Nhận diện vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường Đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm nghiên cứu

Sự quan tâm, đầu tư xây dựng và phát triển các NNCM

ở khắp các trường đại học của Việt Nam trong thời gian

gần đây phản ánh nhận thức chung rằng, các NNCM trong

trường đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc

nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, phục vụ xã hội và

việc hình thành các nhóm nghiên cứu (NNC) ở các trường

đại học như một sự tự thân vận động, có tính tất yếu vì sự

phát triển của nhà trường [1]. Trong bối cảnh khoa học đang

phát triển theo xu hướng liên ngành, các chuyên ngành khoa

học liên kết, thâm nhập, hòa quyện vào nhau đòi hỏi các

nhà khoa học cần có cái nhìn, góc tiếp cận liên ngành trong

nghiên cứu và do đó nhu cầu về việc xây dựng mô hình tổ

chức mang tính hợp tác, liên thông giữa các nhà khoa học,

ở ngay chính chuyên ngành và ở nhiều chuyên ngành khác

nhau nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau là một vấn đề cấp thiết

và thực tiễn [2]. Xuất phát từ thực tế này, giải pháp mà các

trường đại học lựa chọn là xây dựng các NNC khoa học,

trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng các NNCM nhằm quy

tụ các nhà khoa có trình độ cao, lấy hợp tác là phương thức

hoạt động chủ yếu để nâng cao hiệu quả cả trong đào tạo

và nghiên cứu khoa học.

pdf 5 trang kimcuc 6440
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường Đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm nghiên cứu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận diện vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường Đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm nghiên cứu

Nhận diện vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường Đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ của nhóm nghiên cứu
1961(10) 10.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Dẫn nhập
Sự quan tâm, đầu tư xây dựng và phát triển các NNCM 
ở khắp các trường đại học của Việt Nam trong thời gian 
gần đây phản ánh nhận thức chung rằng, các NNCM trong 
trường đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc 
nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, phục vụ xã hội và 
việc hình thành các nhóm nghiên cứu (NNC) ở các trường 
đại học như một sự tự thân vận động, có tính tất yếu vì sự 
phát triển của nhà trường [1]. Trong bối cảnh khoa học đang 
phát triển theo xu hướng liên ngành, các chuyên ngành khoa 
học liên kết, thâm nhập, hòa quyện vào nhau đòi hỏi các 
nhà khoa học cần có cái nhìn, góc tiếp cận liên ngành trong 
nghiên cứu và do đó nhu cầu về việc xây dựng mô hình tổ 
chức mang tính hợp tác, liên thông giữa các nhà khoa học, 
ở ngay chính chuyên ngành và ở nhiều chuyên ngành khác 
nhau nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau là một vấn đề cấp thiết 
và thực tiễn [2]. Xuất phát từ thực tế này, giải pháp mà các 
trường đại học lựa chọn là xây dựng các NNC khoa học, 
trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng các NNCM nhằm quy 
tụ các nhà khoa có trình độ cao, lấy hợp tác là phương thức 
hoạt động chủ yếu để nâng cao hiệu quả cả trong đào tạo 
và nghiên cứu khoa học. NNC là yếu tố quyết định tới chất 
lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau 
đại học [3], đặc biệt NNCM như là các tế bào sống của hoạt 
động khoa học và thậm chí của cả hoạt động đào tạo trong 
các trường đại học. Nhà khoa học muốn phát triển được ý 
tưởng khoa học, xây dựng trường phái học thuật của mình 
hoặc giải quyết một vấn đề khoa học liên ngành phải thiết 
lập được nhóm cộng sự và học trò, tức là phải xây dựng 
được NNC. Chính NNC là môi trường khoa học thuận lợi 
nhất để các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp lực 
lượng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết các vấn đề mới của 
khoa học, thông qua các hoạt động của nhóm như hội thảo 
khoa học, hướng dẫn nghiên cứu sinh... NNC có thể thu 
hút các nhà khoa học có chuyên môn gần để phát triển môi 
trường học thuật chuyên sâu, hoặc thu hút các nhà khoa học 
của nhiều ngành khác nhau để tập trung trí tuệ và sức lực 
giải quyết một vấn đề có tính liên ngành, đồng thời tạo ra 
các sản phẩm nghiên cứu có thể chuyển giao và ứng dựng 
vào thực tiễn [1]. Điều đó phần nào lý giải vì sao NNCM 
được xem là một trong những trụ cột trong việc giúp các 
trường đại học xây dựng nền tảng khoa học, đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao và đóng góp vào sự phát triển kinh 
tế - xã hội của đất nước. 
Với mục tiêu nhận diện vai trò của NNCM trong các 
trường đại học dựa trên tiếp cận các mối quan hệ hợp tác 
của NNCM, bài viết hy vọng sẽ giúp các nhà khoa học, nhà 
quản lý hiểu rõ hơn về vai trò của NNCM trong việc nâng 
cao hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã 
hội. Theo đó, nội dung của bài viết sẽ bắt đầu bằng việc 
đưa ra định nghĩa về NNC và NNCM trên cơ sở tham khảo 
một số tài liệu đã được công bố và thực tiễn nghiên cứu 
của tác giả. Đồng thời, tập trung làm rõ vai trò của NNCM 
dựa trên 6 mối quan hệ chính sau: (1) Mối quan hệ giữa các 
thành viên của NNCM; (2) Mối quan hệ giữa NNCM với 
Nhận diện vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh 
trong các trường đại học dựa trên tiếp cận 
các mối quan hệ của nhóm nghiên cứu
Đào Minh Quân*, Nguyễn Đình Đức
Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài 4/4/2019; ngày gửi phản biện 8/4/2019; ngày nhận phản biện 6/5/2019; ngày chấp nhận đăng 16/5/2019
Tóm tắt:
Bài viết này tập trung xem xét vai trò của nhóm nghiên cứu mạnh (NNCM) dựa trên 6 mối quan hệ chính của nhóm, 
bao gồm: (1) Mối quan hệ giữa các thành viên của NNCM; (2) Mối quan hệ giữa NNCM với trường đại học chủ 
quản; (3) Mối quan hệ giữa NNCM với bộ môn/khoa/trung tâm/viện nghiên cứu; (4) Mối quan hệ giữa NNCM, 
trường đại học và giới doanh nghiệp; (5) Mối quan hệ giữa NNCM với các cơ quan, tổ chức nước ngoài; (6) Mối 
quan hệ giữa NNCM trong trường đại học với Nhà nước. 
Từ khóa: hợp tác nghiên cứu, mối quan hệ của nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu mạnh, vai trò của nhóm 
nghiên cứu mạnh.
Chỉ số phân loại: 5.3
*Tác giả liên hệ: Email: quandm@vnu.edu.vn
2061(10) 10.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
trường đại học chủ quản; (3) Mối quan hệ giữa NNCM với 
bộ môn/khoa/trung tâm/viện nghiên cứu; (4) Mối quan hệ 
giữa NNCM, trường đại học và giới doanh nghiệp; (5) Mối 
quan hệ giữa NNCM với các cơ quan, tổ chức nước ngoài; 
(6) Mối quan hệ giữa NNCM trong trường đại học với Nhà 
nước.
Khái niệm NNC và NNCM
NNC
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu liên quan, tác giả 
nhận thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về NNC. Giữa 
các nhà quản lý, các nhà khoa học vẫn chưa thể đi đến 
một quan điểm thống nhất. Các trường đại học, các đơn vị 
nghiên cứu thường căn cứ vào hoạt động đào tạo và nghiên 
cứu của mình mà đưa ra những định nghĩa riêng. Trên cơ sở 
kế thừa các nghiên cứu trước đó và qua thực tiễn tìm hiểu về 
các NNC, tác giả diễn đạt lại khái niệm NNC như sau: NNC 
là một tập hợp các thành viên có tổ chức hoặc có tính tổ 
chức trong các đơn vị có chức năng nghiên cứu. Các thành 
viên của nhóm được tập hợp để cùng thực hiện một đề tài 
hoặc theo đuổi một lĩnh vực nghiên cứu xác định. Các NNC 
thường gắn liền với một số hay nhiều thành viên cộng tác và 
có chung cơ chế chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm khi thực hiện 
các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu. Những người tham gia có 
thể gồm các nhà nghiên cứu trẻ, sinh viên, học viên, nghiên 
cứu sinh và các nhà khoa học thuộc các tổ chức nghiên cứu 
trong nước và nước ngoài cùng tham gia và tạo nên các kết 
quả của hoạt động nghiên cứu.
NNCM
Khác với NNC thông thường, NNCM đặt ra các yêu cầu 
cao hơn về quy mô và độ phức tạp của các vấn đề nghiên cứu 
nên yêu cầu đặt ra đối với NNCM cũng đòi hỏi cao hơn. Trên 
cơ sở kết hợp các ý kiến của các nhà khoa học và từ kinh 
nghiệm nghiên cứu của mình, tác giả định nghĩa NNCM như 
sau: NNCM là một tổ chức trung gian trong hệ thống tổ chức 
bộ môn, khoa, trung tâm, viện, trường. Nhóm được dắt dẫn 
bởi một nhà khoa học có năng lực, uy tín, có khả năng liên 
kết các nhà khoa học lại với nhau để giải quyết một cách tập 
trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề hoặc chương trình, 
đề tài/dự án quan trọng có quy mô đủ lớn trong một thời 
gian đủ dài. Kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột 
phá và nhất quán trong lĩnh vực nghiên cứu mà nhóm theo 
đuổi. NNCM có đủ các điều kiện cơ bản bao gồm nơi làm 
việc, trang thiết bị, thông tin, tư liệu và kinh phí... để đảm 
bảo cho các hoạt động nghiên cứu.
Vai trò của NNCM qua các mối quan hệ
Mối quan hệ giữa các thành viên của NNCM
Mối quan hệ này được hình thành dựa trên quan hệ hợp 
tác theo hai xu hướng chính sau đây:
Thứ nhất - mối quan hệ hợp tác giữa các nhà khoa học: 
theo Sylvan Kattz có 5 yếu tố thúc đẩy các nhà khoa học 
làm việc cùng nhau: (1) Chi phí cho công việc mua sắm 
công cụ nghiên cứu, mua tư liệu, chi phí tiến hành các bước 
nghiên cứu thông thường ngày càng gia tăng. Việc hợp tác 
giữa các nhà khoa học sẽ làm tăng tần suất sử dụng những 
loại hình công cụ, tư liệu này, đồng thời tăng mức phổ biến 
những tri thức khoa học cho các đối tượng, các nhà khoa 
học khác nhau; (2) Chi phí của các hình thức liên lạc, đi lại 
đã giảm mạnh nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ 
thuật và công nghệ; (3) Sự nhận thức của các nhà khoa học 
về vai trò làm việc theo nhóm, làm việc trong cộng đồng 
khoa học. Chỉ thông qua những mô hình làm việc như vậy 
thì quá trình sản sinh ra tri thức khoa học tiến bộ sẽ được 
tiến hành có chọn lọc và dễ thành công hơn; (4) Việc cụ thể 
hoá các công đoạn trong quá trình nghiên cứu là hết sức 
Identify the role of the excellence
 research groups in universities
based on approaching 
the group’s relationships
Minh Quan Dao*, Dinh Duc Nguyen
Vietnam National University, Hanoi
Received 4 April 2019; accepted 16 May 2019
Abstract:
The paper focuses on examining the role of excellent 
research groups based on the six key relationships, 
including (1) Relationship among excellent research 
groups’ members; (2) Relationship between excellent 
research groups and host universities; (3) Relationship 
between excellent research groups and departments/
faculties/centers/research institutes; (4) Relationship 
among excellent research groups, universities and 
business community; (5) Relationship between 
excellent research groups and foreign organizations; 
(6) Relationship between excellent research groups in 
universities and the State. 
Keywords: excellent research groups, research 
cooperation, the relationship of excellent research 
groups, the role of excellent research groups.
Classification number: 5.3
2161(10) 10.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
cần thiết và có ý nghĩa cho việc thực hiện các đề tài nghiên 
cứu (đặc biệt cần thiết cho các chuyên ngành cần có những 
công cụ, phương thức làm việc phức tạp); (5) Xu hướng 
liên ngành đang gia tăng, việc ứng dụng các phương pháp 
- tri thức liên ngành trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể 
của đời sống xã hội, những lĩnh vực chuyên môn là những 
yêu cầu cơ bản đòi hỏi cần có sự hợp tác của các nhà khoa 
học trong cùng một chuyên ngành cũng như khác chuyên 
ngành [4]. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực giáo dục 
đại học. Trường đại học sẽ có được những kết quả nghiên 
cứu chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, khi 
các công trình nghiên cứu được xây dựng dựa trên sự hợp 
tác của các nhà khoa học. Chính sự dung hợp được nhiều 
quan điểm, góc nhìn khác nhau giúp cho việc xây dựng các 
nhiệm vụ nghiên cứu phù hợp hơn với nhu cầu của thực 
tiễn. Việc nghiên cứu theo nhóm làm tăng khả năng nắm giữ 
phương pháp nghiên cứu mới, tri thức mới, những kỹ năng 
cần thiết giữa các thành viên trong nhóm. Đây cũng chính 
là một quá trình đào tạo, bản thân các thành viên sẽ học 
hỏi lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Vai trò của nhóm đặc biệt 
được phát huy mạnh trong những nghiên cứu mang tính liên 
ngành, việc nghiên cứu theo nhóm giúp đẩy mạnh khả năng 
của từng cá nhân. Điều đặc biệt quan trọng khi tham gia vào 
các NNC là các thành viên trong nhóm có thể áp dụng phần 
việc của các thành viên khác đã làm để triển khai kế hoạch 
của mình cho khớp. Đồng thời các thành viên đi trước có thể 
dễ dàng truyền đạt gói công việc cho người sau. Trong mọi 
lĩnh vực hoạt động của con người luôn chứa đựng sự cạnh 
tranh quyết liệt và khắc nghiệt. Tuy nhiên, với tính đặc thù 
của môi trường đại học, yếu tố học thuật lại chính là những 
chuẩn mực giúp cho sự cạnh tranh này không trở thành 
sự hủy hoại mà là sự cạnh tranh lành mạnh, giúp cải thiện 
năng lực của tất cả mọi người. “Tinh thần hợp tác được nuôi 
dưỡng trong môi trường mà thành công của mỗi người đều 
góp phần tạo ra thành quả chung và thành quả của người 
này không loại trừ thành quả của người khác. Nếu sự xuất 
sắc được ban thưởng một cách xứng đáng và những hành vi 
trái với chuẩn mực của văn hóa học thuật bị xử lý nghiêm 
khắc, nếu thành quả chung đem lại lợi ích vật chất cũng như 
sự thỏa mãn tinh thần cho từng thành viên trong một tập thể 
tương xứng với sự đóng góp của họ, thì tinh thần hợp tác 
chính trực sẽ nảy nở một cách tự nhiên” [5]. Do đó, để có 
những công trình nghiên cứu chất lượng cao, đòi hỏi sự gắn 
kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học, đồng thời với đó là các 
điều kiện hỗ trợ tốt kèm theo của trường đại học. 
Thứ hai - mối quan hệ hợp tác giữa thày và trò: đây 
có thể coi là mối quan hệ hợp tác gắn kết hữu cơ tạo nên 
sự hợp tác phát triển bền vững trong NNCM, mối quan hệ 
này ít nhiều được thiết chế hóa dưới hình thức người thày 
hướng dẫn các học trò. Chính trong quá trình nghiên cứu, 
người thày đã lựa chọn được những sinh viên, học viên cao 
học và đặc biệt là nghiên cứu sinh xuất sắc tham gia vào 
nhóm. Điều này giúp người thày quy tụ được đội ngũ nhân 
lực nhằm thực hiện các kỳ vọng trong lĩnh vực nghiên cứu 
họ theo đuổi, bởi chính những học trò là những người có 
động lực, cũng như áp lực phải hoàn thành chương trình 
học tập nên họ có động cơ mạnh mẽ để tham gia vào NNC. 
Người học tham gia vào các NNCM về thực chất là gắn liền 
việc học với nghiên cứu khoa học, dưới sự dẫn dắt của thày 
hướng dẫn. Điều này giúp người học tự tin, phát huy được 
những ý tưởng sáng tạo và có cơ hội biến những ý tưởng đó 
thành hiện thực. Tham gia vào các NNCM, người học được 
trang bị phương pháp nghiên cứu khoa học, nhờ đó các kiến 
thức và trí tuệ mà họ tích luỹ được mới thực sự trở thành 
tài sản sở hữu lâu dài của họ. Việc vận dụng phương pháp 
nghiên cứu khoa học vào học tập sẽ giúp họ nâng cao tính 
chủ động, kế hoạch hoá, sáng tạo và tự tin trong học tập. 
Bên cạnh đó, thông qua việc tham khảo sách và tài liệu nước 
ngoài, tham gia các hội thảo trong và ngoài nước, trình độ 
ngoại ngữ của họ sẽ tiến bộ rõ rệt [6]. Quan hệ này không 
chỉ diễn ra trong giai đoạn học tập của học trò mà còn tiếp 
tục được phát triển bền vững thành quan hệ đồng nghiệp hay 
các quan hệ xã hội khác, khi sau quá trình đào tạo, thày là 
người tìm kiếm công việc cho học trò và tạo dựng vị trí khoa 
học cho học trò hay hỗ trợ các điều kiện tài chính, cơ sở vật 
chất khác... Quan hệ hợp tác của người thày với học trò tiếp 
tục được mở rộng và có tính bắc cầu thông qua mối quan 
hệ hợp tác của các học trò với các thành phần khác trong xã 
hội. Đây là mối quan hệ nối tiếp, kế tiếp tạo thành mạng lưới 
các thành viên hỗ trợ cho hoạt động trong NNC và tạo nên 
sự phát triển của NNCM.
Mối quan hệ giữa NNCM với trường đại học chủ quản
Đây là mối quan hệ gắn bó hữu cơ hai chiều. Trong đó, 
ở chiều xuôi, trường đại học là nơi đầu tư, hỗ trợ và tạo điều 
kiện thuận lợi cho các NNCM phát triển. Ở chiều ngược lại, 
NNCM đóng vai trò hạt nhân quan trọng trong việc thực 
hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao cho 
trường đại học. Như đã đề cập ở trên, đào tạo và nghiên cứu 
khoa học là hai chức năng chính không thể thiếu của bất 
cứ trường đại học nào, hai chức năng này luôn hỗ trợ, bổ 
sung cho nhau để nâng cao chất lượng cả trong đào tạo và 
nghiên cứu. Việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục và đào tạo 
gắn với hoạt động KH&CN thông qua các NNC, đặc biệt 
là các NNCM đóng vai trò quyết định trong việc giúp các 
trường đại học phát huy được các tiềm lực và khẳng định 
vị thế của mình trong quốc gia, khu vực và thế giới. Bởi, 
NNCM là nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc quy tụ các 
nhà khoa học trình độ cao nhằm phát huy năng lực sáng 
tạo, thúc đẩy hoạt động KH&CN, giáo dục và đào tạo. Đối 
với các trường đại học trên thế giới, đặc biệt là các đại học 
nghiên cứu thì mô hình NNC là hình thức phổ biến để tiến 
hành các hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo, đặc 
biệt là đào tạo sau đại học. Việc xây dựng các NNCM trong 
trường đại học sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để các nhà 
khoa học, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên 
2261(10) 10.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
có thể phát huy khả năng và ý tưởng táo bạo trong nghiên 
cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và phục vụ 
xã hội thông qua hoạt động nghiên cứu.
Thực tế đã cho thấy, việc đào tạo để nghiên cứu và qua 
nghiên cứu là yếu tố cốt lõi nhằm nâng cao chất lượng đào 
tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học. Đặc thù của bậc đào tạo 
sau đại học là nghiên cứu chuyên sâu, do vậy chương trình 
đào tạo sau đại học, đặc biệt là đào tạo nghiên cứu sinh đòi 
hỏi hàm lượng nghiên cứu khoa học cao hơn so với chương 
trình đào tạo đại học. Việc các sinh viên, học viên cao học, 
đặc biệt là nghiên cứu sinh được làm việc trong các NNCM 
với đầy đủ các điều kiện về chuyên môn, phương tiện làm 
việc, thông tin tư liệu và thiết bị là một điều kiện thuận lợi 
đối với họ. Trong môi trường như vậy, ngoài khóa luận, luận 
văn, luận án được bảo vệ, người học còn được nâng cao một 
cách toàn diện về mặt kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm 
việc nhóm và kinh nghiệm tổ chức, quản lý và triển khai 
hoạt động nghiên cứu khoa học. 
Như vậy, trường đại học là trung tâm trí tuệ, nơi tạo ra, 
lưu trữ, truyền tải tri thức và những giá trị tinh thần từ thế 
hệ này sang thế hệ khác. Bản thân sự sáng tạo tri thức mới 
đã mang bản chất hợp tác và kế thừa. Hơn thế nữa, trong bối 
cảnh tri thức ngày càng đan xen phức tạp giữa các chuyên 
ngành, mọi công trình đều cần dựa trên sự tham gia hợp tác 
của nhiều người ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và 
có những kỹ năng, tri thức, phẩm chất khác nhau nhằm phối 
hợp và bổ sung cho nhau*. Do vậy, NNCM chính là hạt nhân 
để tạo nên sự hợp tác trong các trường đại học và cũng là 
nhân tố cốt lõi tạo ra hiệu quả kép trong đào tạo và nghiên 
cứu khoa học.
Mối quan hệ giữa NNCM với bộ môn/khoa/trung tâm/
viện nghiên cứu
Đây là mối quan hệ dựa trên tinh thần hợp tác, trong đó 
NNCM đóng vai trò trung tâm quy tụ các nhà khoa học từ 
cùng một đơn vị hay ở các đơn vị khác nhau nhằm thực hiện 
một chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu nhất định hoặc theo 
đuổi một lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm nào đó. Thế mạnh 
của NNCM là tạo ra sự hợp tác không giới hạn, không biên 
giới và không bị tác động bởi các rào cản hành chính hay địa 
lý. Điều này đặc biệt thích ứng với thời đại của cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0 hiện nay [7]. Chính NNCM là môi 
trường tạo ra sự cộng tác giữa các nhà khoa học trong quá 
trình nghiên cứu để giải quyết những vấn đề có tính phức 
tạp, trao đổi tri thức, là môi trường nuôi dưỡng sự gắn kết 
chặt chẽ giữa các nhà khoa học, bởi ở đó chất keo kết dính 
các nhà khoa học là sự đồng điệu trong khoa học, sự đồng 
thuận trong chí hướng và có cùng chung mục tiêu mà không 
phải là các quyết định hành chính.
Mối quan hệ giữa NNCM, trường đại học và giới 
doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ ba bên nhưng thực chất là mối quan 
hệ hai chiều, trong đó trường đại học là cầu nối giữa NNCM 
và giới doanh nghiệp. NNCM sẽ là hạt nhân thay mặt cho 
trường đại học giúp giới công nghiệp giải quyết các vấn đề 
về chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ, phát triển 
công nghệ, mở rộng công nghệ, nâng cấp công nghệ hay các 
dịch vụ KH&CN. Đồng thời, thực hiện các chương trình 
nghiên cứu liên kết được quan tâm chung trên cơ sở các 
hợp đồng nghiên cứu, các khóa đào tạo huấn luyện hay các 
chương trình hội thảo cung cấp kiến thức cho giới doanh 
nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp thông qua trường đại 
học hỗ trợ cho các NNCM về cơ sở vật chất, trang thiết bị, 
tài chính, tiếp nhận nhân sự được đào tạo từ các NNCM 
Trên cơ sở các hoạt động hợp tác và chuyển giao tri thức 
với các doanh nghiệp, các NNCM có điều kiện thúc đẩy 
các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, đồng thời từng bước 
hình thành nền tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng 
cho sự phát triển của trường đại học nói chung và của nhóm 
nói riêng. Đặc biệt, thông qua mối quan hệ hợp tác với các 
doanh nghiệp, các NNCM có thể thương mại hóa thành quả 
nghiên cứu của mình, cũng như huy động các nguồn lực 
thông qua hợp tác để triển khai các hoạt động KH&CN.
Mối quan hệ giữa NNCM với các cơ quan tổ chức 
nước ngoài
Đây là mối quan hệ đa dạng, đó có thể là quan hệ hợp tác 
giữa các nhà khoa học nhằm thực hiện các chương trình/dự 
án nghiên cứu chung, hay có thể là các tài trợ nhằm thúc đẩy 
hoạt động KH&CN, nâng cao năng lực nghiên cứu cho các 
NNCM thông qua các dự án tài trợ về cơ sở vật chất, trang 
thiết bị Việc tăng cường hợp tác quốc tế trong KH&CN 
thông qua môi trường NNCM là cách tốt nhất để đưa hoạt 
động KH&CN của trường đại học tiệm cận với chuẩn mực 
quốc tế, kết nối cộng đồng khoa học thế giới. Đặc biệt là huy 
động được nguồn kinh phí dồi dào từ các tổ chức quốc tế 
để giải quyết các vấn đề đặt ra của trường đại học nói riêng 
và quốc gia nói chung. Bên cạnh đó, việc tăng cường hợp 
tác thông qua môi trường NNCM giúp quy tụ được các nhà 
khoa học nước ngoài tham gia cùng nghiên cứu. Điều này 
không chỉ giúp thúc đẩy các NNCM phát huy nội lực, kết 
hợp với ngoại lực để tăng cường công bố quốc tế mà còn 
giúp nâng cao năng lực KH&CN và hội nhập quốc tế của 
các NNC nhanh hơn.
Mối quan hệ giữa NNCM trong trường đại học với 
Nhà nước
Đây là mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết, bởi Nhà 
nước là tác nhân chủ đạo trong việc thúc đẩy sự gia tăng các 
NNCM trong trường đại học. Các NNCM trong các trường 
đại học sẽ không thể hình thành và phát triển mạnh nếu 
không có được môi trường chính sách thuận lợi với sự hỗ 
*Hợp tác và trao quyền trong giáo dục đại học, Bản tin ĐHQGHN số 283, 
2014.
2361(10) 10.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
trợ và sáng kiến trực tiếp từ Nhà nước [8]. Bởi Nhà nước 
là cơ quan tài trợ chính cho các NNCM trong việc thiết lập 
các phương tiện và năng lực nghiên cứu trình độ cao để 
triển khai các hoạt động KH&CN. Việc tài trợ này không 
chỉ dừng lại ở các chương trình/đề tài/dự án của Nhà nước 
mà còn bao gồm các hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua 
các dự án tăng cường năng lực nghiên cứu cho các trường 
đại học, nơi các NNCM hoạt động. Thông qua việc thực 
hiện các chương trình/đề tài/dự án, những kết quả nghiên 
cứu do NNCM tạo ra sẽ góp phần tư vấn hoạch định chính 
sách cho Chính phủ hoặc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội hay thúc 
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Kết luận 
Từ việc nhận diện vai trò của NNCM dựa trên tiếp cận 
các mối quan hệ hợp tác của nhóm, chúng tôi hy vọng có thể 
đóng góp một số kết quả mang tính lý thuyết giúp các nhà 
khoa học và đặc biệt là nhà quản lý của các trường đại học, 
các cơ quan quản lý nhà nước thấy được vai trò cơ bản của 
NNCM trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo, nghiên cứu và 
phục vụ xã hội. Từ đó, xây dựng những chính sách phù hợp 
nhằm thúc đẩy NNC phát triển, tạo môi trường lý tưởng và 
thuận lợi để các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, học viên 
cao học, sinh viên có thể phát huy khả năng và ý tưởng sáng 
tạo, hướng đến các mục tiêu: a) Thúc đẩy các sáng kiến mới, 
đặc biệt là trong những lĩnh vực nghiên cứu đa ngành đang 
được quan tâm; b) Huy động và khai thác các nguồn lực bên 
trong và bên ngoài để phát triển các chương trình nghiên 
cứu của nhóm; c) Cung cấp các chương trình giáo dục và 
rèn luyện trong hoạt động nghiên cứu và các kỹ năng liên 
quan, đặc biệt là đối với sinh viên đại học và sau đại học; 
d) Phổ biến, truyền bá tri thức khoa học qua các ấn phẩm, 
hội thảo, bài giảng; đ) Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt 
động hợp tác đa ngành giữa các học giả và đối tác thông qua 
mạng Internet và quá trình trao đổi thông tin; e) Cung cấp, 
chuyển giao các kết quả nghiên cứu, khóa đào tạo, huấn 
luyện, bồi dưỡng kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn; f) 
Tăng cường năng lực nghiên cứu; g) Liên kết tri thức, tận 
dụng được các ưu điểm về tính liên ngành. 
Những phân tích nêu trên về vai trò của NNCM dựa 
trên tiếp cận các mối quan hệ hợp tác của nhóm là những 
nghiên cứu lý thuyết ban đầu, rất cần có những nghiên cứu 
thực tiễn, cụ thể tiếp theo nhằm làm rõ hơn vai trò của các 
NNCM trong trường đại học trong việc nâng cao chất lượng 
đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được tài trợ bởi Chương trình KH&CN cấp 
quốc gia giai đoạn 2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa 
học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện 
nền giáo dục Việt Nam” thông qua đề tài mã số KHGD/16-
20.ĐT.032. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn sự tài trợ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đình Đức (2014), Phát triển NNC trong trường đại 
học - Xu thế tất yếu, 
cuu-trong-truong-dh-xu-the-tat-yeu-325151.vov.
[2] Đào Minh Quân (2016), “Thực trạng và một số biện pháp xây 
dựng, phát triển NNCM ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia 
Hà Nội, Chuyên trang Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, 32(4), 
tr.25-39. 
[3] Trương Quang Học (2008), NNC - yếu tố quyết định tới chất 
lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học, 
yeu-to-quyet-dinh-toi-chat-luong-cua-hoat-dong-khoa-hoc-cong-
nghe-va-dao-tao-sau-dai-hoc.
[4] Trần Văn Kham (2004), Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng 
khoa học hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xã hội học, Trường 
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5] Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), “Hợp tác và trao quyền trong 
giáo dục đại học”, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, 283, tr.28-33.
[6] Đào Minh Quân (2009), Xây dựng NNC nhằm nâng cao hiệu 
quả gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học (Nghiên 
cứu trường hợp Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại 
học Quốc gia Hà Nội), Luận văn ThS chuyên ngành quản lý KH&CN.
[7] Nguyễn Đình Đức (2018), “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại 
học: Chiến lược để Việt Nam nắm bắt cơ hội ở cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ 4”, Kỷ yếu Hội nghị quốc gia nhu cầu nhân lực chất 
lượng cao cho phát triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4 và những đáp ứng của giáo dục đại học Việt Nam, tr.219-224.
[8] Ha Nguyen Thi Thu, Duc Bui Minh, Duc Nguyen Dinh (2019), 
“Major factors impacting the operational efficiency of scientific 
working groups”, VNU Journal of Science: Education Research, 
35(1), pp.54-63.

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_vai_tro_cua_nhom_nghien_cuu_manh_trong_cac_truong.pdf