Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam

Văn học đương đại Việt Nam là một bức tranh đa chiều, phức tạp và đầy màu sắc.

Đó là nền văn học đa thanh với rất nhiều cá tính sáng tạo khác nhau cùng những nỗ lực

khai tử thói quen cũ mòn và khuôn sáo, từ đó hình thành một Hồ Anh Thái mê chơi cấu

trúc, một Nguyễn Bình Phương nghiêng về phân tâm học, một Nguyễn Việt Hà tư duy tôn

giáo, một Thuận và Đoàn Minh Phượng liên văn bản, một Đặng Thân hậu hiện đại Có

thể nói, từ 1986 đến nay, nghịch dị (grotesque) được hồi sinh mạnh mẽ trong tiểu thuyết

Việt Nam qua các sáng tác của Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn

Việt Hà, Đặng Thân, Y Ban

Hiện nay, nghịch dị (Grotesque) trong văn học nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết

nói riêng đã và đang được giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và sáng tác quan tâm. Đó là

nhờ cái nhìn dân chủ được phát huy. Nghịch dị (Grotesque) đã góp phần tạo nên cái nhìn

tự do với tiếng cười châm biếm, giải phóng bản thể của con người trước mọi sự rập khuôn,

sáo rỗng. Thông qua grotesque, nhiều trật tự được định nghĩa, thế giới được nhìn khác đi.

Có rất nhiều cánh cửa để đi vào tiểu thuyết đương đại. Có người dùng ánh sáng của hậu hiện

đại, ánh sáng của diễn ngôn, huyền thoại, kì ảo, phân tâm học Sử dụng lí thuyết Grotesque

để soi chiếu tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nhiều tác giả đã sử dụng

nghịch dị để xây dựng nhân vật.

Có thể nói, hình tượng nhân vật nghịch dị của tiểu thuyết đương đại Việt Nam không

có độ hoành tráng và kì vĩ như Gargantua và Pantagruel của Rabelais. Hơn nữa, nghệ

thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam mang tính

chất hiện đại và hậu hiện đại. Nghịch dị gắn với những biểu hiện đời thường. Nó cũng bắt

đầu có dấu hiệu sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại

một hoặc một vài khía cạnh tính cách.

pdf 8 trang kimcuc 4300
Bạn đang xem tài liệu "Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam

Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam
19 
NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG 
TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 
Huỳnh Thị Thu Hậu1 
 Tóm tắt: Bài viết minh định được nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị trong tiểu 
thuyết đương đại Việt Nam như sự kết hợp của các yếu tố tương phản, sử dụng cả những 
yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại một hoặc một vài khía cạnh tính 
cách kì dị, khác thường. Hơn thế nữa, nghệ thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật góp 
phần thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người trong 
văn học. 
1. Mở đầu 
Văn học đương đại Việt Nam là một bức tranh đa chiều, phức tạp và đầy màu sắc. 
Đó là nền văn học đa thanh với rất nhiều cá tính sáng tạo khác nhau cùng những nỗ lực 
khai tử thói quen cũ mòn và khuôn sáo, từ đó hình thành một Hồ Anh Thái mê chơi cấu 
trúc, một Nguyễn Bình Phương nghiêng về phân tâm học, một Nguyễn Việt Hà tư duy tôn 
giáo, một Thuận và Đoàn Minh Phượng liên văn bản, một Đặng Thân hậu hiện đại Có 
thể nói, từ 1986 đến nay, nghịch dị (grotesque) được hồi sinh mạnh mẽ trong tiểu thuyết 
Việt Nam qua các sáng tác của Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn 
Việt Hà, Đặng Thân, Y Ban 
Hiện nay, nghịch dị (Grotesque) trong văn học nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết 
nói riêng đã và đang được giới nghiên cứu, lí luận, phê bình và sáng tác quan tâm. Đó là 
nhờ cái nhìn dân chủ được phát huy. Nghịch dị (Grotesque) đã góp phần tạo nên cái nhìn 
tự do với tiếng cười châm biếm, giải phóng bản thể của con người trước mọi sự rập khuôn, 
sáo rỗng. Thông qua grotesque, nhiều trật tự được định nghĩa, thế giới được nhìn khác đi. 
Có rất nhiều cánh cửa để đi vào tiểu thuyết đương đại. Có người dùng ánh sáng của hậu hiện 
đại, ánh sáng của diễn ngôn, huyền thoại, kì ảo, phân tâm họcSử dụng lí thuyết Grotesque 
để soi chiếu tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nhiều tác giả đã sử dụng 
nghịch dị để xây dựng nhân vật. 
Có thể nói, hình tượng nhân vật nghịch dị của tiểu thuyết đương đại Việt Nam không 
có độ hoành tráng và kì vĩ như Gargantua và Pantagruel của Rabelais. Hơn nữa, nghệ 
thuật nghịch dị trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam mang tính 
chất hiện đại và hậu hiện đại. Nghịch dị gắn với những biểu hiện đời thường. Nó cũng bắt 
đầu có dấu hiệu sử dụng cả những yếu tố kì ảo, quái dị, gắn với tiếng cười, và phóng đại 
một hoặc một vài khía cạnh tính cách. 
2. Nội dung 
Trước hết, khai thác sở thích kì quái, Hồ Anh Thái trong Mười lẻ một đêm, xây dựng 
hình tượng họa sĩ trồng chuối, người thích nuy, thích khỏa thân, thích trồng cây chuối, hài 
hước là người đứng trên hội họa nhưng không biết vẽ: “Tốt nghiệp đại học Mĩ thuật Yết 
Kiêu hẳn hoi. Nhưng chàng thực chất không phải là họa sĩ. Chàng học lí luận mĩ thuật. 
1 ThS, NCS Khoa Ngữ văn & CTXH, trường Đại học Quảng Nam 
HUỲNH THỊ THU HẬU 
 20 
Dần dần thành danh một nhà phê bình tranh”. Hơn nữa, nhân vật Họa Sĩ trồng chuối cũng 
là một người rất giỏi hành động tính giao, kiểu nhân vật vật chất xác thịt: “Chàng đứng 
trên tình trường nhưng chẳng tình nào đậu. Bốn mươi tám tuổi vẫn là chàng trai độc thân. 
Lâu lâu dắt về nhà một cô. Độc thân mà hơn cả có vợ, lúc nào cũng sẵn. Thế là bắt đầu 
quen với tính lăng nhăng, lít nhít của con trai [8,20], “gã là con người hồn nhiên cởi mở. 
Cởi mở. Đấy là loại phim con heo cởi hết ra mở hết ra. Mấy họa sĩ thành danh bạn gã 
chuyên thành công ở loại tranh khỏa thân, mấy chàng ấy chỉ thích cởi mở người mẫu chứ 
không thích cởi mở chính mình. Gã khác. Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám 
mùa cởi mở. Cái ảnh khoe chim đầu đời vận cả vào đời” [8,21], “Không cần chứng minh 
rằng ở khu phố nhà gã thì gã khét tiếng thế nào. Người ta đặt biệt danh cho gã hẳn hoi. 
Chim để ngoài quần” [8,23]. Nhân vật họa sĩ cây chuối với sở thích nuy gợi chúng ta nhớ 
đến nhân vật Em Chã trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Họa sĩ trồng chuối quả thật là con 
người của bản năng. Bản năng tính dục mạnh mẽ. Những hành động kì quái của gã khiến 
chính quyền vào cuộc, đối lại với chính quyền, gã trồng cây chuối trong bộ dạng khỏa 
thân. Hình tượng nghịch dị trên một lần nữa nói lên cái hỗn độn, cái chênh vênh của nghệ 
thuật. Người cầm cân cho hội họa, có thể làm cho ai đó nổi tiếng hoặc giết chết tên tuổi lại 
là một người sống bản năng, buông thả. 
Ngoài họa sĩ trồng chuối, tác phẩm còn có hình tượng người đàn ông vốn là giáo sư 
tiến sĩ viện trưởng, từng đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, khi đi là ông kĩ sư hóa chất Việt 
Nam, khi về là ông tiến sĩ triết học Đức - chồng thứ năm của người đàn bà thích đất và 
thích trai, mắc bệnh cười: “Chàng sáu mốt giả danh bỗng nhiên mắc chứng bệnh cười. Chỉ 
định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ 
hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười Nhưng sân khấu bi rồi mà chàng sáu mốt vẫn 
cười. Cười rũ rượi, cười hết hơi” [8,93]. Con người đến một lúc nào đó rơi vào bi kịch 
không thể làm chủ được hành vi của mình. Đó là thông điệp thật bi đát. 
Hơn thế nữa, bức biếm họa trong Mười lẻ một đêm còn thể hiện qua nhân vật ông 
Vip diễn thuyết mà nhắm mắt: “Năm năm đời sống vợ chồng đôi khi chị không nhớ rõ 
gương mặt ông. Nhưng rất nhớ cái nhắm mắt biểu diễn mỗi khi ông diễn thuyết hay chỉ thị 
cho cấp dưới. Nói nửa câu nhắm mắt. Nói tiếp ba câu nữa, nhắm mắt. Cái nhắm mắt của 
ông không diễn được vẻ quan chức. Nó chỉ phô ra vẻ đê mê đang chờ đến cực khoái. Diễn 
thuyết mà như đang làm tình” [8,269]. Hình tượng ông Vip làm bật lên tiếng cười hài 
hước, diễn thuyết và làm tình, làm tình mà như diễn thuyết. 
Cùng xây dựng nhân vật nghịch dị có nét kì quái, Vũ Nhật Lập trong tiểu thuyết Thế 
giới C đã khắc họa bi kịch của người có bàn tay màu cam. Bắt nguồn từ một cuộc trao đổi 
giữa nhân vật tôi và cô: “Tôi có thể giúp cho anh tìm được thứ mà anh đã đánh mất kể cả 
là một ai đó. Nhưng, nó không đơn giản như anh nghĩ. Không phải chắc chắn lúc nào cũng 
thành công. Cho dù là ngay cả khi anh đã tìm được thứ mình đánh mất, nó cũng không có 
gì đảm bảo là sau đó anh sẽ cảm thấy hạnh phúc” [5,155]. Khi có lại được đôi tay, nhân 
vật tôi cứ tưởng sẽ vô cùng hạnh phúc như anh ấy từng quan niệm, nhưng hóa ra lại là đau 
khổ, vì đôi tay giờ đã chuyển thành màu cam. Nhân vật tôi khổ sở để giấu nó đi: “Tôi nhìn 
vào đôi tay của mình. Mặc dù đã mang găng tay đen thật dày, nó vẫn còn le lói tia sáng 
màu cam. Màu Cam ấy sáng chói nhưng sắc độ của nó vẫn khiến người ta thấy buồn. Tôi 
lại cẩn thận giấu đôi tay của mình vào trong chiếc áo khoác” [5,161]. Nhưng nỗi buồn và 
NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 
 21 
sự bất hạnh không chỉ dừng lại ở việc phải giấu đôi bàn tay màu cam đi, mà còn là sự cô 
lập và xa lánh của đám đông đối với anh: “Tôi chấp nhận đánh đổi để tìm lại đôi tay này. 
Đôi tay mang thứ màu cam đầy u uất. Từ khi tay tôi màu cam, không còn ai dám chạm 
vào tôi nữa. Dù chỉ một cái bắt tay, họ cũng không có can đảm. Họ cho rằng trong người 
tôi mang một thứ chất độc nào đó và họ sợ lây nhiễm. Tôi nhận thấy con người thật mâu 
thuẫn. Cho dù trong nghệ thuật, họ nâng niu những dị biệt, những sáng tạo của cái tôi cá 
nhân như thế nào thì ở ngoài đời họ vẫn quen sống theo lối bầy đàn. Chỉ một sai khác nhỏ 
so với số đông sẽ bị cô lập ngay. Tôi chỉ khác mọi người có mỗi đôi tay. Tại sao chỉ vì 
mỗi đôi tay mà họ không giao tiếp với tôi? Tại sao chỉ vì đôi tay mang màu khác với họ 
mà cả con người tôi bị chối bỏ” [5,163]. Bi kịch của nhân vật tôi là bi kịch bị khước từ 
giao tiếp, khước từ quyền được làm người. Đám đông hiện lên trong tác phẩm thật đáng 
sợ. Tâm lí đám đông như chúng ta biết là quen sống theo bầy đàn. Họ chỉ muốn dốt bầy 
còn hơn giỏi một. Cái đám đông ấy giết chết mọi sự khác biệt, và hủy diệt mọi sự sáng 
tạo, mọi cá tính. Nhân vật tôi là một người trẻ, anh ý thức rất sâu sắc vẻ đẹp của sự khác 
biệt, muốn sống mà không bị hòa tan vào đám đông giống nhau từ suy nghĩ đến hành 
động. Những câu hỏi tại sao nối tiếp nhau cực tả được nỗi bất bình chua xót khi anh bị 
đám đông cô lập và khước từ. Từ đời sống đến nghệ thuật hay từ nghệ thuật đến đời sống 
là một con đường rất xa, anh chợt nhận ra sự đối lập và tương phản trong cách hành xử 
của đám đông đối với cái khác biệt. 
Bên cạnh đó, nhân vật mặt đen trong Đi tìm nhân vật cũng là một kiểu hình tượng 
nghệ thuật nghịch dị: “Cho đến nay, mặt đen vẫn là một ẩn số đối với tôi. Hắn có một khả 
năng rất kì lạ: Vạch ra những những thói xấu của người khác, nhất là những trò ma quỷ rất 
nhanh. Hắn hợp với tất cả những gì quái dị: Ai đó vui thì hắn buồn, hắn cười khi người 
khác khóc, thích bóng tối, nhất là bóng tối ở những khu đền miếu. Cũng người đó kể: tự 
tay hắn giết chết hàng trăm con chó đực” [1,178-179]. Hình tượng được tạo nên bởi sự kết 
hợp của những tương phản vui buồn, khóc cười, bởi sở thích kì quái. Con người lập dị 
chứa nhiều ẩn số. Mặt đen hiện thân cho phần tăm tối trong tâm hồn mỗi người. Con 
người thứ hai luôn nổi loạn ở mỗi người. Hay nói cách khác là con người của vô thức, bản 
năng. Nhân vật mặt đen được xây dựng như biểu tượng của phần vô thức. 
Ngoài ra, nhân vật hắn trong Đi tìm nhân vật nổi bật với chân dung như là sự kết hợp 
của những yếu tố không thể kết hợp được: “Hắn có bộ mặt điển trai, tóc sáng, mắt như hai 
bóng râm nhỏ và đặc biệt đáng chú ý là cái miệng. Nó hơi lệch sang một bên như là khi ra 
đời hắn bị một bên là quỷ sứ, một bên là các thiên thần giằng nhau chí chết nhằm kéo hắn 
về phe mình. Quỷ sứ vốn mạnh tay, dùng móc sắt mà y luôn thủ sẵn, móc vào mép hắn, 
trong khi các thiên thần gượng nhẹ hơn cứ túm lấy hai chân hắn mà lôi. Kết quả mồm hắn 
thì bị lệch còn chân thì quá dài. Hắn vĩnh viễn mang dấu ấn của cả hai thế lực. Hắn vừa 
thông minh, vừa đần độn, vừa thanh cao vừa ô trọc, vừa thiện vừa ác. Mắt hắn luôn luôn là 
sự lấn át lẫn nhau giữa ánh sáng tinh thần siêu thoát và bóng tối của dục vọng. Hắn hùng 
tâm tráng chí nhưng luôn sợ đối mặt với quyền lực. Nỗi sợ này khắc dấu lên tâm hồn hắn. 
Một tâm hồn nhạy cảm, thích nổi loạn nhưng sợ bị tan vỡ. Hắn vừa đam mê vừa lí trí” 
[1,269-270]. Bức chân dung nhân vật là sự trộn lẫn của thiên thần và ác quỷ, của thiện và 
ác, của lí trí và bản năng, của thể xác và tâm hồn. Con người vốn mang trong mình tất cả 
những phương diện trên. Qua đó, cho thấy sự đa diện trong tính cách của nhân vật. Con 
HUỲNH THỊ THU HẬU 
 22 
người đa diện rất khó nắm bắt, không hoàn toàn nhất phiến, không giản đơn, xơ cứng. 
Trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta đã từng biết đến nhân vật Faust của Goethe. 
Trong nhân vật Faust, có cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và ác quỷ, 
giữa phần con và phần người. Trong cảm thức viết về con người với cuộc đấu tranh giằng 
co giữa phần con và phần người, trong truyện ngắn I am đàn bà của Y Ban, nhân vật nữ 
chính đã rất khó khăn, đau khổ khi cố gắng kiểm soát những đòi hỏi bản năng, đòi hỏi của 
thân xác một người đàn bà thèm muốn ái ân. Nhưng cuối cùng, con người lí trí, con người 
của mệnh đề tôi phải, tôi nên đã bị con người của mệnh đề tôi muốn, tôi thích chế ngự và 
chiến thắng. Chị đã ái ân với người đàn ông- ông chủ nằm liệt giường. Cùng đề tài, Phạm 
Hoa trong Đùa của tạo hóa đã miêu tả nhân vật người mẹ - đang tuổi hồi xuân, căng tràn 
sức sống, chứng kiến chuyện gối chăn của người con trai tên Tuấn và cô con dâu là Loan 
chỉ qua một đêm sáng mai thức dậy tóc đã bạc trắng, thân thể trở nên già nua. Cuộc đấu 
tranh đó là cuộc đấu tranh vĩ đại nhất. Nhân vật hắn cũng phải đối mặt với cuộc đấu tranh 
mạnh mẽ giữa các mặt đối lập đang tồn tại trong con người mình. Sự phức tạp của hình 
tượng còn được thể hiện khi hắn vừa là người truy tìm vừa là người bị săn đuổi. Truy tìm 
sự thật nhưng khi gần chạm tay vào sự thật thì hắn lại bỏ cuộc. Và “nó còn kinh sợ hơn cả 
việc hắn trở thành con mồi của kẻ giết người” [1,271]. Hơn thế nữa, nhân vật hắn còn 
thích sưu tầm những cái chết: “Còn hắn, việc sưu tầm những cái chết để thỏa mãn một 
quan sát lạnh lùng, y như khi ta quan sát con ác thú cắn xé mồi ta sẽ thấy bộ dạng, vẻ mặt, 
móng vuốt nó ra sao. Về mặt nào đó ta tìm kiếm sự thỏa mãn một nhu cầu mang tính bản 
thể: chiêm ngưỡng phần vực tối trong tâm hồn ta” [1,271-272]. Nhân vật rơi vào bi kịch 
khi đánh mất chính mình: “Họ không biết hắn là ai. Bản thân hắn cũng không còn đủ tự tin 
để khẳng định hắn vẫn là hắn” [1,274]. Trong dòng chảy của thời gian, con người càng 
ngày càng vong thân, vong bản, bị rô bốt hóa. 
Không chỉ dừng lại ở việc khai thác những sở thích và tính cách kì quái, bức chân 
dung nghịch dị của nhân vật tiểu thuyết đương đại còn là những gương mặt kì dị. Nguyễn 
Bình Phương trong Những đứa trẻ chết già đã xây dựng nhiều gương mặt quái gở như 
nhan đề tác phẩm: “Vừa ra đời nó đã gây kinh ngạc khắp làng. Nó là trai. Người ta phát 
hiện ra rằng con bà giáo có râu. Không những thế ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng. 
Đứa trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét” [6,51]. 
Gương mặt của đứa trẻ mang vẻ già nua của tuổi tác. Rồi đứa bé chết, đứa con thứ hai lọt 
lòng chào đời cũng chẳng khác gì hơn: “Nó ở độ già của người ba nhăm, bốn mươi tuổi”. 
Nghịch dị càng được đẩy lên đến đỉnh điểm khi đứa trẻ này cũng qua đời, bà giáo tiếp tục 
sinh ra đứa bé thứ ba: “Bà sinh con gái. Nhưng đứa trẻ vẫn mang bộ mặt già trước tuổi. 
Lọt lòng được hai ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám” [6,54]. Những đứa trẻ mới 
chào đời lẽ ra phải được miêu tả đẹp như một thiên thần, bụ bẫm và đáng yêu. Nhưng dưới 
lăng kính nghịch dị, những đứa trẻ đã mang hình hài quái dị. Kì dị thay, những đứa trẻ đó 
là con của một bà giáo vừa xinh đẹp vừa hiền lành. Sử dụng cái quái gở, trộn lẫn trẻ thơ và 
già nua, hiện thực trần trụi và hoang đường kì ảo, tác giả đã khắc họa bi kịch của con 
người trước sự chảy trôi của thời gian. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ và đời người thì 
hữu hạn, mong manh, thoáng chốc. Qua đó, nói lên cái hiện sinh bi đát của con người. 
Đồng thời, cũng phản ánh sự tha hóa của con người. Gióng lên một hồi chuông cảnh báo, 
tương lai của chúng ta sẽ ra sao khi những đứa trẻ chưa kịp lớn đã già nua, chết yểu. 
Cùng trong cảm thức này, Tạ Duy Anh có tác phẩm Thiên thần sám hối. Đứa bé 
NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 
 23 
trong Thiên thần sám hối đang còn nằm trong bụng mẹ đã nghe và cảm biết hết hiện thực 
giả dối, tàn nhẫn, nhan nhản cái xấu cái ác: “Có biết bao nhiêu chuyện không giống trò 
đùa một tí nào. Chẳng hạn việc ngâm cồn những đứa bé dị dạng, ngâm rượu những cái 
thai dưới ba tháng tuổi. Hay như việc mới xảy ra cách đây mấy hôm, người ta vừa cô vắc 
chiếc thai bảy tháng tuổi của một cô gái vừa đủ tuổi thành niên mà bố của nó là cậu ruột 
của cô gái. Người ta không cảm thấy có nghĩa vụ phải săn sóc nó. Nó là hiện thân của điều 
đáng tởm nhất mà con người phạm phải” [2,74]. Hiện thực này tương phản và đối lập 
mạnh mẽ với những gì mà thiên thần được giáo huấn về vẻ đẹp trần thế: “Khi còn là thiên 
thần ở trên trời, tôi và những linh hồn khác đều thuộc những bài hát ca ngợi tình yêu và sự 
màu nhiệm. Tình yêu tạo ra sự màu nhiệm và được tạo bởi điều màu nhiệm. Trong niềm 
ngây ngất, một màu nhiệm lớn lao nhất được tạo ra, ấy là sự có mặt của chúng tôi, như 
một sự gia ân của đấng tối linh không hiện hình nhưng hiện hữu ở khắp nơi” [2,75]. Còn 
gì nghịch dị và đau xót hơn. Thông qua hình tượng nghịch dị bào thai biết nói, những đứa 
bé dị dạng, tác giả tố cáo sự tha hóa của con người, cái vô nhân tính trong những hành 
động bản năng tội lỗi, tội loạn luân hay đơn thuần chỉ muốn thỏa mãn dục vọng thấp hèn 
của một bộ phận trẻ tuổi sống vô trách nhiệm với xã hội. 
Trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương, nhân vật Khẩn với dáng ngồi kì 
dị, đôi bàn tay kì dị: “Bằng sự nhẫn nại ghê gớm, hạ mình xuống, chân trái ngập lại 
ngả ngang bằng với mặt đất, chân phải ẩn co lên ép vào bụng, tay trái Khẩn bẻ vuông 
góc, bàn tay ngửa, các ngón mở ra như những cánh hoa đang tàn, bàn tay phải của Khẩn 
với các ngón gân guốc như bộ rễ già nua bọc kín lấy đầu gối chân phải” [7,9]. Dáng ngồi 
và đôi bàn tay kì dị là hình tượng đầy ám ảnh về sự hiện sinh của con người trước dòng 
chảy thời gian. Thời gian trôi qua để lại trong tâm hồn con người nặng trĩu những suy tư, 
chất chứa nghĩ suy, dáng ngồi vừa chịu đựng, vừa khắc khổ biểu tượng cho sự chịu đựng 
của con người trong cuộc đời. Hình tượng Khẩn được kiến tạo qua lằn ranh giữa sự thật và 
mộng ảo. Con người của đời thật cũng hỉ, nộ, ái, ố, cũng sân si và con người của mộng với 
giấc mơ lãng mạn, đẹp ngọt ngào không bao giờ dứt về Kim và những bông hoa tre, hoa 
nhài, cánh bướm, cầu vồng, viên bi ve: “Khẩn đang bước những bước dài nhẹ trên dải đồi 
màu xanh ngọc của vùng hồ núi Cốc thì Kim về. Chỉ chút nữa là Khẩn văng ra khỏi giấc 
mơ nếu không kịp bám vào một cành bạch đàn nhỏ trắng muốt xòe ngay bên cạnh. Khẩn 
thấy mình dang ở rất xa. Kim không nhìn Khẩn, chính xác hơn nữa không thấy, chỉ cảm 
giác về sự có mặt của Khẩn. Bản thân Khẩn cũng thế. Thời gian là cái gì đó lờ mờ, buồn 
bã, chẳng tàn lụi nhưng chẳng hứa hẹn sáng sủa hơn tre cũng có hoa cơ ạ. Có chứ khi 
nào tre có hoa thì năm ấy hạn to” [7,12], “Gần sáng Khẩn rơi vào trạng thái lơ mơ. Như 
mọi lần cành bạch đàn lại chìa ra tựa một bàn tay nhỏ non nớt để Khẩn nắm. Khi chạm 
vào cây Bạch đàn thì giấc ngủ biến mất chỉ còn một không gian dịu dàng để Kim than 
phiền về cuộc đời Kim quờ tay vào không khí ngắt lấy một vật nhỏ trắng chìa ra cho 
mình. Một bông hoa nhài còn long lanh sương. Bông hoa sống động tươi tắn tuồng như nó 
ở ngay trong không khí, nở một mình không có sự bợ đỡ của bất cứ cành nào. Kim khép 
các ngón lại, bông hoa lặn sâu vào lòng tay Kim. Khi bông hoa trong lòng tay đã biến mất 
hẳn thì hoa ở cổ, bả vai, ngực lại nở rộ biến thân thể Kim thành một cây hoa thông minh 
kiêu kì trong ánh nắng rực rỡ” [7,36]. Trong kí ức và giấc mơ của Khẩn, Kim là hiện thân 
của quá khứ, của khoảng thời gian đẹp đẽ nhất. Hành trình tìm về với Kim trong những 
dòng ý thức miên man là hành trình đến với Chân Thiện Mĩ. Kim là hiện thân của cái Đẹp, 
mà cái Đẹp thì mong manh, dễ tan biến. Như giấc mơ về Kim và cầu vồng. Có gì đẹp và 
HUỲNH THỊ THU HẬU 
 24 
nhanh tan biến như cầu vồng. Kim nhìn cầu vồng vụt tắt đã khắc khoải hỏi Khẩn: “Có bao 
giờ cầu vồng mọc lần hai không anh. Có chứ, mình đáp vội vàng” [7,214]. Dù cái Đẹp 
mong manh nhưng luôn hiện hữu và vĩnh cửu. Niềm tin về cái Đẹp sẽ không biến mất 
cũng là niềm tin vào con người dù qua bao nhiêu đổi thay vẫn luôn hướng đến Chân, 
Thiện, Mĩ. Nhìn cầu vồng, Khẩn triết lí về sự huy hoàng và tàn lụi. Khẩn sống được cho 
đến hôm nay giữa bao nhiêu cuộc đổi thay, giữa bao nhiêu mất mát và bon chen là vì còn 
đó những giấc mơ về Kim và quá khứ tươi đẹp. Ám ảnh về thời gian là ám ảnh thường 
trực trong tâm hồn mỗi một người nghệ sĩ. Để vượt qua sự đào thải của thời gian, để lưu 
giữ tên tuổi, hay tìm kiếm ý nghĩa đích thực cho sự sống của mình, con người ta cần có 
tình yêu và sáng tạo nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã rất tinh tế khi cho nhân vật của 
mình sống trong trạng thái chênh vênh giữa giấc mơ và hiện thực, mộng và đời. Càng 
sống Khẩn càng chua chát nhận ra mình cũng giống như người tâm thần trong khu phố nơi 
anh làm việc: “Khẩn nghiến răng, đứng hay ngồi là quyền của tôi. Ông Thìn cũng đứng 
bật dậy sau đó ngồi xuống, giọng bình tĩnh, sắt đá, cậu về đi. Khẩn thẩn thờ ra hành lang 
vơ vẩn nhìn xuống đường. Gã tâm thần xuất hiện ở cổng cơ quan, chiếc bao tải rách khoác 
trên vai thay cho áo nhưng không che hết thân thể trần truồng nhem nhuốc của gã. Một 
thân thể gầy gò, những lóng xương sườn nổi hẳn lên, cái bụng lép kẹp và hạ bộ lủng lẳng 
thõng xuống giữa hai đùi. Tóc dựng ngược tốc tác, mắt rực cháy hàm răng trắng đến mức 
bàng hoàng và quai hàm bạnh ra tràn trề phong độ nam nhi. Những sợi lông mày cứng đơ 
đơ vì cáu bẩn tạo ra nét khỏe khoắn rắn chắc với đôi tai thô mộc hệt hai chiếc nấm màu 
nâu trổ ra từ khúc gỗ mục ải bên ngoài. Trong lồng ngực lép kẹp thấp thoáng sau mảnh 
bao tải cáu bẩn có một trái tim kiên nhẫn tải máu dù cho nhịp đập không đều đặn” [7,180]. 
Chân dung của gã tâm thần được khắc họa đầy vẻ nghịch dị. Tất cả bị xô lệch đi, bị chệch 
choạc đi. Vẻ bên ngoài của gã tâm thần như biểu tượng cho sự tàn tạ của con người trước 
sức ép của đời sống và chuyện mưu sinh. Con người đối mặt với quá nhiều áp lực và lo âu. 
Khẩn không chỉ nhìn thấy ở gã tâm thần vẻ bên ngoài nghịch dị mà còn nhìn thấy cả sự kì 
quái trong hành động của ông ta: “Cái dáng đứng bần thần là biểu hiện cố gắng cuối cùng 
duy trì tư thế của một con người. Khẩn thấy gã tâm thần có một vẻ bí ẩn ma quái không 
thể lí giải nổi, mỗi cử chỉ của gã vừa vô nghĩa vừa hàm chứa một cái gì đó vượt ra khỏi tất 
cả mọi suy nghĩ. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy gã tâm thần ngủ nhưng Khẩn hình dung 
giấc mơ của gã là một thế giới hỗn loạn u mê với những ảo ảnh rách rưới, tơ tướp. Những 
khoảng trống không chỉ thuần túy là những khoảng trống mà là những bãi bờ của sự hoang 
vắng thê lương. Gã tâm thần nhìn ra đường những chẳng nhằm vào ai, tuồng như gã nhìn 
vào một thế giới khác ẩn sau thế giới hiện diện này” [7,182]. Kết hợp những yếu tố tương 
phản lẫn nhau: vô nghĩa và hàm chứa, nhìn mà không nhằm vào ai, những giấc mơ với 
đường biên là bãi bờ hoang vắng, Nguyễn Bình Phương kiến tạo một thế giới khác với thế 
giới hiện thực, đó là thế giới của những điều đang hình thành, đang diễn ra, thế giới tâm 
linh, vô thức mà con người chạm đến một cách vừa thích thú vừa cảm thấy khó hiểu. 
Nhân vật người điên là nhân vật xuất hiện từ lâu trong lịch sử văn học. Chúng ta đã 
từng biết đến Hamlet giả điên của Shakespeare, hay nhân vật người điên trong Nhật kí 
người điên của Lỗ Tấn, nhân vật Benjy trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner 
hoặc nhân vật trữ tình với trạng thái điên rực rỡ trong thơ Bùi Giáng. Có thể nói “người 
điên” cũng là người tỉnh táo nhất, sáng suốt nhất, hạnh phúc hơn người tỉnh. Họ điên vì 
nhận thức của họ đi trước thời đại, họ điên để nói lên những sự thật mà người tỉnh không 
dám nói đến như Hamlet giả điên để tìm lấy sự thật đằng sau cái chết của vua cha và sự tái 
NHÂN VẬT NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM 
 25 
giá vội vàng của mẹ, anh giả điên để nói rằng Đan Mạch là ngục thất tối tăm. Còn người 
điên trong Nhật kí người điên thì khẳng định lịch sử của Trung Hoa từ xưa cho đến nay 
chỉ toàn là chữ ăn thịt người. Bendy trong Âm thanh và cuồng nộ là người hồn nhiên nhất, 
hạnh phúc nhất... Khẩn trong tác phẩm, rất thích và rất tò mò về người điên vì anh thấy họ 
như người giời. Đặc biệt là anh đã nhìn được vẻ đẹp của người điên trong cơn mưa: 
“Nước xối xuống gã tâm thần, làm sạch thân thể gã và lồ lộ hiện lên trong mắt những 
người trú mưa dưới các mái hiên một vẻ đẹp khêu gợi thuần nhục cảm. Thân thể gã tâm 
thần bỗng nhiên mềm mại, dẻo dai, hai chân gã choải ra bám vững chắc lấy mặt đất, hạ bộ 
dóng thẳng xuống giống như một vị thần cúi xuống trần gian ngắm những vụn nước trắng 
đang thi nhau vỡ tung tóe phía dưới. Ánh nắng vàng rực lóe lên thân thể gã tâm thần như 
gã là một pho tượng dát vàng” [7,182]. Nhìn gã tâm thần đẹp như pho tượng một vị thần 
được dát vàng là cái nhìn rất riêng của Khẩn hay cũng chính là cách nhìn của Nguyễn 
Bình Phương. Những người điên hạnh phúc vì họ không phải đóng vai, không phải đeo 
mặt nạ với mọi người. Khẩn mệt nhoài vì những cuộc họp của cơ quan, những va chạm 
trong đời sống công sở, những tranh cãi vì khác biệt về quan niệm và tư tưởng, lối sống, 
những kèn cựa về quyền lợi. Hơn ai hết, Khẩn cảm thấy sự ngột ngạt và giả dối vây 
quanh. Tác phẩm kết thúc với sự hoàn thiện về những bức chân dung nghịch dị của đám 
đông mà Khẩn nhìn thấy trên đường phố: “Những khuôn mặt lướt vun vút, chúng lóe sáng 
rồi chìm lỉm đi, lại lóe sáng lại chìm lỉm đi. Một khuôn mặt nhàu nhĩ đăm chiêu mắt mở 
nửa vời một khuôn mặt môi son dày bự mắt đánh thẫm với đôi khuyên tai vàng lúc lắc như 
quả khế chín một khuôn mặt trái xoan quác lên như gương phản chiếu ánh mặt trời khuôn 
mặt chỉ rõ một nửa với cái cằm lẹm bị chẻ đôi khuôn mặt lồ lộ những nét khỏe khoắn tóc 
gió hất ngược ra sau trán vuông lông mày rậm mắt lồi tròn mũi to nở bạnh sang hai bên 
nhưng không bẹp môi dầy bập hờ vào nhau ham dâm vô độ khuôn mặt nát nhừ vì các vết 
nhăn tím ngắt duy chỉ vầng trán là phẳng phiu lặng sóng trong màu vàng đất pha chút 
xanh xốp của gỉ đồng khuôn mặt nhăn nhúm khổ đau như một bông hoa màu gà với ánh 
mắt uất hận khôn tả khuôn mặt ngắn ngủn như mặt lợn thô tục với cặp môi thâm xịt đến 
mức buồn nôn [7,279]. Đây quả là bộ sưu tập các chân dung biếm họa phong phú và ám 
ảnh nhất. Tất cả các gương mặt đều mang nét quái dị, bị xô lệch đi, không còn vẻ cân 
xứng, đẹp đẽ. Những gương mặt của cõi thế gian mệt nhoài vì mưu sinh, vì dục vọng, vì 
quyền lợi. Người mang gương mặt của quỷ, có răng nanh, trắng lốp, với những gam màu 
lạnh, hoặc thậm chí là hỗn hợp tung tóe của các màu. Cái xô lệch vị trí của các bộ phận 
mắt, mũi, miệng kia, cái tung tóe của sắc màu các gương mặt kia hiển lộ sự tha hóa của 
con người, nỗi đau của con người. Mỗi gương mặt nghịch dị ấy như là một mặt nạ trong lễ 
hội hóa trang đường phố. Mỗi người sắm một vai trong lễ hội carnaval nhốn nháo, đa âm, 
đa sắc màu. Nhiều tiếng nói vang lên tạo thành sự phức điệu của đời sống. Một đời sống 
nhiều cám dỗ và thử thách khiến con người dễ rơi vào bi kịch. 
3. Kết luận 
Tóm lại, hình tượng nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã 
khắc họa được sự tha hóa của con người đương thời, những bi kịch mang tính chất thời 
đại, sự đảo lộn của mọi giá trị truyền thống, con người chênh vênh trong trò chơi cùng cái 
hỗn loạn, con người cô đơn, mặc cảm, khao khát được giải phóng toàn triệt cảm xúc bản 
năng, nổi loạn chống lại mọi cái giả dối, thấp hèn, xấu xa, lí tính xơ cứng, nhàm chán. 
Phần lớn, hình tượng nghich dị tập trung vào tầng lớp trí thức có địa vị và danh vọng. 
HUỲNH THỊ THU HẬU 
 26 
Những hình tượng lệch chuẩn trong hệ giá trị quy phạm. Hơn thế nữa, nghệ thuật nghịch 
dị trong xây dựng nhân vật góp phần thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về hiện thực, 
quan niệm về con người trong văn học. Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết đương đại 
Việt Nam cũng được soi chiếu ở phương diện con người vật chất xác thịt, con người vô 
thức, bản năng. Kiến tạo con người vật chất xác thịt không phải để hạ bệ hay giải thiêng 
hình tượng mà qua đó chạm đến những ngóc ngách vi diệu, mở rộng các phương diện để 
khám phá con người. Nếu trước đây, con người trong văn học được xây dựng chủ yếu là 
con người của ý thức trách nhiệm, con người sử thi được soi chiếu dưới góc độ anh hùng, 
lúc nào cũng là những tấm gương đạo đức rất chuẩn mực thì quan niệm về con người 
trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2012 được thể hiện con người không chỉ là một 
phần của cộng đồng, không chỉ là con người xã hội, con người ý thức mà còn là con người 
vô thức, con người tâm linh. Con người luôn tự giễu nhại chính mình, con người xấu xí, dị 
dạng, méo mó, kệch cỡm. Đó là cái nhìn đa chiều, mang tính phản biện thể hiện tư duy 
phản tỉnh. Từ đó, hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2012 không chỉ là hiện 
thực nhìn thấy được, hiện thực của cái đã xảy ra mà còn là hiện thực bên trong tâm hồn 
con người, hiện thực đang hình thành, đang tiếp diễn với tất cả sự hỗn độn và xô lệch. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 [1] Tạ Duy Anh (2008), Trò đùa số phận, NXB Tổng hợp Đồng Nai. 
 [2] Tạ Duy Anh (2005), Thiên thần sám hối, NXB Đà Nẵng. 
 [3] M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục 
hưng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
 [4] Nguyễn Đăng Điệp (2004), “Hồ Anh Thái-người mê chơi cấu trúc”, Trong phần Dư 
luận của Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng. 
 [5] Vũ Nhật Lập (2011), Thế giới C, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
 [6] Nguyễn Bình Phương (1994), Những đứa trẻ chết già, NXB Văn học, Hà Nội 
 [7] Nguyễn Bình Phương (2013), Ngồi, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
 [8] Hồ Anh Thái (2013), Mười lẻ một đêm, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Title: THE GROTESQUE CHARACTER IN CONTEMPORARY VIETNAMESE 
FICTION 
HUYNH THU HAU 
Quang Nam University 
 Abstract: This article clearly asserted the art of building a grotesque character 
in contemporary Vietnamese fiction like the combination of contrastive factors, using of 
monstrous, magical factors associated with laughter and exaggerating some aspects of 
extraordinary personality. Moreover, the grotesque art of character building contributes 
to express the innovative spirit of realistic conception as well as human conception in 
literature. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_vat_nghich_di_trong_tieu_thuyet_duong_dai_viet_nam.pdf