Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự phát triển, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt Nam

Các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt đã đáp ứng phần lớn nhu

cầu năng lượng của con người, tuy nhiên năng lượng hóa thạch là không bền vững. Việc sử dụng

nhiên liệu hóa thạch là một trong các nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu và nó có ảnh

hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Hơn nữa, các nguồn nhiên liệu nói trên đang dần cạn

kiệt, vì vậy việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn năng lượng mới có khả năng tái tạo như: năng

lượng gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt hay năng lượng sinh khối là một nhu cầu tất yếu. Trong

bài báo này, chúng tôi đề cập đến một số nguyên nhân chủ yếu tạo thúc đẩy sự phát triển của năng

lượng tái tạo, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt nam. Ngoài ra, chúng tôi

cũng nêu ra các nguyên nhân chủ yếu cản trở việc phát triển và khai thác các nguồn năng lượng tái

tạo tại Việt Nam.

pdf 6 trang kimcuc 10240
Bạn đang xem tài liệu "Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự phát triển, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự phát triển, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt Nam

Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự phát triển, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt Nam
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 24 
NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN, TIỀM NĂNG 
VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO Ở VIỆT NAM 
Lương Duy Thành1, Phan Văn Độ1, Nguyễn Trọng Tâm1 
Tóm tắt: Các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt đã đáp ứng phần lớn nhu 
cầu năng lượng của con người, tuy nhiên năng lượng hóa thạch là không bền vững. Việc sử dụng 
nhiên liệu hóa thạch là một trong các nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu và nó có ảnh 
hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Hơn nữa, các nguồn nhiên liệu nói trên đang dần cạn 
kiệt, vì vậy việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn năng lượng mới có khả năng tái tạo như: năng 
lượng gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt hay năng lượng sinh khối là một nhu cầu tất yếu. Trong 
bài báo này, chúng tôi đề cập đến một số nguyên nhân chủ yếu tạo thúc đẩy sự phát triển của năng 
lượng tái tạo, tiềm năng và thực trạng khai thác năng lượng tái tạo ở Việt nam. Ngoài ra, chúng tôi 
cũng nêu ra các nguyên nhân chủ yếu cản trở việc phát triển và khai thác các nguồn năng lượng tái 
tạo tại Việt Nam. 
Từ khóa: Năng lượng tái tạo, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng 
lượng sinh khối, thủy điện. 
1. MỞ ĐẦU1 
Trong cuộc sống hiện đại, chất lượng sống 
của con người phụ thuộc rất nhiều vào các 
nguồn năng lượng, do đó việc khai thác và sử 
dụng năng lượng được các quốc gia đặc biệt 
quan tâm. Các nguồn năng lượng truyền thống 
như nhiên liệu hóa thạch, thủy điện và năng 
lượng hạt nhân đã đáp ứng phần lớn nhu cầu 
của các quốc gia, tuy nhiên việc sử dụng các 
nguồn năng lượng này cũng có những hạn chế 
nhất định. Năng lượng hóa thạch không thể tái 
tạo được và với tốc độ sử dụng như hiện nay, 
các nhà khoa học dự đoán rằng trong khoảng 70 
năm nữa nguồn nhiên liệu này sẽ cạn kiệt. Việc 
tìm kiếm, tranh giành các mỏ dầu có thể dẫn 
đến các cuộc chiến kéo dài, cuộc chiến vùng 
Vịnh trong thập niên 1990 là một ví dụ. Đối với 
thủy điện, gần như tất cả các địa điểm thuận lợi 
đã được xây dựng nhà máy thủy điện. Việc xây 
dựng thêm các nhà máy thủy điện nhỏ tại các 
vùng sâu, vùng xa là rất khó khăn, hơn nữa việc 
1 Khoa Năng lượng, Đại học Thủy lợi, Việt Nam 
xây dựng các đập thủy điện có thể gây ảnh 
hưởng đến môi trường sống. Chuỗi đập thủy 
điện lớn của Trung Quốc xây dựng trên sông 
Lan Thương (đầu nguồn sông Mê Kông) đã làm 
thay đổi một cách đáng kể chu kỳ lũ lụt-hạn hán 
tự nhiên của hạ lưu sông Mê Kông, làm giảm 
lượng nước và các chất dinh dưỡng chảy vào 
lưu vực sông và các vùng duyên hải, điều này 
trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng triệu 
người dân tại vùng hạ lưu. Các nhà máy điện 
hạt nhân luôn tiềm ẩn các nguy cơ mất an toàn, 
thảm họa Chernobyl tại Ukraina năm 1986 hay 
sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima tại 
Nhật năm 2011 là các ví dụ. 
Từ các lý do trên, chúng ta thấy rằng một 
nhu cầu tất yếu là cần bổ sung và thay thế dần 
các nguồn năng lượng truyền thống bằng các 
nguồn năng lượng an toàn và có khả năng tái 
tạo. Nhiều quốc gia đã đặc biệt quan tâm đến 
lĩnh vực này, tại Thụy Điển, Đan Mạch, Áo, 
Pháp, năm 2014 năng lượng tái tạo (NLTT) 
được sử dụng chiếm khoảng 13,4% trên tổng 
năng lượng tiêu thụ. Việt Nam là một trong các 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 25
nước có tiềm năng lớn về phát triển năng 
lượng tái tạo như thủy điện, năng lượng gió, 
năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, 
năng lượng địa nhiệt Tuy nhiên việc khai 
thác và sử dụng NLTT còn hết sức hạn chế. 
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến các 
nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy phát triển 
NLTT, tiềm năng, thực trạng khai thác và các 
nguyên nhân chủ yếu hạn chế việc phát triển 
NLTT ở nước ta. 
2. CÁC NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU THÚC 
ĐẨY PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO 
2.1 Sự biến đổi khí hậu 
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra 
ngày càng nghiêm trọng. Biểu hiện rõ nhất là sự 
nóng lên của trái đất, là băng tan, nước biển 
dâng cao; là các hiện tượng thời tiết bất thường, 
bão lũ, sóng thần, động đất, hạn hán và giá rét 
kéo dài... dẫn đến thiếu lương thực, thực phẩm 
và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh trên người, gia 
súc, gia cầm... Việt Nam là một quốc gia ven 
biển nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hiện tượng 
nước biển dâng. Nguyên nhân khách quan gây 
ra sự biến đổi khí hậu đó là sự thay đổi bức xạ 
khí quyển, bao gồm các quá trình như biến đổi 
bức xạ mặt trời, độ lệch quỹ đạo của Trái Đất, 
quá trình kiến tạo núi, kiến tạo trôi dạt lục 
địa và sự thay đổi nồng độ khí nhà kính. Tuy 
nhiên, nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi khí 
hậu là do sự tác động của con người, đó là sự 
gia tăng khí CO2 trong khí quyển do khai thác 
và sử dụng nhiên liệu hóa thạch (EIA, 2015; 
ILO, 2011). Trong khi đó, hầu hết các hoạt 
động liên quan đến NLTT bao gồm sản xuất, 
lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng, tháo gỡ lại tạo 
ra rất ít khí nhà kính so với các nguồn nhiên liệu 
hóa thạch (IPCC, 2012). Vì vậy, để giảm ảnh 
hưởng hiện tượng nóng lên toàn cầu, hệ thống 
năng lượng trên thế giới cần chuyển dịch từ 
dạng không bền vững sang dạng năng lượng 
bền vững (WWF, 2011). 
2.2 Sự cạn kiệt của các nguồn nhiên liệu 
hóa thạch 
Các nguồn nhiên liệu hóa thạch là hữu hạn và 
con người đã tiêu thụ một lượng đáng kể chúng. 
Hàng năm thế giới tiêu thụ một lượng nhiên liệu 
hóa thạch tương đương với 11 tỷ tấn dầu. Nếu 
chúng ta tiếp tục tiêu thụ ở tốc độ như vậy, 
nguồn dầu thô sẽ cạn kiệt vào năm 2052, nguồn 
khí tự nhiên sẽ cạn kiệt vào năm 2060 và nguồn 
than đá sẽ cạn kiệt vào năm 2088 (Ecotricity, 
2015). Tuy nhiên tốc độ tiêu thụ các nguồn nhiên 
liệu hóa thạch sẽ tăng lên khi dân số thế giới tăng 
cũng như các tiêu chuẩn sống tăng lên. Do vậy, 
các nguồn nhiên liệu hóa thạch sẽ cạn kiệt sớm 
hơn nếu không tìm ra các nguồn năng lượng thay 
thế. Ngay cả với tốc độ tiêu thụ nhiên liệu hóa 
thạch như hiện tại, điện năng mới chỉ đáp ứng 
được 4/5 dân số thế giới (WWF, 2011). Trong 
khi đó nguồn NLTT là vô tận và có thể bổ sung 
và thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch trong 
tương lai. Theo viễn cảnh được đưa ra bởi Quỹ 
quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), thế giới có 
thể được cung cấp năng lượng từ 100% các 
nguồn NLTT trước năm 2050 (WWF, 2011). 
2.3 Vấn đề sức khỏe cộng đồng và chất 
lượng môi trường 
Sản xuất điện từ năng lượng hóa thạch gây ra 
tác hại rất lớn với sức khỏe cộng đồng. Sự ô 
nhiễm không khí và nước do các nhà máy nhiệt 
điện than và nhiệt điện khí có liên quan đến với 
các vấn đề về sức khỏe con người như bệnh về 
đường hô hấp, thần kinh, tim mạch và ung thư 
Việc khói bụi từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân tại 
tỉnh tỉnh Bình Thuận trong thời gian qua đã gây 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như 
cuộc sống của người dân xung quanh là một ví 
dụ. Việc thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch 
bằng NLTT sẽ làm giảm bớt các vấn đề trên. 
Các nguồn NLTT như năng lượng gió, năng 
lượng mặt trời và thủy điện không gây ra ô 
nhiễm không khí. Trong khí đó địa nhiệt và 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 26 
năng lượng sinh khối tạo ra một lượng nhỏ 
chất ô nhiễm không khí, tuy nhiên thấp hơn 
nhiều so với sự ô nhiễm gây ra bởi các nhà 
máy nhiệt điện than và nhiệt điện khí. Ngoài 
ra, năng lượng gió và mặt trời hoạt động không 
dùng nước và do đó không làm ô nhiễm các 
nguồn nước hoặc cạnh tranh với các nguồn 
nước nông nghiệp, nước uống hay các nhu cầu 
thiết yếu khác liên quan đến nước. Ngược lại, 
các nguồn năng lượng hóa thạch có tác động 
đáng kể nên các nguồn nước. Chẳng hạn như 
việc đào mỏ hay khoan dầu, khí tự nhiên có thể 
làm ô nhiễm các nguồn nước sinh hoạt. Bên 
cạnh đó, các nhà máy nhiệt điện than, khí hay 
dầu đều tiêu thụ một lượng lớn nước để làm 
lạnh trong quá trình vận hành (UCS, 2014). Do 
vậy dẫn đến sự thiếu hụt nước dành cho sinh 
hoạt, nông nghiệp, 
2.4 Cơ hội việc làm 
So với các ngành công nghiệp nhiên liệu hóa 
thạch đã được cơ khí hóa và cần nhiều vốn, 
ngành công nghiệp NLTT lại dùng nhiều lao 
động hơn. Điều đó có nghĩa là nhiều việc làm sẽ 
được tạo ra từ ngành công nghiệp NLTT so với 
công nghiệp nhiên liệu hóa thạch với cùng một 
đơn vị điện năng sản suất ra. Theo báo cáo của 
cơ quan NLTT quốc tế (IRENA) số lượng việc 
làm liên quan đến NLTT đã đạt tới 6,5 triệu 
việc làm trong năm 2013 chủ yếu ở Trung 
Quốc, Brasil, Mỹ, Ấn độ, Đức, Tây Ban Nha 
(IRENA, 2014). Các việc làm liên quan đến 
NLTT bao gồm sản xuất, phát triển dự án, xây 
dựng và lắp đặt turbin, vận hành và bảo dưỡng, 
vận chuyển và hậu cần, tài chính, pháp lý và các 
dịch vụ tư vấn (UCS, 2014). Ngoài ra, khai thác 
và phát triển các nguồn NLTT còn thúc đẩy sự 
phát triển nhiều ngành có liên quan như khoa 
học vật liệu, cơ khí. 
2.5 Vấn đề an ninh năng lượng 
An ninh năng lượng là vấn đề sống còn đối 
với sự phát triển của một quốc gia. Nhu cầu 
cấp thiết đối với mọi quốc gia là đảm bảo sự 
cung cấp năng lượng bằng cách giảm thiểu các 
rủi ro như sự gián đoạn hoặc sự không ổn định 
của việc cung cấp năng lượng đặc biệt trong 
trường hợp phải nhập khẩu năng lượng, sự 
xung đột các nguồn năng lượng và sự biến 
động về giá cả. Do vậy, các quốc gia phải có 
một cách tiếp cận mới và sáng tạo đối với vấn 
đề an ninh năng lượng bằng cách đa dạng hóa 
các nguồn năng lượng trong đó có các nguồn 
NLTT. Bằng cách đó, các quốc gia có thể giảm 
sự phụ thuộc vào nhập khẩu các nguồn nhiên 
liệu hóa thạch, tạo ra việc làm và thúc đẩy sự 
phát triển kinh tế đất nước. 
3. TIỀM NĂNG KHAI THÁC VÀ THỰC 
TRẠNG SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG TÁI 
TẠO Ở VIỆT NAM 
Việt Nam là một trong những nước nằm 
trong vùng nhiệt đới gió mùa nên tiềm năng rất 
lớn về nguồn NLTT. Những nguồn NLTT này 
sẽ đáp ứng được nhu cầu năng lượng ngày càng 
tăng nhanh của đất nước hiện tại và trong tương 
lai. Dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu một số 
nguồn NLTT đã được nhận dạng, rất có tiềm 
năng và đang được khai thác ở Việt Nam. 
3.1 Thủy điện nhỏ 
Căn cứ vào các báo cáo đánh giá gần đây 
nhất thì hiện nay có trên 1.000 địa điểm đã được 
xác định có tiềm năng phát triển thủy điện nhỏ, 
qui mô từ 100 kW tới 30 MW với tổng công 
suất đặt trên 7.000 MW (N.Đ. Cường, 2012; 
H.T.T. Hường, 2014; Nguyen N. H. , 2013) và 
hiện nay mới chỉ khai thác được khoảng 50% 
tiềm năng. Theo báo cáo của Viện Chiến lược - 
Chính sách tài nguyên và môi trường, hiện tại 
có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 
MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công 
suất trên 2600 MW đang được xây dựng và 700 
dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các 
dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100 kW 
phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có 
địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới 
điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 27
khai thác (N.T. Chinh, 2014). 
3.2 Năng lượng gió 
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa 
với bờ biển dài hơn 3000 km, Việt Nam có một 
thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. 
Trong chương trình đánh giá về năng lượng cho 
châu Á, Ngân hàng Thế giới đã có một khảo sát 
chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam 
Á, trong đó Việt Nam có tiềm năng gió lớn 
nhất. Hiện nay chưa có số liệu đánh giá tiềm 
năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ 
các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng 
năng lượng gió của Việt Nam dao động trong 
khoảng 1.700 MW – 9000 MW (N.Đ. Cường, 
2012; H.T.T. Hường, 2014; Nguyen N. H., 
2013). Thậm chí có báo cáo còn đưa ra số liệu 
vào khoảng 513.360 MW (H.T.T. Hường, 2014; 
Nguyen D. L., 2014), tức là bằng hơn 200 lần 
công suất của thủy điện Sơn La, cao gấp 6 lần 
công suất dự kiến của ngành điện vào năm 2020 
và lớn hơn nhiều so với tiềm năng các nước 
trong khu vực như Thái Lan (152.392 MW), 
Lào (182.252 MW) và Campuchia (26.000 MW) 
(Nguyen D. L., 2014). Như vậy nếu so với tiềm 
năng của thủy điện thì nguồn năng lượng gió 
của Việt Nam rất dồi dào. Chúng ta đã bắt đầu 
triển khai một số dự án khai thác nguồn năng 
lượng này như ở Cà Mau, Bạc Liêu, Ninh 
Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện 
lưới từ đất liền ra. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta 
mới chỉ khai thác được khoảng 50 MW (H.T.T. 
Hường, 2014; Nguyen N. H. , 2013), một con 
số rất khiêm tốn so với tiềm năng năng lượng 
gió của nước ta. 
3.3 Năng lượng mặt trời 
Việt Nam được xem là một quốc gia có tiềm 
năng rất lớn về năng lượng mặt trời, đặc biệt ở 
các vùng miền trung và miền nam của đất nước 
với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong 
khoảng 1.400-3.000 giờ (N.T. Chinh, 2014; 
N.Đ. Cường, 2012), cường độ bức xạ mặt trời 
trung bình khoảng 4-5 kWh/m2/ngày tăng dần 
từ Bắc vào Nam (H.T.T. Hường, 2014; Nguyen 
N. H. , 2013). Năng lượng mặt trời ở Việt Nam 
có sẵn quanh năm, khá ổn định và phân bố rộng 
rãi trên các vùng miền khác nhau của đất nước. 
Đặc biệt, số ngày nắng trung bình trên các tỉnh 
của miền Trung và miền Nam là khoảng 300 
ngày/năm. Tiềm năng phát triển là như vậy, 
nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn năng 
lượng này hiện nay còn hạn chế chỉ vào khoảng 
3 MW (H.T.T. Hường, 2014). 
3.4 Năng lượng sinh khối 
Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm 
năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối. 
Các loại sinh khối chính là: gỗ củi, phế thải - 
phụ phẩm từ cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác 
thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác khác 
từ chế biến nông-lâm-hải sản... Theo đánh giá 
của các nghiên cứu gần đây, khả năng khai thác 
năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và 
phát điện của Việt Nam có thể đạt 150-170 triệu 
tấn mỗi năm và đạt công suất 2000MW (N.T. 
Chinh, 2014; N.Đ. Cường, 2012). Sinh khối 
được sử dụng ở hai lĩnh vực chính là sản xuất 
nhiệt và sản xuất điện. Đối với sản xuất nhiệt, 
sinh khối cung cấp hơn 50% tổng năng lượng sơ 
cấp tiêu thụ cho sản xuất nhiệt tại Việt Nam. Ở 
các vùng nông thôn, năng lượng sinh khối vẫn 
là nguồn nhiên liệu chính để đun nấu cho hơn 
70% dân số nông thôn. Đây cũng là nguồn 
nhiên liệu truyền thống cho nhiều nhà máy sản 
xuất tại địa phương như sản xuất thực phẩm, mỹ 
nghệ, gạch, sứ và gốm (H.T.T. Hường, 2014). 
Ngoài ra các nguồn sinh khối còn được khai 
thác ở dạng khí sinh học và nhiên liệu sinh học. 
Hiện nay năng lượng sinh khối mới chỉ khai 
thác được khoảng 150 MW (H.T.T. Hường, 
2014; Nguyen N. H. , 2013). 
3.5 Năng lượng địa nhiệt 
Đây là nguồn năng lượng trong lòng trái đất. 
Năng lượng này có nguồn gốc từ sự hình thành 
ban đầu của hành tinh, từ hoạt động phân hủy 
phóng xạ của các khoáng vật, và từ năng lượng 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 28 
mặt trời được hấp thụ tại bề mặt trái đất. Mặc 
dù nguồn địa nhiệt chưa được điều tra và tính 
toán kỹ. Tuy nhiên, với số liệu điều tra và đánh 
giá gần đây nhất cho thấy tiềm năng điện địa 
nhiệt ở Việt Nam có thể khai thác đến trên 300 
MW. Khu vực có khả năng khai thác hiệu quả là 
miền Trung (N.T. Chinh, 2014; N.Đ. Cường, 
2012, H.T.T. Hường, 2014; Nguyen N. H., 
2013). Hiện nay năng lượng địa nhiệt chưa 
được khai thác. 
Ngoài các nguồn nhiên liệu và NLTT đã đề 
cập ở trên, Việt Nam còn có tiềm năng về năng 
lượng biển như thủy triều, tuy nhiên chúng ta 
cần phải tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và 
đánh giá trữ lượng tiềm năng khai thác dạng 
năng lượng này. 
Như vậy, hiện tại ở nước ta có 4 loại NLTT 
đã được khai thác để sản xuất điện. Tuy nhiên, 
thực trạng khai khác NLTT còn rất nhỏ so với 
tiềm năng chiếm khoảng 3,4%. Trong khi đó 
theo Quy hoạch điện, chỉ tiêu được đặt ra là 
tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn 
NLTT sẽ lên 4,5% và 6% vào năm 2020 và năm 
2030 (H.T.T. Hường, 2014). 
4. CÁC NGUYÊN NHÂN CẢN TRỞ 
PHÁT TRIỂN NGUỒN NĂNG LƯỢNG TÁI 
TẠO Ở VIỆT NAM 
Những nguyên nhân quan trọng khiến nguồn 
tài nguyên này, đặc biệt là năng lượng gió và 
năng lượng mặt trời chưa được khai thác tương 
xứng với tiềm năng của nó là: 
- Chi phí đầu tư cao và giá thành điện năng 
từ các nguồn NLTT cao hơn các nguồn năng 
lượng truyền thống, khả năng vận hành và bảo 
dưỡng lại khá phức tạp. 
- Thiếu các nguồn tài chính và hỗ trợ từ các 
ngân hàng cho lĩnh vực NLTT. 
- Không có điều khoản ở cấp độ cao như 
luật/sắc lệnh khuyến khích sử phát triển NLTT. 
- Thiếu các kỹ sư, người có trình độ trong 
lĩnh vực NLTT. 
- Chưa có các công nghệ phụ trợ cho lĩnh 
vực NLTT. 
- Thiếu thông tin và dữ liệu trong việc đánh 
giá tiềm năng khai thác các nguồn NLTT. 
- Sự nhận thức của người dân về lợi ích của 
NLTT còn thấp. 
- Chưa có chiến lược hay kế hoạch cấp Quốc 
gia để phát triển NLTT. 
Trên cơ sở các nguyên nhân ở trên, nhà nước 
cần phải có các giải pháp phù hợp đề phát triển 
NLTT như phát triển cơ chế, chính sách để thúc 
đẩy phát triển NLTT, thiết lập các nguồn tài 
chính hay các quỹ cho NLTT. 
5. KẾT LUẬN 
Nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt, hơn 
nữa khí thải từ việc sử dụng nguồn nhiên liệu 
này ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và 
là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự biến đổi khí 
hậu. Trong khi đó, tiềm năng của các nguồn 
năng lượng tái tạo là rất lớn, đồng thời chúng 
thân thiện với môi trường và con người. Do đó, 
việc thay thế dần nhiên liệu hóa thạch bằng các 
nguồn năng lượng tái tạo là xu hướng tất yếu 
của các quốc gia. 
Việt Nam là một trong những quốc gia có 
tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, tuy nhiên 
do nhiều nguyên nhân dẫn đến sự nghiên cứu và 
phát triển của loại năng lượng này còn hạn chế. 
Để thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái 
tạo, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ 
thích hợp, đồng thời các trường Đại học phải có 
phương án đào tạo đội ngũ kỹ sư chuyên sâu về 
lĩnh vực này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Nguyễn Thế Chinh (2014), Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu 
phát triển kinh tế, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường ( 
Nguyễn Đức Cường (2012), Tổng quan về hiện trạng và xu hướng của thị trường năng lượng tái tạo 
của Việt Nam, Viện Năng lượng ( ). 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 50 (9/2015) 29
Hoàng Thị Thu Hường (2014), Thực trạng năng lượng tái tạo Việt Nam và hướng phát triển bền 
vững, Năng lượng Việt Nam ( 
Ecotricity (2015), The end of fossil fuels, UK (https://www.ecotricity.co.uk/our-green-
energy/energy-independence/the-end-of-fossil-fuels). 
Energy Information Agency (EIA) (2015), How much of the U.S. carbon dioxide emissions are 
associated with electricity generation?, USA. 
International Labour Office (ILO) (2011), Skills and Occupational Needs in Renewable Energy, 
ILO ( 
Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) (2012), IPCC Special Report on Renewable 
Energy Sources and Climate Change Mitigation, Cambridge University Press, USA. 
International Renewable Energy Agency (IRENA) (2014), Renewable energy and jobs annual 
review 2014, IRENA ( 
Nguyen D. L. (2014), “A Brief Overview on Assessments of Wind Energy Resource Potential in 
Vietnam”, J Fundam Renewable Energy Appl 4: 132. doi:10.4172/2090-4541.1000132. 
Nguyen N. H. (2013), “Overview of renewable energy in Vietnam”, 40th Meeting of APEC Expert 
Group on New and Renewable Energy Technology, HaNoi. 
Union of Concerned Scientists (UCS) (2014), Benefits of renewable energy use, USA 
( 
World Wildlife Fund (WWF), ECOFYS, OMA (2011), The energy report- 100% renewable energy 
by 2050, Switzerland. 
Abstract: 
RENEWABLE ENERGY IN VIET NAM: THE MAIN REASONS FOR THE 
DEVELOPMENT, RESOURCE POTENTIAL AND CURRENT STATUS 
OF EXPLOITATION 
Most of our energy supply comes from fossil fuels as coal, oil and natural gas. However, fossil fuel 
energy is not sustainable. Burning fossil fuels for energy is one of the main contributors to climate 
change and it has serious impact on human heath. Furthermore, fossil fuel reserves are finite and 
are becoming depleted. Therefore, it is very important to find alternative energy sources such as 
wind energy, solar energy, geothermal energy, biomass energy etc. that can supply clean, renewable 
energy to replace fossil fuels. In this paper, we give the main reasons why we need to devolope 
renewable energy, the potential as well as current status of renewable energy exploitation in 
Vietnam. Besides those, the primary barriers preventing us from developing and utilizing renewable 
energy sources are also presented. 
Key words: Renewable energy, wind, solar, geothermal, biomass, hydropower energy. 
BBT nhận bài: 17/6/2015 
Phản biện xong: 03/9/2015 

File đính kèm:

  • pdfnguyen_nhan_chu_yeu_thuc_day_su_phat_trien_tiem_nang_va_thuc.pdf