Nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc”

Trước yêu cầu của xu thế toàn cầu hóa, cần thiết phải không ngừng nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo của đất nước. Với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam

của Đảng ta hiện nay, một lần nữa đòi hỏi cần nhận thức và quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng “học để

làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Học để làm việc” đặt ra vấn đề cần phải thay đổi cả về lượng

và chất đối với người dạy và người học. Trong đó, người học luôn là yếu tố trung tâm, trực tiếp.

Vấn đề xác định đúng đắn mục đích, động cơ, mục tiêu, phương pháp học tập là những yếu tố cơ

bản, có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập của người học hiện nay.

pdf 5 trang kimcuc 14840
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc”

Nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc”
67
Nhận thức và vận dụng . . .
NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “HỌC ĐỂ LÀM VIỆC”
Nguyễn Hồng Nhật∗
TÓM TẮT
Trước yêu cầu của xu thế toàn cầu hóa, cần thiết phải không ngừng nâng cao chất lượng 
giáo dục, đào tạo của đất nước. Với chủ trương đổi mới cĕn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam 
của Đảng ta hiện nay, một lần nữa đòi hỏi cần nhận thức và quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng “học để 
làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Học để làm việc” đặt ra vấn đề cần phải thay đổi cả về lượng 
và chất đối với người dạy và người học. Trong đó, người học luôn là yếu tố trung tâm, trực tiếp. 
Vấn đề xác định đúng đắn mục đích, động cơ, mục tiêu, phương pháp học tập là những yếu tố cơ 
bản, có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập của người học hiện nay.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, học để làm việc.
AWARENESS AND APPLICATION OF HO CHI MINH’S IDEOLOGY ABOUT 
ISSUE “STUDY TO WORK”
ASBTRACT
To meet the demand of globalization trend, it is necessary to enhance the country’s education 
and training quality. With the policy to renew basically and completely Vietnam’s education system 
of our Party nowadays, once again it needs to be aware and to apply Ho Chi Minh’s ideology about 
issue “Study to work”. “Study to work” raises a question is that it needs to change both the quality 
and quantity of teachers and learners, in which learners are the central ones. Identifying goals, 
motivations, studying methods is a crucial factor to improve the quality and the studying eficiency 
of learners nowadays.
Keywords: Ho Chi Minh ideology, study to work
Chính trị - Xã hội
*Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
68
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão 
của khoa học, công nghệ; sự bùng nổ thông 
tin và toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày 
càng sâu rộng, tri thức nhân loại không ngừng 
phát triển và nâng cao, muốn tồn tại và phát 
triển thì điều đòi hỏi cốt yếu của mỗi người 
đó là không ngừng học tập. Không học tập, 
không chủ động thu nhận tri thức, tiếp thu cái 
mới thì con người sẽ sớm muộn bị lạc hậu, bị 
xã hội vượt qua. Tuy nhiên, thực tế hiện nay 
cho thấy: việc học của mỗi người chưa thực sự 
được định hình rõ ràng, có một số xu hướng 
học tập không đúng mục đích, học chỉ để mà 
học, hay học để hiểu rằng mình cũng là người 
có học. Với chủ trương đổi mới cĕn bản, toàn 
diện nền giáo dục Việt Nam của Đảng Cộng 
sản Việt Nam hiện nay, một lần nữa đòi hỏi 
chúng ta cần nhận thức và quán triệt sâu sắc 
hơn nữa tư tưởng “học để làm việc” của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh.
 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
“HỌC VÀ HÀNH”
Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng 
dân tộc, nhà vĕn hóa lớn, đồng thời là một 
nhà giáo dục vĩ đại, Người đã đặt nền móng 
đầu tiên xây dựng nền giáo dục cách mạng 
Việt Nam, nền giáo dục của một nước Việt 
Nam mới, khác hẳn về chất đối với nền giáo 
dục ngu dân của thực dân, phong kiến. Ngay 
từ những ngày đầu cách mạng thành công, 
đất nước Việt Nam đứng trước muôn vàn khó 
khĕn, thách thức có thể ví như “ngàn cân treo 
sợi tóc”, thế nhưng với nhãn quan chính trị 
sắc bén, Người đã đề xướng một trong những 
nhiệm vụ trọng tâm, cần kíp phải làm ngay là 
nhiệm vụ chống giặc dốt, bởi theo Người: một 
dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Người yêu cầu 
phải sửa đổi triệt để nội dung, chương trình, 
sách giáo khoa cho phù hợp với sự nghiệp 
kháng chiến, kiến quốc và sau khi hoàn thành 
cuộc kháng chiến chống pháp, Người nhắc 
nhở: “phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo 
dục nô dịch của thực dân còn sót lại: học để 
lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ” [1]. Nền 
móng của nền giáo dục cách mạng mới từng 
bước được Hồ Chí Minh quan tâm lãnh đạo, 
chỉ đạo sát sao. Đối với phương châm giáo 
dục, Người đã đề ra ba phương châm cho nền 
giáo dục mới là: học đi đôi với hành, lý luận 
gắn liền với thực tế, giáo dục nhà trường kết 
hợp với giáo dục gia đình và xã hội, để đạt 
được mục tiêu trên, Người chủ trương xây 
dựng một nền giáo dục toàn diện: “trong việc 
giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các 
mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ 
nghĩa, vĕn hóa khoa học – kỹ thuật, lao động 
và sản xuất” [2].
Nĕm 1949, trên trang đầu cuốn sổ vàng 
của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung 
ương, Hồ Chí Minh đã viết: học để làm việc, 
học để làm người, học để làm cán bộ. Tư duy 
này của Người có nhiều điểm phù hợp với mục 
tiêu của giáo dục (của việc học) mà Unesco đề 
ra cuối thế kỷ XX đó là: học để biết (cốt lõi 
là hiểu), học để làm (trên cơ sở hiểu), học để 
chung sống (trên cơ sở hiểu nhau), học để làm 
người (trên cơ sở hiểu bản thân mình). 
Theo quan điểm Hồ Chí Minh học là để 
hành, “học mà không hành thì học vô ích, 
hành mà không học thì không trôi chảy” [3]. 
“Học để làm việc” được Người đặt ra đầu 
tiên, muốn hành tốt phải hiểu kỹ, từ đó mới 
có thể tiến lên sáng tạo cái mới. Học để làm 
việc khác về chất với học để lấy bằng cấp, 
để lòe bịp thiên hạ, học theo kiểu học vẹt để 
lấy điểm số, học để vỗ bụng cho ta là hơn 
ngườiNgười đặc biệt nhấn mạnh vấn đề 
học để làm việc. “Học để làm việc” nghĩa là 
học để ra làm việc, để tham gia vào công cuộc 
69
Nhận thức và vận dụng . . .
kiến thiết, xây dựng đất nước, phục vụ cho 
quốc kế dân sinh, học là để cống hiến nhiều 
hơn cho sự nghiệp đấu tranh, cho thắng lợi 
của cách mạng, cho hạnh phúc, tự do của 
nhân dân. Người cho rằng, ngày xưa, học cốt 
là kiếm tấm bằng để làm quan, ngày nay, học 
để làm việc, mà việc thì mỗi ngày mỗi nhiều, 
mỗi mới. Người nói: “so với trước, công 
việc bây giờ khó khĕn hơn, to lớn hơn, phức 
tạp hơn,Một cái máy tính một giây đồng hồ 
làm được hàng ngàn phép toán, không phải 
cộng, trừ, nhân, chia thông thường. Ta phải 
học toán. Toán rất cao.Liên Xô bắn tên lửa 
trúng đích xa một vạn hai ngàn cây số,phải 
có tính toán giỏi mới trúng đích. Hay như 
con tàu vũ trụ bay cao hơn 300 cây số, lại 
bay vòng quanh quả đấtBây giờ bảo chúng 
mình bay có bay được không” [4]. Người đề 
ra yêu cầu: “học hỏi là một việc phải tiếp tục 
suốt đời. Suốt đời phải gắn lý luận với công 
tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã 
biết đủ rồi, biết hết rồi” [5].
Có thể nói tư tưởng “học để làm việc” của 
Hồ Chí Minh có giá trị hiện thực hết sức to 
lớn, chỉ đạo nền giáo dục nước ta hướng vào 
đó mà thực hiện đúng tôn chỉ của một nền 
giáo dục tiên tiến, đào tạo những con người 
xã hội chủ nghĩa có đủ phẩm chất và nĕng lực, 
đủ cả “đức” và “tài”. Vận dụng linh hoạt, sáng 
tạo tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh nói chung 
và tư tưởng “học để làm việc” của Người nói 
riêng, Đảng đã lãnh đạo xây dựng nền giáo 
dục quốc dân khắc phục khó khĕn, vươn lên 
những tầm cao mới, đạt được những thành 
tựu và niềm tự hào to lớn trong mấy thập niên 
cách mạng và kháng chiến.
Tuy nhiên, bước vào công cuộc đổi mới 
hiện nay, nền giáo dục, đào tạo nước ta dù 
đã đạt nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng, 
song cũng còn nhiều hạn chế. Vĕn kiện Đại 
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã 
đưa ra một số nhận định: “chất lượng giáo 
dục, đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, 
nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao 
vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào 
tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết 
tốt mối quan hệ giữa tĕng số lượng, quy mô 
với nâng cao chất lượng,Chương trình, nội 
dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi 
mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa 
các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng 
giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng 
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa” [6]... Thực trạng trên, đòi hỏi 
cần phải có một cuộc cải cách toàn diện, sâu 
rộng, triệt để nền giáo dục quốc dân, trong 
đó cần định hướng việc dạy và việc học cho 
nhân dân.
3. NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TƯ 
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “HỌC ĐỂ 
LÀM VIỆC”
Hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấm thía 
tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc”. 
Học để có thể dùng những kiến thức Đã tích 
lũy được vào các hoạt động, vào sản xuất, 
vào cuộc sống hàng ngày. “Học để làm việc” 
đòi hỏi cần phải thay đổi cả về lượng và chất 
đối với cả người dạy và người học, trong đó, 
người học luôn là yếu tố trung tâm, trực tiếp. 
Theo chúng tôi, để thực hiện tốt tư tưởng 
“học để làm việc”, người học cần nhận thức 
đúng đắn và thực hiện tốt một số vấn nội dung 
cơ bản sau:
Một là, xác định đúng đắn mục đích, động 
cơ của việc học. Có xác định đúng mục đích, 
động cơ thì người học mới có hành động đúng. 
Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “bây giờ phải học 
để: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, 
yêu khoa học, yêu đạo đứcHọc để phụng 
sự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân 
70
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
dân, làm cho dân giàu, nước mạnh” [7]. Với 
mục đích rõ ràng, động cơ và hành động học 
tập đúng đắn, chắc chắn kết quả của người 
học sẽ có nhiều thay đổi, ngày càng tiến bộ. 
Muốn “học để làm việc”, thì người học cần 
phải không ngừng tư duy, tự giác suy nghĩ, 
chủ động trong tiếp nhận tri thức; phải thấy 
được việc học là nhu cầu cần thiết, không 
phải là áp lực, là gánh nặng; nội dung học tập, 
khối lượng kiến thức được cung cấp không 
còn khô cứng mà sinh động, hấp dẫn. Từ đó, 
người học chủ động chuyển hóa quá trình học 
tập thành tự học tập một cách có ý thức, tự 
giác, hứng thú, tích cực và hiệu quả sẽ cao.
Hai là, phải luôn luôn đặt ra mục tiêu 
hoàn thành tốt nhất nội dung, chương trình 
học tập; phải đặt ra yêu cầu, tiêu chuẩn, định 
lượng, khối lượng, mức độ của việc tiếp thu 
kiến thức sau mỗi buổi học, bài học, nội dung 
học tập. Điều này phụ thuộc vào nội dung, 
chương trình học tập của nhà trường, tuy 
nhiên vai trò của chủ thể trong quá trình tiếp 
nhận tri thức là hết sức quan trọng. Người học 
phải cĕn cứ vào nội dung, chương trình học 
để chủ động tích lũy kiến thức, hoàn thành 
nội dung, chương trình, nâng cao kết quả học 
tập, thi, kiểm tra trong nhà trường, đồng thời 
tích lũy, bổ sung kiến thức cần thiết để có thể 
vận dụng vào thực tế công việc sau này. Kiến 
thức chung đặt ra theo mục tiêu, yêu cầu đào 
tạo và kiến thức mà người học tiếp thu được 
trong quá trình học tập không phải là như 
nhau. Tuy nhiên, giữa hai khối kiến thức này 
không hề có sự mâu thuẫn, bởi khối kiến thức 
theo chương trình cơ bản đã được xác định 
cĕn cứ với mục tiêu, yêu cầu đào tạo từng đối 
tượng, còn kiến thức thực tế người học tiếp 
thu được phụ thuộc nhiều vào nhân tố chủ 
quan của người học. Nếu người học có sự chủ 
động, sớm có tư duy tích cực trong tiếp nhận 
kiến thức học tập, sẽ làm cho việc học trở nên 
dễ dàng, thoải mái, không còn bị gò bó, hay 
áp lực bởi nội dung học tập. Xuất phát từ quan 
điểm “học để làm việc”, Hồ Chí Minh đòi hỏi 
nội dung học phải thiết thực, gắn với yêu cầu 
của công việc bản thân, với yêu cầu của đất 
nước, không được viển vông, chạy theo sở 
thích nhất thời của cá nhân.
Ba là, xác định phương pháp học tối ưu 
nhất và kết hợp tốt các phương pháp học để 
nâng cao chất lượng học tập. Học để làm 
việc đòi hỏi người học không được phép thụ 
động, ỷ lại, trông chờ mà tự giác, tích cực 
tìm tòi, khám phá tri thức. Hồ Chí Minh cĕn 
dặn người học: “Không được tin một cách mù 
quáng từng câu một trong sách”, “phải đặt 
câu hỏi “vì sao”, phải suy nghĩ kỹ càng xem 
nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý 
không” [8]. Tiếp thu tri thức mới là điều kiện 
tiên quyết để người học mở mang hiểu biết, 
phải biết tiếp thu có sự chọn lọc, có lựa chọn, 
qua nhiều nguồn, có sự đối chiếu, so sánh 
trong hiện thực cuộc sống, trong thực tiễn 
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước hiện nay. Về phương pháp, 
Hồ Chí Minh rất chú trọng về cách học. Người 
chỉ rõ: “phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận 
và chỉ đạo giúp vào” [9], tức là thực hiện kết 
hợp ba khâu: tự học của cá nhân phải làm cốt, 
thảo luận của tập thể và hướng dẫn của giảng 
viên chỉ bổ sung thêm vào. Lúc bàn về công 
tác huấn luyện của Đảng, Người chỉ thị: phải 
nâng cao và hướng dẫn việc tự học, phải biết 
tự động học tập, không phải có thầy mới học, 
mà phải tự tìm sách đọc, lấy sách làm thầy. 
Phương pháp học tập là thuộc về từng chủ thể 
tiếp nhận tri thức, hình thành trong quá trình 
học, tuy nhiên với việc chủ động trong việc 
học thì việc hình thành phương pháp không 
còn là một hiện tượng tự phát, thiếu chủ động, 
71
Nhận thức và vận dụng . . .
mò mẫm nữa mà hoàn toàn sáng tỏ. Phương 
pháp này được hình thành thông qua kinh 
nghiệm bản thân, thông qua xem xét bạn học, 
thông qua trao đổi người dạy, thông qua cả 
với tài liệu, sách vở, và đặc biệt thông qua kho 
kinh nghiệm phương pháp học tập phong phú 
của nhân dân.
 4. KẾT LUẬN
“Học để làm việc” hiện nay là vấn đề cực 
kỳ quan trọng, là một trong những tiêu chí 
cần đạt được của một nền giáo dục hiện đại, 
đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng và đề ra 
các giải pháp thực hiện chiến lược giáo dục 
- đào tạo trong tình hình mới ở nước ta hiện 
nay, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc 
tế. Giáo sư Song Thành trong tác phẩm “Hồ 
Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc”, Nxb lý luận 
chính trị, Hà Nội, 2005 đã đặt ra những câu 
hỏi: vấn đề đặt ra với ta là công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa theo con đường nào? Tiếp tục 
sản xuất ra sản phẩm chất lượng không cao, 
không bán được, để hàng hóa tồn kho, hay 
phải đi tìm một con đường khác để tạo ra giá 
trị gia tĕng? Tích tụ vật chất hay tích tụ tri 
thức và nĕng lực đổi mới, sáng tạo do toàn 
cầu hóa mang lại?. Cách mạng không có con 
đường vạch sẵn, phải luôn luôn tìm tòi, điều 
chỉnh. Muốn có tầm nhìn xa, muốn xử lý đúng 
trong mọi tình thế, phải có thật nhiều tri thức. 
Điều này không phải là đòi hỏi gì khác hơn 
là nguồn nhân lực chúng ta cần phải không 
ngừng được bồi dưỡng, bổ sung tri thức, bắt 
kịp bước tiến của thời đại. Và do đó mà phải 
tự học, tự hoàn thiện suốt đời. Điều này là 
đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, bắt buộc người 
học phải từng bước hoàn thiện nhận thức và 
tư duy trong xác định đúng đắn mục tiêu, nội 
dung và cách học sao cho hiệu quả theo tư 
tưởng “học để làm việc” của Hồ Chí Minh./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO[1]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2002, tr.80[2]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2002, tr.190[3]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2002, tr.50[4]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2002, tr.463-464[5]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2002, tr.215[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vĕn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, 
tr.167-168[7]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.2002, tr.398-399
[8]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2002, tr.500[9]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2002, tr.273

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_va_van_dung_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_hoc_de_lam_vie.pdf