thuyết chuyên ngành hẹp của huyền học tướng thuật, soi chiếu vào văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam (VXTSTĐVN) để khám phá ra các nhà văn đã sử dụng cả ba Ngày nhận bài: 1/6/2016. Ngày nhận đăng: 20/9/2016 Liên hệ: Trần Thị Thanh Nhị, e-mail: thanhnhidh@gmail.com 34 Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật nhánh của tướng thuật là hình tướng, vật tướng và tâm tướng vào chân dung nhân vật và tư duy trên chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo, tín ngưỡng, triết học thời đại bấy giờ. 2. Nội dung nghiên cứu Thuật xem tướng chủ yếu thông qua quan sát các đặc trưng về diện mạo, ngôn hạnh, cử chỉ con người để dự đoán tiền đồ và vận mệnh cát hung, họa phúc, bần tiện, phú quý trong tương lai. Lập luận cơ bản của thuật xem tướng truyền thống là căn cứ hình mạo con người đối ứng với vũ trụ và phân tích hình mạo con người có liên quan với âm dương ngũ hành để đi đến suy đoán tính cách, phẩm hạnh và vận mệnh của cá nhân. Có thể phân tướng thuật làm ba loại là hình tướng, vật tướng và tâm tướng, cả ba nhánh này đều được các nhà văn trung đại vận dụng khai thác. 2.1. Hình tướng Người xưa cho rằng trời đất muôn vật đều có tướng, tướng là biểu trưng sự lưu động của sinh mệnh của trời đất muôn vật. Tượng trưng sinh mệnh trong tướng thuật chủ yếu gồm hai loại: tượng trưng ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) và tượng trưng chim muông, thú vật. Loại căn cứ vào tính đặc trưng của ngũ hành để gán hình thái số mệnh của người vào đó, có thể gọi đây là phương pháp tượng trưng đặc tính. Khảo sát trong VXTSTĐVN không thấy các tác giả miêu tả nhân vật theo kiểu này. Tuy nhiên lại vận dụng sự hài hoà của các yếu tố ngũ hành trong khi đề cập về tướng ngũ đoản: Trạng vật có tướng ngũ đoản, lúc trẻ tuổi rất giỏi nghề đánh vật (Truyện Trạng vật) [3;465] (Tập 1). Còn cái tượng trưng chim muông thú vật là căn cứ hình trạng của động vật để gắn vào hình thái của người, từ đó để biểu thị hiện tượng số mệnh mang tính hình tượng. Có thể nói đây là phương pháp tượng trưng hình dạng. Người thời viễn cổ đặc biệt chú ý đến động vật cho nên mới có sự gán ghép siêu hình như vậy truyền lại đời sau. Trong VXTSTĐVN ta thấy khi xây dựng kiểu nhân vật quân tử, thánh nhân, tướng tài các tác giả thường đưa vào những so sánh với thú vật, chim muông trong chân dung: Cảnh Kiên có hình tướng “trán rộng, mắt sáng, đầu vích, lưng rùa, thật là một vị hổ tướng dáng mạo phi thường” (Hoan Châu kí); Mai Thúc Loan: “đầu hổ, mắt rồng, tay vượn” (Hương Lãm Mai đế kí); Nguyễn Hữu Tiến “vai như vai hổ” (Hoàng Việt hưng long chí)... Đặc trưng cơ bản của văn học trung đại Việt Nam là tính ước lệ, tượng trưng, không miêu tả sự vật một cách cụ thể mang tính cá thể đặc điểm, không gian, thời gian mà bao giờ cũng vay mượn những công thức có sẵn để miêu tả. Văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc trên nhiều phương diện, một trong những điều có thể chỉ ra là trong cách tư duy, miêu tả nhân vật. Trong bài Tính chất kí hiệu của chân dung nhân vật bằng ngôn từ trong văn học cổ điển Trung Quốc, B. L. Riftin đã chỉ ra hình tượng anh hùng văn hóa được mô hình hóa thành một toàn bộ các dấu hiệu của động vật và của con người, nhưng ở các giai đoạn sớm hơn thì chỉ có dấu hiệu động vật [5]. Thực chất của sự miêu tả này có thể được biểu đạt bằng một công thức cấu tạo giản đơn nhất. Ý nghĩa của hình tượng toát ra từ toàn bộ các dữ kiện được thông báo, ví dụ: “Phục Hy mình rồng, đầu bò tót, vai rộng, nách rộng, mũi gồ lên như núi, sừng mặt trời, mắt rộng, lông mày ngọc, tóc dựng lên như bờm ngựa đang phi, chuôi tóc như lông chim, môi rồng, răng rùa, thân cao chín thước một tấc” (Dẫn theo bài của B. L. Riftin) [5;43]. Đối chiếu chân dung nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam vào đây chúng ta thấy có sự tương đồng. Chân dung bà Bà Triệu được miêu tả: “mũi hổ, trán rồng, đầu báo, hàm én” (Lệ Hải bà vương kí). Đối chiếu theo sách của Hoàng Phủ Mật viết về chân dung các anh hùng văn hóa Trung Quốc thì Bà Triệu có “mũi hùm” giống Vua Vũ: “mũi hổ, mồm lớn, tai có ba vành, trên đầu có móc và búa”. Cái “mũi hùm” mà chúng ta gặp trong chân dung vua Vũ trong thần thoại, còn “đầu báo, hàm én” là vay mượn từ hình ảnh Trương Phi (Tam quốc diễn nghĩa): “Ông ta đầu báo, mắt tròn như cái vòng tròn đeo tai, hàm én, ria hổ, mình cao hơn chín thước, còn tiếng nói của ông ta vang lên như 35 Trần Thị Thanh Nhị tiếng sấm”. Những kí hiệu nói trên không chỉ đảm nhiệm chức năng ngợi ca mà còn có vai trò quan trọng hơn, là điềm triệu mang tính dự báo về tài năng và hành trạng phi thường. Trước đây, thời cổ đại các nhân vật tiên đế thần thoại được miêu tả qua sự so sánh hàng loạt với từng bộ phận của khuôn mặt và thân thể phù hợp với bộ phận tương ứng của thân thể một loài thú nào đó, mà thường là các vật tổ (tô tem). Dần dần khi hệ thống kí hiệu trở nên bền vững dùng để miêu tả thì các nhân vật lịch sử bắt đầu được miêu tả thông qua sự so sánh từng bộ phận của khuôn mặt và thân thể họ không phải với thú vật, mà với các vị tiên tổ đã được lí tưởng hóa. Một ví dụ bất ngờ nhất cho cách miêu tả đó được Vương Sung dẫn ra trong công trình của ông. Nhà triết học dẫn một trường hợp vui vui từ cuộc đời của Khổng Phu Tử. Nhà thông thái vĩ đại có lúc nào đó đi đến gặp vua nước Trịnh. Một người dân nước đó nhìn nhìn ông ta và bảo: “Đầu ông ta giống đầu ông Nghiêu, má gợi nhớ Cao Dao, hai vai tương tự như viên quan Tử Sản, chỉ có từ thắt lưng trở xuống kém ông Vũ ba phân” [5;55]. Thế là ở đây toàn bộ hình dáng bề ngoài của Khổng Tử được miêu tả bằng cách so sánh từng bộ phận riêng biệt của thân thể với từng bộ phận tương ứng từ trong chân dung nổi tiếng của các nhân vật thần thoại (chỉ ngoại trừ Tử Sản, tên thật là Công Tôn Kiều, có thời làm quan cho nước Trịnh [5;55]. Điều kì thú là điều này được lặp lại tương tự trong cách tác giả Nam triều công nghiệp diễn chí miêu tả chân dung Vương tôn (Nguyễn Phúc Chu): “mặt Nghiêu mắt Thuấn, lưng Vũ, vai Thang, trạng mạo như Đường Tông, phong tư tựa Tống Tổ” [1;597]. Khó có thể hình dung khuôn mặt cụ thể, sống động của nhân vật ra sao vì chúng hoàn toàn mang tính ước lệ, kí hiệu. Truy tìm về nguồn cội những kí hiệu được dùng để so sánh: “Hoàng Đế mặt rồng, Chuyên Húc trên đầu có mộc, Đế Khốc có những chiếc răng mọc liền, vua Nghiêu có lông mày tám sắc, vua Thuấn mắt có hai đồng tử, Vũ tai có ba vành, vua Thang mỗi vai có hai tay, Văn Vương có bốn vú, Vũ Vương bao giờ cũng nhìn lên trên, Chu Công lưng còng, Cao Dao có mồm ngựa, Khổng Phu Tử đầu có cái gò” [5;54], ta có thể tạm hình dung ra chân dung nhân vật. Trong chân dung trên “Mặt Nghiêu” có đặc điểm nổi bật nhất là lông mày tám sắc. Đặc điểm này là dấu hiệu chỉ có ở người thông thái và sáng suốt, có kiến thức về các hiện tượng trên trời như mặt trời, mặt trăng và thiên giới. “Mắt Thuấn” có đặc điểm kì lạ là có “hai đồng tử”. Các nhà chú thích đề nghị hiểu các đặc điểm của ông như sau: “Mắt hai đồng tử làm nhớ tới ánh chớp”. Chúng tôi đề xuất thêm cách hiểu nữa là nói đến khả năng nhanh nhạy, bao quát, thấu suốt mọi vấn đề. Ở trên chúng tôi đề cập đến những trường hợp các tác giả miêu tả chân dung khuôn mặt theo công thức thánh nhân, sử dụng những yếu tố gắn với các động vật. Tuy nhiên, nếu khảo sát kỹ chúng ta vẫn nhận ra nhiều dấu vết khác của tướng thuật trong khi các tác giả miêu tả các bộ phận khác: tướng xương, tướng mặt, tướng thân, tướng tay, tướng hình thần, tướng khí sắc, tướng động tĩnh (ngồi vững như non), tướng nốt ruồi. . . Điều này được các tác giả VXTSTĐVN khai thác triệt để để xây dựng các tình tiết tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Ví dụ như, xem bói thì phải xem mới thấy, nhưng thầy bói nhiều khi lại mù loà, vì thế không lấy mắt để xem theo cách bình thường, mà dùng tay. Tuy mù nhưng bà lão trong truyện Xem tướng xương, nhận ra ngay đâu là quan, đâu là lính. Các bộ vị khác cũng được các nhà văn quan tâm khai thác nhất là nốt ruồi: số lượng, màu sắc, vị trí của nốt ruồi trong quan niệm tướng thuật không phải là ngẫu nhiên, nốt nhiều càng nhiều, mọc ở vai, chân, tay, lưng. . . thường là điềm báo cho những nhân vật kiệt xuất, văn võ toàn tài: Nguyễn Hữu Tiến lòng bàn chân có bảy nốt ruồi (Nam triều công nghiệp diễn chí), Ngô Quyền vai có nốt ruồi, trong sử thì chép ở lưng có ba cái nốt ruồi (Đại Việt sử kí toàn thư); Trần Nhân Tông ở hai bên vai tả có nốt ruồi đen (Đại Việt sử kí toàn thư). . . Vị trí nốt ruồi xuất hiện cũng là một trong những vấn đề đáng lưu tâm, vì hầu hết chúng đều xuất hiện ở chân, tay, lưng, vai mà không phải ở những chỗ khác, chúng mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu trưng, chỉ sự tập luyện vất vả thành tài, và có khả năng, được trời giao cho gánh vác những nhiệm vụ, trách nhiệm quan trọng liên quan đến quốc gia. 36 Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật Ngoài ra, những chi tiết miêu tả cụ thể theo kiểu tướng thuật khác cũng xuất hiện rất nhiều: Thân hình: Lý Ông Trọng thì thân dài hai trượng ba thước (Hiệu úy Uy Mãnh Anh Liệt Phu Tín Đại Vương), Phụng Hiểu người cao lớn, tướng đẹp, râu tốt, có sức khỏe lạ thường (Đô đốc khuông tá thánh vương), Lê Như Hổ thân thể to lớn, cao năm thước năm tấc, lưng rộng một thước năm tấc (Truyện Thượng thư Lê Như Hổ ). Thân hình to lớn, khác người thường cũng là một điểm nhấn dự báo một sự nghiệp lừng lẫy, một võ tướng lập được nhiều chiến công nhờ sức vóc, uy vũ. Tướng vai: Nguyễn Hữu Tiến trang mạo khôi ngô, vai như vai hổ. Chi tiết này ngoài mang tính dự báo còn cho thấy, trước khi ra mắt Đào Duy Từ, Chúa Nguyễn thì Nguyễn Hữu Tiến đã trải qua những tháng ngày công phu võ luyện đến mức lúc gặp Lộc Khê thấy ông: “anh hùng lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, phong độ tư thế vượt khác người thường, lại có sức mạnh dời núi nâng vạc” (Nam triều công nghiệp diễn chí). . . Thậm chí tướng phân cũng được đề cập: Người Nguyên nhân lúc Mạc Đĩnh Chi ra nhà xí đại tiện, xem phân thì thấy phân vuông, họ cho là có ẩn tướng ở đó, mà rất đáng quý (Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi). Tướng da dẻ: Hà Ôi Lôi da màu đen, mịn bóng như sáp (Truyện Hà Ôi Lôi). Theo quan điểm tướng thuật là đàn ông cũng như đàn bà ai da bóng láng như thoa mỡ có khả năng và nhu cầu cao về tình dục và lận đận tình duyên. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà từ màu da đen, bóng mịn như sáp của nhân vật, Tạ Chí Đại Trường đã có những nhận xét sắc sảo đáng quan tâm: “Trước hết là ở hình dạng nhân vật, được tả “da thịt đen như mực”, đen nhưng “da láng như mỡ”, được cả tiên Đồng Tân khen “đẹp lắm” tiếp khi tiếp thêm sức giọng hát tuyệt vời ngoài tính chất thông minh mẫn tiệp khác. “Đen” ở đây rõ ràng là da đen theo giống chứ không phải vì dang nắng! Đời Trần đã có rất nhiều giao tiếp với dân hải đảo có màu da sậm hơn người Việt, vậy thì việc có một người con lai như thế không phải là điều lạ. . . Học giả miền Bắc lúc có cơ hội đi điền dã đã gợi ý đây là một hậu duệ của tù binh Chàm trong vùng. Ô Lôi lúc lớn lên được vào hầu trong cung Dụ Tông. Phía trời Tây triều đình người Ả Rập đã có rất nhiều nô lệ người da đen “làm loạn” ở hậu cung như còn truyền lại trong Ngàn lẻ một đêm. Huyền thoại về khả năng tình dục của người da đen có ở khắp nơi, cho nên cung đình họ Trần có thêm một Ô Lôi cũng không là mới. Vậy phải chú ý đến sự “sủng ái” của nhà vua đối với “tân khách” Ô Lôi. “Vua thường bảo ở triều đình rằng nếu ai có thấy Ô Lôi gian phạm con gái nhà ai, bắt nó đến đây thì vua thưởng tiền một ngàn quan, nếu giết nó thì phải bồi thường một vạn quan. Đi chơi đâu vua cũng thường cho nó đi chơi cùng”. Tuy sử quan có khen bài thuốc của Trâu Canh, nhưng chắc là không công hiệu lắm, vì rốt cuộc Dụ Tông vẫn không có con, đến lúc chết phải để Dương Nhật Lễ lên thay. Vậy thì Ô Lôi trong triều với những điều ghi lại “nhẹ nhàng” kia, chứng tỏ là một “boy friend” của Dụ Tông (Theo chỉ dẫn của Trâu Canh?), điều đã thấy rất nhiều ở Cổ Hi Lạp, cũng như trong chữ Hán “đoạn tụ”, từ tích Hán Ai Đế (năm 6-1 trcn.) phải cắt ống tay áo của mình mới trỗi dậy được mà không làm kinh động người yêu-trai (Đổng Hiền) đang ngủ mê mệt nằm đè lên” (Hán thư, Đổng Hiền truyện) [9]. Tướng thuật lại đề xuất ra thuyết về khí sắc, tức là căn cứ vào màu sắc đỏ, vàng, xanh, đen, tía, trắng, độ sáng tối biểu hiện ở các bộ vị khác nhau trên mặt để suy ra hoạ phúc cát hung trước mắt và lâu dài về sau, cái đó với mệnh tướng của các bộ vị trên hình thể. Đặc trưng bộ vị quyết định số mệnh chung, còn khí sắc quyết định sự biến hoá cụ thể của cát hung hoạ phúc trong một phạm vi thời gian không gian. Do đó mà tạo nên thuyết mệnh vận vừa tương đối ổn định, vừa biến hoá vô cùng. Thần sắc, khí màu đen tối là điềm dữ cận kề. Nhà sư xem tướng cho Trần Phong Doanh nhận xét: “đôi mắt... thần sắc rối loạn, trên mặt tuy đầy vẻ rạng rỡ bên ngoài nhưng có màu đen tối ẩn náu bên trong, ắt là khí suy đến nơi rồi” (Nhà sư răn chuyện cờ bạc). Trần Nhân Tông được tinh anh của thánh nhân, “đạo mạo thuần tuý, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim tiên đồng tử” (Đại Việt sử kí toàn thư) [2;451]. Màu sắc tươi sáng ấy không chỉ là phong độ của một đế vương mà còn là phong thái của một vị Phật tại cõi trần, xem nhẹ vương quyền, tìm sự giải thoát. 37 Trần Thị Thanh Nhị 2.2. Vật tướng Trong lịch sử tướng học có một loại xem tướng dựa vào việc quan sát những đồ vật có liên quan đến con người để dự đoán cát hung quý tiện của người đó. Môn đó, gọi là vật tướng. Tướng thuật như một cây có nhiều cành lá, đẻ ra nhiều môn phái khác nhau, nên những người mê tín gán ghép phỏng đoán, cho rằng nếu như hình mạo đã có thể tỏ rõ quý tiện cát hung thì những vật phẩm gần gũi với con người cũng có thể rõ thị hiếu, tính tình của con người và đương nhiên cũng có thể căn cứ vào những vật đó để dự đoán cát hung. Vật tướng còn phân loại các vật phẩm khác nhau để xem tướng như xem tướng ấn, xem tướng chữ xem tướng tên, xem tướng hốt. . . Phép xem tướng chữ, còn gọi là “chiết tự”, “trắc tự”. Phương pháp này chia chữ ra các bộ phận rồi gán ghép vào chuyện nhân sự để đoán cát hung. Bí quyết của phép xem tướng chữ xem ra là ở chỗ “suy diễn sự liên quan mà đoán cát hung”, việc suy diễn này đáng để ta xem xét. Sự liên quan này là muốn nói những dấu hiệu chỉ sự biến hoá của sự vật. Với thầy tướng đoán chữ, đó là việc sau khi phân tích chữ, suy đoán ra sự cát hung của khách xem tướng. Cổ quái bốc sư truyện là một trong những truyện thuộc loại hiếm, lấy nhân vật thầy bói làm trung tâm tác phẩm, đặt nhân vật trong bối cảnh lịch sử thời vua Lê chúa Trịnh. Bốc sư là một kẻ sĩ thi mãi không đỗ, phải làm nghề thầy bói, giỏi nhất là môn chiết tự. Diễn biến câu chuyện gắn với các sự kiện lịch sử trong cung vua phủ chúa nhưng lại được móc trên những chiếc đinh là các chữ thầy bói cho các nhân vật. Trong buổi đầu gặp gỡ, mỗi vị khách viết mỗi người một chữ là Càn, Nguyên, Hanh thì thầy lập tức phán là “Nước nhà có người rồi. Quốc gia vô sự, thiên hạ thái bình. Giám sinh sẽ làm cận thần, còn hai vị nội thị sẽ làm đại tướng” [3;325] (Tập 1). Vì Càn là trời, là vua, là cha; còn nguyên, hanh là đức của càn; ba chữ liền nhau, có nghĩa là xoay vần tạo dựng, Giám sinh viết chữ càn cho nên sẽ được trao chức quan cận thần, hai vị nội thị viết hai chữ nguyên, hanh cho nên sẽ được trao chức đại tướng. Còn khi gặp Vua Ý Tông, xem chữ Ý, bốc sư liền phán: “Chữ ý rất tôn nghiêm, rất đứng đắn, rất yên ổn, nét trên dài mà thẳng, nét dưới mác mà tròn, lại có ba cái chấm để phò giúp, cho nên thế nước cũng như bản thân nhà vua không có gì phải lo. Nhưng từ giờ trở đi, nhà vua cần thoái hưu để làm những việc mà mình thích” [3;327] (Tập 1). Thầy bói vừa nhìn thấy chữ Thắng, liền đem dán lên vách, sửa mũ áo vái bốn vái, nói: “Chữ thắng do chữ trẫm và chữ lực hợp thành, đó là vị Chúa anh minh vậy. Chữ lực ở dưới chữ Trẫm, đó là tượng trưng cho Cửu nhị đại nhân, chứ chưa phải là Cửu ngũ đại nhân. Muốn có Cửu ngũ, phải tìm kiếm một phen”. Và đến khi thấy chữ Cảnh của hoàng tử thứ nhất của vua Long Đức liền bảo: “Mặt trời chiếu kinh sư không phải cửu ngũ là gì? Nhưng chữ nhật ngắn mà chữ kinh dài, chữ nhật nhỏ mà chữ kinh to, tuy hưởng lộc lâu dài, nhưng quyền không khỏi chuyển về tay kẻ dưới” [3;328]. Quả nhiên, sau vua Ý Tông nhường ngôi, Hiển Tông được lập, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng. 2.3. Tâm tướng Tướng thuật coi trọng sự tu dưỡng nội tâm như vậy, cho rằng sự tu dưỡng nội tâm và cử chỉ hành vi mẫu mực có tác dụng quyết định hoạ phúc tương lai. Trong quan niệm của người xưa, tâm là khí quan sinh ra tư duy và tình cảm, do đó tâm là chủ của thần khí, là nhà của ngũ tạng, nó thống nhiếp các bộ vị toàn thân, có thể ảnh hưởng đến mệnh tướng của người. Hiếu liêm, và trinh tiết là một trong những nội dung chủ yếu của luân lí phong kiến. Quan niệm luân lí đó lại phụ thuộc vào tướng mạo, tức là từ tướng mạo có thể biết được một người nào đó có hiếu đễ và trinh tiết không. Trong cách tác giả miêu tả về nhân vật từ ngoại hình, phục sức, dáng vẻ, tâm tính cũng cho người đọc thấy được thái độ của tác giả là khen hay chê: “Tống thị tuy là phận gái nhưng có chí lớn, nhan sắc hoa thẹn, nguyệt mờ, dáng điệu nhạn rơi cá lặn, tính tình lẳng lơ mây sớm gió chiều, thần Hồ nhớ Việt, nói năng khéo léo khoái hoạt, cợt gió đùa trăng, phong thái chẳng kém gì Ly Cơ, Tiểu Muội” đã tìm mọi cách quyến rũ chúa Nguyễn (Nam triều công nghiệp diễn chí) 38 Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật [1;206]. Sư cụ Pháp Vân là người có con mắt thiền nên không nhận Đào Hàn Than vào tu trong chùa đã bảo Vô Kỷ rằng: “Người con gái này, nết không cẩn nguyệt, tính bén lẳng lơ. Tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền khôn phải sắt đá, sắc đẹp dễ mê người, tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt” [4, 234] (Tập 1). Nhưng Vô Kỷ không nghe, quả nhiên sau này khi đã đi tu rồi mà Hàn Than vẫn tính nết cũ chưa trừ bỏ, mỗi lúc ở nhà dưới đi lên, mặc áo lụa, quần là, môi son, má phấn. Sau đó Đào thị và Vô Kỵ không giữ giới luật yêu nhau đến mức Đào thị có thai và chết trong lúc sinh con (Chuyện nghiệp oan của Đào thị). Còn phu nhân của Đinh Hoàn thì được miêu tả: “Nghi dung thanh nhã, cử chỉ đoan trang” (Truyện người liệt nữ ở An Ấp) khi chồng mất, đến ngày lễ tiểu tường tự tử để đi theo chồng. Rõ ràng trong cách tác giả miêu tả với những so sánh trên gắn với quan niệm về Trinh/ Dâm. Người trung trinh phải là mẫu như Thuý Vân: chừng mực, đoan trang, nói năng, cử chỉ mực thước, được thiên nhiên, vũ trụ lui nhường, ủng hộ (Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọt thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da (Truyện Kiều)). Theo tướng mệnh học thì cuộc đời của người đàn bà hữu hạnh hay bất hạnh hoàn toàn thuộc về tướng cách của người đó, nhan sắc dể đến với hạnh phúc nhưng cũng có thể trở nên tại họa, chỉ có tướng cách tốt mới khả dĩ có một thân phận yên ổn hạnh phúc. Trong lí luận tướng thuật, cái đức siêu hình phụ thuộc vào quan niệm chiếm vị trí có ý nghĩa quan trọng nhất so với mọi tư liệu cảm tính. Cho nên nói đức đặt trên tướng mạo, tướng mạo chiếm vị trí sau đức. Tiêu chuẩn đầu tiên của đối tượng xem xét được tướng thuật điển hình ca ngợi là thà có đức mà tướng xấu, chứ không nên có tướng mạo tốt mà vô đức. Đương nhiên, nếu một cá nhân có đủ cả đức lẫn tướng mạo, “tướng đức song toàn” thì sẽ được như tướng thuật tôn sùng. Chuyện Lý tướng quân kể chuyện có ông thầy tướng số đến cửa xin ăn và có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy đã thẳng thắn nói: “Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lí, tướng diện không bằng tướng tâm. Nay Tướng quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai họa” [3;294] (Tập 1). Tướng thuật dung hợp tiêu chuẩn luân lí và nhân sinh được Nho gia tôn sùng, nên có thể coi tướng thuật là chi lưu của Nho gia. Nho gia ra sức chủ trương nhân thế, coi trọng thực tế “không nói chuyện thánh thần quái dị” coi Thích gia, Đạo gia là tà thuyết dị đoan. Người tin ở mệnh cũng chỉ công nhận số trời đã định đoạt lúc tiên thiên, mà không lấy nhân sự hậu thiên (như chân thành cúng lễ và làm việc thiện) để bàn về mệnh. Nhưng theo thời gian sự thay đổi của tướng thuật ngầm bổ sung và dung nạp, hoà giải với hai tôn giáo kia. Và thế là tướng thuật trở thành một phương thuật chung cho cả Nho, Đạo, Phật. Nhiều tăng nhân và đạo nhân cố ý dùng giáo nghĩa của của Phật giáo và Đạo giáo để thay đổi mệnh lí, qua việc xem tướng để truyền bá tôn giáo. Từ đó tướng thuật nhuốm màu sắc tôn giáo. 2.4. Kết luận Như vậy, qua khảo sát có thể thấy, trong cách xây dựng chân dung nhân vật trong VXTSTĐVN các tác giả vay mượn công thức thánh nhân trong thần thoại Trung Quốc thể hiện ở những so sánh với động vật và thực vật, vũ trụ và những lí thuyết về tướng thuật như tướng xương, da, phân, nốt ruồi. Đối tượng được miêu tả, rõ ràng đối tượng được miêu tả hầu hết là những nhân vật lịch sử quân vương, văn thần, võ tướng, chỉ xuất hiện một vài trường hợp là thường dân. Có những trường hợp các tác giả chỉ sử dụng đặc tả một đặc điểm trong chân dung nhân vật, nhưng cũng có nhiều trường hợp (Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Huệ...), chân dung nhân vật được miêu tả tổng hợp của nhiều bộ vị (Ngô Quyền, Bà Triệu, Mai Thúc Loan. . . ). 39 Trần Thị Thanh Nhị TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Khoa Chiêm (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga giới thiệu), 2003. Nam triều công nghiệp diễn chí. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. [2] Ngô Sỹ Liên, 1976. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [3] Trần Nghĩa, 1997. Tổng tập tiểu thuyết Việt Nam, tập 1, 2, 3, 4, Nxb Thế giới, Hà Nội. [4] Diêu Vĩ Quân, 2004. Bí ẩn của tướng thuật. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. [5] Riftin L., 2012 (Trần Đình Sử dịch). “Tính chất ký hiệu của chân dung nhân vật bằng ngôn từ trong văn học cổ điển Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (11), tr.41, 51-53. [6] Nguyễn Hữu Sơn, 1998. Khảo sát loại hình tiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học. Hà Nội tr.29,31. [7] Trần Đình Sử, 2005. Tuyển tập, Tập 2. Nxb Giáo dục. [8] Nguyễn Cảnh Thị, (Trần Nghĩa giới thiệu), 2011. Hoan Châu kí. Nxb Thế giới, Hà Nội [9] Tạ Chí Đại Trường, Sử Việt đọc một vài cuốn, vaiquyen.pdf [10] Lê Thu Yến, 2014.“Giá trị hiện thực của yếu tố tâm linh trong văn học trung đại”. Tạp chí Nghiên cứu văn học, (4), tr.4-5,11-12. ABSTRACT Personage in Vietnamese middle-age narrative literature in the view of physiognomy Tran Thi Thanh Nhi Faculty of Philology, Hue National Univesity of Education In Vietnamese middle-age narrative literature, the authors when building portrait and depicting the character often borrow the image of the saint or sage in Chinese mythology embodied in the comparison with animals, vegetals and the universe. They also use and exploit other factors in the perspective of physiognomy (primarily through general characteristics observed in appearance, language, human gestures to predict the progress and destiny of the character) to predict the fortune of the character (mainly through form, material and mental sign). Keywords: Foreseeing, physiognomy, form, character. 40
File đính kèm:
- nhan_vat_trong_van_xuoi_tu_su_trung_dai_viet_nam_duoi_goc_nh.pdf