Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam
Văn học đương đại Việt Nam là một bức tranh đa chiều, phức tạp và đầy màu sắc.
Đó là nền văn học đa thanh với rất nhiều cá tính sáng tạo khác nhau cùng những nỗ lực
khai tử thói quen cũ mòn và khuôn sáo, từ đó hình thành một Hồ Anh Thái mê chơi cấu
trúc, một Nguyễn Bình Phương nghiêng về phân tâm học, một Nguyễn Việt Hà tư duy tôn
giáo, một Thuận và Đoàn Minh Phượng liên văn bản, một Đặng Thân hậu hiện đại Có
thể nói, từ 1986 đến nay, nghịch dị (grotesque) được hồi sinh mạnh mẽ trong tiểu thuyết
Việt Nam qua các sáng tác của Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Việt Hà, Đặng Thân, Y Ban
Hiện nay, nghịch dị (Grotesque) trong văn học nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết
nói riêng đã và đang được giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và sáng tác quan tâm. Đó là
nhờ cái nhìn dân chủ được phát huy. Nghịch dị (Grotesque) đã góp phần tạo nên cái nhìn
tự do với tiếng cười châm biếm, giải phóng bản thể của con người trước mọi sự rập khuôn,
sáo rỗng. Thông qua grotesque, nhiều trật tự được định nghĩa, thế giới được nhìn khác đi.
Có rất nhiều cánh cửa để đi vào tiểu thuyết đương đại. Có người dùng ánh sáng của hậu hiện
đại, ánh sáng của diễn ngôn, huyền thoại, kì ảo, phân tâm học Sử dụng lí thuyết Grotesque
để soi chiếu tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nhiều tác giả đã sử dụng
nghịch dị để xây dựng nhân vật.
Có thể nói, hình tượng nhân vật nghịch dị của tiểu thuyết đương đại Việt Nam không
có độ hoành tráng và kì vĩ như Gargantua và Pantagruel của Rabelais. Hơn nữa, nghệ
thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam mang tính
chất hiện đại và hậu hiện đại. Nghịch dị gắn với những biểu hiện đời thường. Nó cũng bắt
đầu có dấu hiệu sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại
một hoặc một vài khía cạnh tính cách.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam
19 NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM Huỳnh Thị Thu Hậu1 Tóm tắt: Bài viết minh định được nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam như sự kết hợp của các yếu tố tương phản, sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại một hoặc một vài khía cạnh tính cách kì dị, khác thường. Hơn thế nữa, nghệ thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật góp phần thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người trong văn học. 1. Mở đầu Văn học đương đại Việt Nam là một bức tranh đa chiều, phức tạp và đầy màu sắc. Đó là nền văn học đa thanh với rất nhiều cá tính sáng tạo khác nhau cùng những nỗ lực khai tử thói quen cũ mòn và khuôn sáo, từ đó hình thành một Hồ Anh Thái mê chơi cấu trúc, một Nguyễn Bình Phương nghiêng về phân tâm học, một Nguyễn Việt Hà tư duy tôn giáo, một Thuận và Đoàn Minh Phượng liên văn bản, một Đặng Thân hậu hiện đại Có thể nói, từ 1986 đến nay, nghịch dị (grotesque) được hồi sinh mạnh mẽ trong tiểu thuyết Việt Nam qua các sáng tác của Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Đặng Thân, Y Ban Hiện nay, nghịch dị (Grotesque) trong văn học nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã và đang được giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và sáng tác quan tâm. Đó là nhờ cái nhìn dân chủ được phát huy. Nghịch dị (Grotesque) đã góp phần tạo nên cái nhìn tự do với tiếng cười châm biếm, giải phóng bản thể của con người trước mọi sự rập khuôn, sáo rỗng. Thông qua grotesque, nhiều trật tự được định nghĩa, thế giới được nhìn khác đi. Có rất nhiều cánh cửa để đi vào tiểu thuyết đương đại. Có người dùng ánh sáng của hậu hiện đại, ánh sáng của diễn ngôn, huyền thoại, kì ảo, phân tâm họcSử dụng lí thuyết Grotesque để soi chiếu tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nhiều tác giả đã sử dụng nghịch dị để xây dựng nhân vật. Có thể nói, hình tượng nhân vật nghịch dị của tiểu thuyết đương đại Việt Nam không có độ hoành tráng và kì vĩ như Gargantua và Pantagruel của Rabelais. Hơn nữa, nghệ thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam mang tính chất hiện đại và hậu hiện đại. Nghịch dị gắn với những biểu hiện đời thường. Nó cũng bắt đầu có dấu hiệu sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại một hoặc một vài khía cạnh tính cách. 2. Nội dung Trước hết, khai thác sở thích kì quái, Hồ Anh Thái trong Mười lẻ một đêm, xây dựng hình tượng họa sĩ trồng chuối, người thích nuy, thích khỏa thân, thích trồng cây chuối, hài hước là người đứng trên hội họa nhưng không biết vẽ: “Tốt nghiệp đại học Mĩ thuật Yết Kiêu hẳn hoi. Nhưng chàng thực chất không phải là họa sĩ. Chàng học lí luận mĩ thuật. 1 ThS, NCS Khoa Ngữ văn & CTXH, trường Đại học Quảng Nam HUỲNH THỊ THU HẬU 20 Dần dần thành danh một nhà phê bình tranh”. Hơn nữa, nhân vật Họa Sĩ trồng chuối cũng là một người rất giỏi hành động tính giao, kiểu nhân vật vật chất xác thịt: “Chàng đứng trên tình trường nhưng chẳng tình nào đậu. Bốn mươi tám tuổi vẫn là chàng trai độc thân. Lâu lâu dắt về nhà một cô. Độc thân mà hơn cả có vợ, lúc nào cũng sẵn. Thế là bắt đầu quen với tính lăng nhăng, lít nhít của con trai [8,20], “gã là con người hồn nhiên cởi mở. Cởi mở. Đấy là loại phim con heo cởi hết ra mở hết ra. Mấy họa sĩ thành danh bạn gã chuyên thành công ở loại tranh khỏa thân, mấy chàng ấy chỉ thích cởi mở người mẫu chứ không thích cởi mở chính mình. Gã khác. Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Cái ảnh khoe chim đầu đời vận cả vào đời” [8,21], “Không cần chứng minh rằng ở khu phố nhà gã thì gã khét tiếng thế nào. Người ta đặt biệt danh cho gã hẳn hoi. Chim để ngoài quần” [8,23]. Nhân vật họa sĩ cây chuối với sở thích nuy gợi chúng ta nhớ đến nhân vật Em Chã trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Họa sĩ trồng chuối quả thật là con người của bản năng. Bản năng tính dục mạnh mẽ. Những hành động kì quái của gã khiến chính quyền vào cuộc, đối lại với chính quyền, gã trồng cây chuối trong bộ dạng khỏa thân. Hình tượng nghịch dị trên một lần nữa nói lên cái hỗn độn, cái chênh vênh của nghệ thuật. Người cầm cân cho hội họa, có thể làm cho ai đó nổi tiếng hoặc giết chết tên tuổi lại là một người sống bản năng, buông thả. Ngoài họa sĩ trồng chuối, tác phẩm còn có hình tượng người đàn ông vốn là giáo sư tiến sĩ viện trưởng, từng đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, khi đi là ông kĩ sư hóa chất Việt Nam, khi về là ông tiến sĩ triết học Đức - chồng thứ năm của người đàn bà thích đất và thích trai, mắc bệnh cười: “Chàng sáu mốt giả danh bỗng nhiên mắc chứng bệnh cười. Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười Nhưng sân khấu bi rồi mà chàng sáu mốt vẫn cười. Cười rũ rượi, cười hết hơi” [8,93]. Con người đến một lúc nào đó rơi vào bi kịch không thể làm chủ được hành vi của mình. Đó là thông điệp thật bi đát. Hơn thế nữa, bức biếm họa trong Mười lẻ một đêm còn thể hiện qua nhân vật ông Vip diễn thuyết mà nhắm mắt: “Năm năm đời sống vợ chồng đôi khi chị không nhớ rõ gương mặt ông. Nhưng rất nhớ cái nhắm mắt biểu diễn mỗi khi ông diễn thuyết hay chỉ thị cho cấp dưới. Nói nửa câu nhắm mắt. Nói tiếp ba câu nữa, nhắm mắt. Cái nhắm mắt của ông không diễn được vẻ quan chức. Nó chỉ phô ra vẻ đê mê đang chờ đến cực khoái. Diễn thuyết mà như đang làm tình” [8,269]. Hình tượng ông Vip làm bật lên tiếng cười hài hước, diễn thuyết và làm tình, làm tình mà như diễn thuyết. Cùng xây dựng nhân vật nghịch dị có nét kì quái, Vũ Nhật Lập trong tiểu thuyết Thế giới C đã khắc họa bi kịch của người có bàn tay màu cam. Bắt nguồn từ một cuộc trao đổi giữa nhân vật tôi và cô: “Tôi có thể giúp cho anh tìm được thứ mà anh đã đánh mất kể cả là một ai đó. Nhưng, nó không đơn giản như anh nghĩ. Không phải chắc chắn lúc nào cũng thành công. Cho dù là ngay cả khi anh đã tìm được thứ mình đánh mất, nó cũng không có gì đảm bảo là sau đó anh sẽ cảm thấy hạnh phúc” [5,155]. Khi có lại được đôi tay, nhân vật tôi cứ tưởng sẽ vô cùng hạnh phúc như anh ấy từng quan niệm, nhưng hóa ra lại là đau khổ, vì đôi tay giờ đã chuyển thành màu cam. Nhân vật tôi khổ sở để giấu nó đi: “Tôi nhìn vào đôi tay của mình. Mặc dù đã mang găng tay đen thật dày, nó vẫn còn le lói tia sáng màu cam. Màu Cam ấy sáng chói nhưng sắc độ của nó vẫn khiến người ta thấy buồn. Tôi lại cẩn thận giấu đôi tay của mình vào trong chiếc áo khoác” [5,161]. Nhưng nỗi buồn và NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 21 sự bất hạnh không chỉ dừng lại ở việc phải giấu đôi bàn tay màu cam đi, mà còn là sự cô lập và xa lánh của đám đông đối với anh: “Tôi chấp nhận đánh đổi để tìm lại đôi tay này. Đôi tay mang thứ màu cam đầy u uất. Từ khi tay tôi màu cam, không còn ai dám chạm vào tôi nữa. Dù chỉ một cái bắt tay, họ cũng không có can đảm. Họ cho rằng trong người tôi mang một thứ chất độc nào đó và họ sợ lây nhiễm. Tôi nhận thấy con người thật mâu thuẫn. Cho dù trong nghệ thuật, họ nâng niu những dị biệt, những sáng tạo của cái tôi cá nhân như thế nào thì ở ngoài đời họ vẫn quen sống theo lối bầy đàn. Chỉ một sai khác nhỏ so với số đông sẽ bị cô lập ngay. Tôi chỉ khác mọi người có mỗi đôi tay. Tại sao chỉ vì mỗi đôi tay mà họ không giao tiếp với tôi? Tại sao chỉ vì đôi tay mang màu khác với họ mà cả con người tôi bị chối bỏ” [5,163]. Bi kịch của nhân vật tôi là bi kịch bị khước từ giao tiếp, khước từ quyền được làm người. Đám đông hiện lên trong tác phẩm thật đáng sợ. Tâm lí đám đông như chúng ta biết là quen sống theo bầy đàn. Họ chỉ muốn dốt bầy còn hơn giỏi một. Cái đám đông ấy giết chết mọi sự khác biệt, và hủy diệt mọi sự sáng tạo, mọi cá tính. Nhân vật tôi là một người trẻ, anh ý thức rất sâu sắc vẻ đẹp của sự khác biệt, muốn sống mà không bị hòa tan vào đám đông giống nhau từ suy nghĩ đến hành động. Những câu hỏi tại sao nối tiếp nhau cực tả được nỗi bất bình chua xót khi anh bị đám đông cô lập và khước từ. Từ đời sống đến nghệ thuật hay từ nghệ thuật đến đời sống là một con đường rất xa, anh chợt nhận ra sự đối lập và tương phản trong cách hành xử của đám đông đối với cái khác biệt. Bên cạnh đó, nhân vật mặt đen trong Đi tìm nhân vật cũng là một kiểu hình tượng nghệ thuật nghịch dị: “Cho đến nay, mặt đen vẫn là một ẩn số đối với tôi. Hắn có một khả năng rất kì lạ: Vạch ra những những thói xấu của người khác, nhất là những trò ma quỷ rất nhanh. Hắn hợp với tất cả những gì quái dị: Ai đó vui thì hắn buồn, hắn cười khi người khác khóc, thích bóng tối, nhất là bóng tối ở những khu đền miếu. Cũng người đó kể: tự tay hắn giết chết hàng trăm con chó đực” [1,178-179]. Hình tượng được tạo nên bởi sự kết hợp của những tương phản vui buồn, khóc cười, bởi sở thích kì quái. Con người lập dị chứa nhiều ẩn số. Mặt đen hiện thân cho phần tăm tối trong tâm hồn mỗi người. Con người thứ hai luôn nổi loạn ở mỗi người. Hay nói cách khác là con người của vô thức, bản năng. Nhân vật mặt đen được xây dựng như biểu tượng của phần vô thức. Ngoài ra, nhân vật hắn trong Đi tìm nhân vật nổi bật với chân dung như là sự kết hợp của những yếu tố không thể kết hợp được: “Hắn có bộ mặt điển trai, tóc sáng, mắt như hai bóng râm nhỏ và đặc biệt đáng chú ý là cái miệng. Nó hơi lệch sang một bên như là khi ra đời hắn bị một bên là quỷ sứ, một bên là các thiên thần giằng nhau chí chết nhằm kéo hắn về phe mình. Quỷ sứ vốn mạnh tay, dùng móc sắt mà y luôn thủ sẵn, móc vào mép hắn, trong khi các thiên thần gượng nhẹ hơn cứ túm lấy hai chân hắn mà lôi. Kết quả mồm hắn thì bị lệch còn chân thì quá dài. Hắn vĩnh viễn mang dấu ấn của cả hai thế lực. Hắn vừa thông minh, vừa đần độn, vừa thanh cao vừa ô trọc, vừa thiện vừa ác. Mắt hắn luôn luôn là sự lấn át lẫn nhau giữa ánh sáng tinh thần siêu thoát và bóng tối của dục vọng. Hắn hùng tâm tráng chí nhưng luôn sợ đối mặt với quyền lực. Nỗi sợ này khắc dấu lên tâm hồn hắn. Một tâm hồn nhạy cảm, thích nổi loạn nhưng sợ bị tan vỡ. Hắn vừa đam mê vừa lí trí” [1,269-270]. Bức chân dung nhân vật là sự trộn lẫn của thiên thần và ác quỷ, của thiện và ác, của lí trí và bản năng, của thể xác và tâm hồn. Con người vốn mang trong mình tất cả những phương diện trên. Qua đó, cho thấy sự đa diện trong tính cách của nhân vật. Con HUỲNH THỊ THU HẬU 22 người đa diện rất khó nắm bắt, không hoàn toàn nhất phiến, không giản đơn, xơ cứng. Trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta đã từng biết đến nhân vật Faust của Goethe. Trong nhân vật Faust, có cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và ác quỷ, giữa phần con và phần người. Trong cảm thức viết về con người với cuộc đấu tranh giằng co giữa phần con và phần người, trong truyện ngắn I am đàn bà của Y Ban, nhân vật nữ chính đã rất khó khăn, đau khổ khi cố gắng kiểm soát những đòi hỏi bản năng, đòi hỏi của thân xác một người đàn bà thèm muốn ái ân. Nhưng cuối cùng, con người lí trí, con người của mệnh đề tôi phải, tôi nên đã bị con người của mệnh đề tôi muốn, tôi thích chế ngự và chiến thắng. Chị đã ái ân với người đàn ông- ông chủ nằm liệt giường. Cùng đề tài, Phạm Hoa trong Đùa của tạo hóa đã miêu tả nhân vật người mẹ - đang tuổi hồi xuân, căng tràn sức sống, chứng kiến chuyện gối chăn của người con trai tên Tuấn và cô con dâu là Loan chỉ qua một đêm sáng mai thức dậy tóc đã bạc trắng, thân thể trở nên già nua. Cuộc đấu tranh đó là cuộc đấu tranh vĩ đại nhất. Nhân vật hắn cũng phải đối mặt với cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa các mặt đối lập đang tồn tại trong con người mình. Sự phức tạp của hình tượng còn được thể hiện khi hắn vừa là người truy tìm vừa là người bị săn đuổi. Truy tìm sự thật nhưng khi gần chạm tay vào sự thật thì hắn lại bỏ cuộc. Và “nó còn kinh sợ hơn cả việc hắn trở thành con mồi của kẻ giết người” [1,271]. Hơn thế nữa, nhân vật hắn còn thích sưu tầm những cái chết: “Còn hắn, việc sưu tầm những cái chết để thỏa mãn một quan sát lạnh lùng, y như khi ta quan sát con ác thú cắn xé mồi ta sẽ thấy bộ dạng, vẻ mặt, móng vuốt nó ra sao. Về mặt nào đó ta tìm kiếm sự thỏa mãn một nhu cầu mang tính bản thể: chiêm ngưỡng phần vực tối trong tâm hồn ta” [1,271-272]. Nhân vật rơi vào bi kịch khi đánh mất chính mình: “Họ không biết hắn là ai. Bản thân hắn cũng không còn đủ tự tin để khẳng định hắn vẫn là hắn” [1,274]. Trong dòng chảy của thời gian, con người càng ngày càng vong thân, vong bản, bị rô bốt hóa. Không chỉ dừng lại ở việc khai thác những sở thích và tính cách kì quái, bức chân dung nghịch dị của nhân vật tiểu thuyết đương đại còn là những gương mặt kì dị. Nguyễn Bình Phương trong Những đứa trẻ chết già đã xây dựng nhiều gương mặt quái gở như nhan đề tác phẩm: “Vừa ra đời nó đã gây kinh ngạc khắp làng. Nó là trai. Người ta phát hiện ra rằng con bà giáo có râu. Không những thế ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng. Đứa trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét” [6,51]. Gương mặt của đứa trẻ mang vẻ già nua của tuổi tác. Rồi đứa bé chết, đứa con thứ hai lọt lòng chào đời cũng chẳng khác gì hơn: “Nó ở độ già của người ba nhăm, bốn mươi tuổi”. Nghịch dị càng được đẩy lên đến đỉnh điểm khi đứa trẻ này cũng qua đời, bà giáo tiếp tục sinh ra đứa bé thứ ba: “Bà sinh con gái. Nhưng đứa trẻ vẫn mang bộ mặt già trước tuổi. Lọt lòng được hai ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám” [6,54]. Những đứa trẻ mới chào đời lẽ ra phải được miêu tả đẹp như một thiên thần, bụ bẫm và đáng yêu. Nhưng dưới lăng kính nghịch dị, những đứa trẻ đã mang hình hài quái dị. Kì dị thay, những đứa trẻ đó là con của một bà giáo vừa xinh đẹp vừa hiền lành. Sử dụng cái quái gở, trộn lẫn trẻ thơ và già nua, hiện thực trần trụi và hoang đường kì ảo, tác giả đã khắc họa bi kịch của con người trước sự chảy trôi của thời gian. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ và đời người thì hữu hạn, mong manh, thoáng chốc. Qua đó, nói lên cái hiện sinh bi đát của con người. Đồng thời, cũng phản ánh sự tha hóa của con người. Gióng lên một hồi chuông cảnh báo, tương lai của chúng ta sẽ ra sao khi những đứa trẻ chưa kịp lớn đã già nua, chết yểu. Cùng trong cảm thức này, Tạ Duy Anh có tác phẩm Thiên thần sám hối. Đứa bé NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 23 trong Thiên thần sám hối đang còn nằm trong bụng mẹ đã nghe và cảm biết hết hiện thực giả dối, tàn nhẫn, nhan nhản cái xấu cái ác: “Có biết bao nhiêu chuyện không giống trò đùa một tí nào. Chẳng hạn việc ngâm cồn những đứa bé dị dạng, ngâm rượu những cái thai dưới ba tháng tuổi. Hay như việc mới xảy ra cách đây mấy hôm, người ta vừa cô vắc chiếc thai bảy tháng tuổi của một cô gái vừa đủ tuổi thành niên mà bố của nó là cậu ruột của cô gái. Người ta không cảm thấy có nghĩa vụ phải săn sóc nó. Nó là hiện thân của điều đáng tởm nhất mà con người phạm phải” [2,74]. Hiện thực này tương phản và đối lập mạnh mẽ với những gì mà thiên thần được giáo huấn về vẻ đẹp trần thế: “Khi còn là thiên thần ở trên trời, tôi và những linh hồn khác đều thuộc những bài hát ca ngợi tình yêu và sự màu nhiệm. Tình yêu tạo ra sự màu nhiệm và được tạo bởi điều màu nhiệm. Trong niềm ngây ngất, một màu nhiệm lớn lao nhất được tạo ra, ấy là sự có mặt của chúng tôi, như một sự gia ân của đấng tối linh không hiện hình nhưng hiện hữu ở khắp nơi” [2,75]. Còn gì nghịch dị và đau xót hơn. Thông qua hình tượng nghịch dị bào thai biết nói, những đứa bé dị dạng, tác giả tố cáo sự tha hóa của con người, cái vô nhân tính trong những hành động bản năng tội lỗi, tội loạn luân hay đơn thuần chỉ muốn thỏa mãn dục vọng thấp hèn của một bộ phận trẻ tuổi sống vô trách nhiệm với xã hội. Trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương, nhân vật Khẩn với dáng ngồi kì dị, đôi bàn tay kì dị: “Bằng sự nhẫn nại ghê gớm, hạ mình xuống, chân trái ngập lại ngả ngang bằng với mặt đất, chân phải ẩn co lên ép vào bụng, tay trái Khẩn bẻ vuông góc, bàn tay ngửa, các ngón mở ra như những cánh hoa đang tàn, bàn tay phải của Khẩn với các ngón gân guốc như bộ rễ già nua bọc kín lấy đầu gối chân phải” [7,9]. Dáng ngồi và đôi bàn tay kì dị là hình tượng đầy ám ảnh về sự hiện sinh của con người trước dòng chảy thời gian. Thời gian trôi qua để lại trong tâm hồn con người nặng trĩu những suy tư, chất chứa nghĩ suy, dáng ngồi vừa chịu đựng, vừa khắc khổ biểu tượng cho sự chịu đựng của con người trong cuộc đời. Hình tượng Khẩn được kiến tạo qua lằn ranh giữa sự thật và mộng ảo. Con người của đời thật cũng hỉ, nộ, ái, ố, cũng sân si và con người của mộng với giấc mơ lãng mạn, đẹp ngọt ngào không bao giờ dứt về Kim và những bông hoa tre, hoa nhài, cánh bướm, cầu vồng, viên bi ve: “Khẩn đang bước những bước dài nhẹ trên dải đồi màu xanh ngọc của vùng hồ núi Cốc thì Kim về. Chỉ chút nữa là Khẩn văng ra khỏi giấc mơ nếu không kịp bám vào một cành bạch đàn nhỏ trắng muốt xòe ngay bên cạnh. Khẩn thấy mình dang ở rất xa. Kim không nhìn Khẩn, chính xác hơn nữa không thấy, chỉ cảm giác về sự có mặt của Khẩn. Bản thân Khẩn cũng thế. Thời gian là cái gì đó lờ mờ, buồn bã, chẳng tàn lụi nhưng chẳng hứa hẹn sáng sủa hơn tre cũng có hoa cơ ạ. Có chứ khi nào tre có hoa thì năm ấy hạn to” [7,12], “Gần sáng Khẩn rơi vào trạng thái lơ mơ. Như mọi lần cành bạch đàn lại chìa ra tựa một bàn tay nhỏ non nớt để Khẩn nắm. Khi chạm vào cây Bạch đàn thì giấc ngủ biến mất chỉ còn một không gian dịu dàng để Kim than phiền về cuộc đời Kim quờ tay vào không khí ngắt lấy một vật nhỏ trắng chìa ra cho mình. Một bông hoa nhài còn long lanh sương. Bông hoa sống động tươi tắn tuồng như nó ở ngay trong không khí, nở một mình không có sự bợ đỡ của bất cứ cành nào. Kim khép các ngón lại, bông hoa lặn sâu vào lòng tay Kim. Khi bông hoa trong lòng tay đã biến mất hẳn thì hoa ở cổ, bả vai, ngực lại nở rộ biến thân thể Kim thành một cây hoa thông minh kiêu kì trong ánh nắng rực rỡ” [7,36]. Trong kí ức và giấc mơ của Khẩn, Kim là hiện thân của quá khứ, của khoảng thời gian đẹp đẽ nhất. Hành trình tìm về với Kim trong những dòng ý thức miên man là hành trình đến với Chân Thiện Mĩ. Kim là hiện thân của cái Đẹp, mà cái Đẹp thì mong manh, dễ tan biến. Như giấc mơ về Kim và cầu vồng. Có gì đẹp và HUỲNH THỊ THU HẬU 24 nhanh tan biến như cầu vồng. Kim nhìn cầu vồng vụt tắt đã khắc khoải hỏi Khẩn: “Có bao giờ cầu vồng mọc lần hai không anh. Có chứ, mình đáp vội vàng” [7,214]. Dù cái Đẹp mong manh nhưng luôn hiện hữu và vĩnh cửu. Niềm tin về cái Đẹp sẽ không biến mất cũng là niềm tin vào con người dù qua bao nhiêu đổi thay vẫn luôn hướng đến Chân, Thiện, Mĩ. Nhìn cầu vồng, Khẩn triết lí về sự huy hoàng và tàn lụi. Khẩn sống được cho đến hôm nay giữa bao nhiêu cuộc đổi thay, giữa bao nhiêu mất mát và bon chen là vì còn đó những giấc mơ về Kim và quá khứ tươi đẹp. Ám ảnh về thời gian là ám ảnh thường trực trong tâm hồn mỗi một người nghệ sĩ. Để vượt qua sự đào thải của thời gian, để lưu giữ tên tuổi, hay tìm kiếm ý nghĩa đích thực cho sự sống của mình, con người ta cần có tình yêu và sáng tạo nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã rất tinh tế khi cho nhân vật của mình sống trong trạng thái chênh vênh giữa giấc mơ và hiện thực, mộng và đời. Càng sống Khẩn càng chua chát nhận ra mình cũng giống như người tâm thần trong khu phố nơi anh làm việc: “Khẩn nghiến răng, đứng hay ngồi là quyền của tôi. Ông Thìn cũng đứng bật dậy sau đó ngồi xuống, giọng bình tĩnh, sắt đá, cậu về đi. Khẩn thẩn thờ ra hành lang vơ vẩn nhìn xuống đường. Gã tâm thần xuất hiện ở cổng cơ quan, chiếc bao tải rách khoác trên vai thay cho áo nhưng không che hết thân thể trần truồng nhem nhuốc của gã. Một thân thể gầy gò, những lóng xương sườn nổi hẳn lên, cái bụng lép kẹp và hạ bộ lủng lẳng thõng xuống giữa hai đùi. Tóc dựng ngược tốc tác, mắt rực cháy hàm răng trắng đến mức bàng hoàng và quai hàm bạnh ra tràn trề phong độ nam nhi. Những sợi lông mày cứng đơ đơ vì cáu bẩn tạo ra nét khỏe khoắn rắn chắc với đôi tai thô mộc hệt hai chiếc nấm màu nâu trổ ra từ khúc gỗ mục ải bên ngoài. Trong lồng ngực lép kẹp thấp thoáng sau mảnh bao tải cáu bẩn có một trái tim kiên nhẫn tải máu dù cho nhịp đập không đều đặn” [7,180]. Chân dung của gã tâm thần được khắc họa đầy vẻ nghịch dị. Tất cả bị xô lệch đi, bị chệch choạc đi. Vẻ bên ngoài của gã tâm thần như biểu tượng cho sự tàn tạ của con người trước sức ép của đời sống và chuyện mưu sinh. Con người đối mặt với quá nhiều áp lực và lo âu. Khẩn không chỉ nhìn thấy ở gã tâm thần vẻ bên ngoài nghịch dị mà còn nhìn thấy cả sự kì quái trong hành động của ông ta: “Cái dáng đứng bần thần là biểu hiện cố gắng cuối cùng duy trì tư thế của một con người. Khẩn thấy gã tâm thần có một vẻ bí ẩn ma quái không thể lí giải nổi, mỗi cử chỉ của gã vừa vô nghĩa vừa hàm chứa một cái gì đó vượt ra khỏi tất cả mọi suy nghĩ. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy gã tâm thần ngủ nhưng Khẩn hình dung giấc mơ của gã là một thế giới hỗn loạn u mê với những ảo ảnh rách rưới, tơ tướp. Những khoảng trống không chỉ thuần túy là những khoảng trống mà là những bãi bờ của sự hoang vắng thê lương. Gã tâm thần nhìn ra đường những chẳng nhằm vào ai, tuồng như gã nhìn vào một thế giới khác ẩn sau thế giới hiện diện này” [7,182]. Kết hợp những yếu tố tương phản lẫn nhau: vô nghĩa và hàm chứa, nhìn mà không nhằm vào ai, những giấc mơ với đường biên là bãi bờ hoang vắng, Nguyễn Bình Phương kiến tạo một thế giới khác với thế giới hiện thực, đó là thế giới của những điều đang hình thành, đang diễn ra, thế giới tâm linh, vô thức mà con người chạm đến một cách vừa thích thú vừa cảm thấy khó hiểu. Nhân vật người điên là nhân vật xuất hiện từ lâu trong lịch sử văn học. Chúng ta đã từng biết đến Hamlet giả điên của Shakespeare, hay nhân vật người điên trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, nhân vật Benjy trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner hoặc nhân vật trữ tình với trạng thái điên rực rỡ trong thơ Bùi Giáng. Có thể nói “người điên” cũng là người tỉnh táo nhất, sáng suốt nhất, hạnh phúc hơn người tỉnh. Họ điên vì nhận thức của họ đi trước thời đại, họ điên để nói lên những sự thật mà người tỉnh không dám nói đến như Hamlet giả điên để tìm lấy sự thật đằng sau cái chết của vua cha và sự tái NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 25 giá vội vàng của mẹ, anh giả điên để nói rằng Đan Mạch là ngục thất tối tăm. Còn người điên trong Nhật kí người điên thì khẳng định lịch sử của Trung Hoa từ xưa cho đến nay chỉ toàn là chữ ăn thịt người. Bendy trong Âm thanh và cuồng nộ là người hồn nhiên nhất, hạnh phúc nhất... Khẩn trong tác phẩm, rất thích và rất tò mò về người điên vì anh thấy họ như người giời. Đặc biệt là anh đã nhìn được vẻ đẹp của người điên trong cơn mưa: “Nước xối xuống gã tâm thần, làm sạch thân thể gã và lồ lộ hiện lên trong mắt những người trú mưa dưới các mái hiên một vẻ đẹp khêu gợi thuần nhục cảm. Thân thể gã tâm thần bỗng nhiên mềm mại, dẻo dai, hai chân gã choải ra bám vững chắc lấy mặt đất, hạ bộ dóng thẳng xuống giống như một vị thần cúi xuống trần gian ngắm những vụn nước trắng đang thi nhau vỡ tung tóe phía dưới. Ánh nắng vàng rực lóe lên thân thể gã tâm thần như gã là một pho tượng dát vàng” [7,182]. Nhìn gã tâm thần đẹp như pho tượng một vị thần được dát vàng là cái nhìn rất riêng của Khẩn hay cũng chính là cách nhìn của Nguyễn Bình Phương. Những người điên hạnh phúc vì họ không phải đóng vai, không phải đeo mặt nạ với mọi người. Khẩn mệt nhoài vì những cuộc họp của cơ quan, những va chạm trong đời sống công sở, những tranh cãi vì khác biệt về quan niệm và tư tưởng, lối sống, những kèn cựa về quyền lợi. Hơn ai hết, Khẩn cảm thấy sự ngột ngạt và giả dối vây quanh. Tác phẩm kết thúc với sự hoàn thiện về những bức chân dung nghịch dị của đám đông mà Khẩn nhìn thấy trên đường phố: “Những khuôn mặt lướt vun vút, chúng lóe sáng rồi chìm lỉm đi, lại lóe sáng lại chìm lỉm đi. Một khuôn mặt nhàu nhĩ đăm chiêu mắt mở nửa vời một khuôn mặt môi son dày bự mắt đánh thẫm với đôi khuyên tai vàng lúc lắc như quả khế chín một khuôn mặt trái xoan quác lên như gương phản chiếu ánh mặt trời khuôn mặt chỉ rõ một nửa với cái cằm lẹm bị chẻ đôi khuôn mặt lồ lộ những nét khỏe khoắn tóc gió hất ngược ra sau trán vuông lông mày rậm mắt lồi tròn mũi to nở bạnh sang hai bên nhưng không bẹp môi dầy bập hờ vào nhau ham dâm vô độ khuôn mặt nát nhừ vì các vết nhăn tím ngắt duy chỉ vầng trán là phẳng phiu lặng sóng trong màu vàng đất pha chút xanh xốp của gỉ đồng khuôn mặt nhăn nhúm khổ đau như một bông hoa màu gà với ánh mắt uất hận khôn tả khuôn mặt ngắn ngủn như mặt lợn thô tục với cặp môi thâm xịt đến mức buồn nôn [7,279]. Đây quả là bộ sưu tập các chân dung biếm họa phong phú và ám ảnh nhất. Tất cả các gương mặt đều mang nét quái dị, bị xô lệch đi, không còn vẻ cân xứng, đẹp đẽ. Những gương mặt của cõi thế gian mệt nhoài vì mưu sinh, vì dục vọng, vì quyền lợi. Người mang gương mặt của quỷ, có răng nanh, trắng lốp, với những gam màu lạnh, hoặc thậm chí là hỗn hợp tung tóe của các màu. Cái xô lệch vị trí của các bộ phận mắt, mũi, miệng kia, cái tung tóe của sắc màu các gương mặt kia hiển lộ sự tha hóa của con người, nỗi đau của con người. Mỗi gương mặt nghịch dị ấy như là một mặt nạ trong lễ hội hóa trang đường phố. Mỗi người sắm một vai trong lễ hội carnaval nhốn nháo, đa âm, đa sắc màu. Nhiều tiếng nói vang lên tạo thành sự phức điệu của đời sống. Một đời sống nhiều cám dỗ và thử thách khiến con người dễ rơi vào bi kịch. 3. Kết luận Tóm lại, hình tượng nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã khắc họa được sự tha hóa của con người đương thời, những bi kịch mang tính chất thời đại, sự đảo lộn của mọi giá trị truyền thống, con người chênh vênh trong trò chơi cùng cái hỗn loạn, con người cô đơn, mặc cảm, khao khát được giải phóng toàn triệt cảm xúc bản năng, nổi loạn chống lại mọi cái giả dối, thấp hèn, xấu xa, lí tính xơ cứng, nhàm chán. Phần lớn, hình tượng nghich dị tập trung vào tầng lớp trí thức có địa vị và danh vọng. HUỲNH THỊ THU HẬU 26 Những hình tượng lệch chuẩn trong hệ giá trị quy phạm. Hơn thế nữa, nghệ thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật góp phần thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người trong văn học. Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam cũng được soi chiếu ở phương diện con người vật chất xác thịt, con người vô thức, bản năng. Kiến tạo con người vật chất xác thịt không phải để hạ bệ hay giải thiêng hình tượng mà qua đó chạm đến những ngóc ngách vi diệu, mở rộng các phương diện để khám phá con người. Nếu trước đây, con người trong văn học được xây dựng chủ yếu là con người của ý thức trách nhiệm, con người sử thi được soi chiếu dưới góc độ anh hùng, lúc nào cũng là những tấm gương đạo đức rất chuẩn mực thì quan niệm về con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2012 được thể hiện con người không chỉ là một phần của cộng đồng, không chỉ là con người xã hội, con người ý thức mà còn là con người vô thức, con người tâm linh. Con người luôn tự giễu nhại chính mình, con người xấu xí, dị dạng, méo mó, kệch cỡm. Đó là cái nhìn đa chiều, mang tính phản biện thể hiện tư duy phản tỉnh. Từ đó, hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2012 không chỉ là hiện thực nhìn thấy được, hiện thực của cái đã xảy ra mà còn là hiện thực bên trong tâm hồn con người, hiện thực đang hình thành, đang tiếp diễn với tất cả sự hỗn độn và xô lệch. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tạ Duy Anh (2008), Trò đùa số phận, NXB Tổng hợp Đồng Nai. [2] Tạ Duy Anh (2005), Thiên thần sám hối, NXB Đà Nẵng. [3] M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [4] Nguyễn Đăng Điệp (2004), “Hồ Anh Thái-người mê chơi cấu trúc”, Trong phần Dư luận của Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng. [5] Vũ Nhật Lập (2011), Thế giới C, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. [6] Nguyễn Bình Phương (1994), Những đứa trẻ chết già, NXB Văn học, Hà Nội [7] Nguyễn Bình Phương (2013), Ngồi, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. [8] Hồ Anh Thái (2013), Mười lẻ một đêm, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Title: THE GROTESQUE CHARACTER IN CONTEMPORARY VIETNAMESE FICTION HUYNH THU HAU Quang Nam University Abstract: This article clearly asserted the art of building a grotesque character in contemporary Vietnamese fiction like the combination of contrastive factors, using of monstrous, magical factors associated with laughter and exaggerating some aspects of extraordinary personality. Moreover, the grotesque art of character building contributes to express the innovative spirit of realistic conception as well as human conception in literature.
File đính kèm:
- nhan_vat_nghich_di_trong_tieu_thuyet_duong_dai_viet_nam.pdf