Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình: Nhìn dưới góc độ mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Mô hình tăng trưởng kinh tế (MHTTKT) ở VN trong gần 30 năm qua đã tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, cao trong thời gian nhất định; do đó, quy mô của nền kinh tế đã được mở

rộng đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá góp phần đưa nước

ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và bước vào hàng ngũ các

nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, MHTTKT

của VN cho đến nay chưa được định hình một cách hoàn chỉnh về mặt lý luận

và việc kéo dài MHTT này trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, mạnh mẽ

như hiện nay sẽ gây ra những hệ quả tiêu cực cả trong ngắn hạn và dài hạn và

nguy cơ VN rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu. Bài viết này có mục

đích là làm rõ nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình (BTNTB) dưới góc độ

“nguồn gốc” của MHTT. Từ đó luận giải sự lựa chọn MHTTKT phù hợp với

bối cảnh để tránh BTNTB.

pdf 5 trang kimcuc 20000
Bạn đang xem tài liệu "Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình: Nhìn dưới góc độ mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình: Nhìn dưới góc độ mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình: Nhìn dưới góc độ mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 24(34) - Tháng 09-10/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi 
12
1. Vài nét về mô hình tăng 
trưởng kinh tế và bẫy thu nhập 
trung mới bình
1.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế 
MHTTKT là cách diễn đạt cơ 
bản nhất về tăng trưởng kinh tế 
(TTKT) và các nhân tố tác động 
đến TTKT. Lý thuyết và MHTTKT 
đã trải qua những bước phát triển 
lớn lao: quan điểm về nguồn gốc 
của TTKT thay đổi theo thời gian 
với xu hướng ngày càng rõ ràng 
hơn, đầy đủ hơn những nhân tố chi 
phối sự tăng trưởng.
Thật vậy, việc tìm hiểu yếu tố 
nào tạo nên sự tăng trưởng đã trở 
thành một trong những câu hỏi 
trung tâm của kinh tế học. Xét một 
cách tổng thể, tăng trưởng kinh 
tế (TTKT) chịu sự tác động của 
nhiều nhân tố bao gồm các nhân 
tố kinh tế và phi kinh tế. Các nhân 
tố kinh tế bao gồm: Vốn vật chất, 
lao động, vốn con người, tiến bộ kỹ 
thuật. Đây là 4 nhân tố cơ bản tác 
động đến TTKT. Và còn các nhân 
tố kinh tế khác như: vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài (FDI), thương mại 
quốc tế, vai trò nhà nước và chi 
tiêu công cộng, cơ cấu ngành kinh 
tế, vai trò của doanh nghiệp nhà 
nước (Trần Thọ Đạt, 2010). Các 
nhân tố phi kinh tế gồm: văn hóa 
- xã hội, thể chế, sự tham gia của 
cộng đồng, dân chủ và phát triển 
Các nhân tố phi kinh tế có tác động 
gián tiếp đến TTKT và khó lượng 
hoá mức độ tác động của chúng 
đến TTKT.
Về lý thuyết và MHTTKT, sắp 
xếp và hệ thống theo thứ tự thời 
gian là như sau:
- Lý thuyết tăng trưởng cổ điển 
(thế kỷ XVIII), mà tiêu biểu là 
A.Smith và D.Ricardo.
- Lý thuyết tăng trưởng của 
C.Mác (thế kỷ XIX).
- Mô hình tăng trưởng của 
trường phái Keynes (thế kỷ XX).
- Mô hình tăng trưởng tân cổ 
điển (giữa thế kỷ XX).
- Mô hình tăng trưởng nội sinh 
(cuối thế kỷ XX) (PGS. TS Trần 
Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập 
trung bình: Nhìn dưới góc độ mô hình 
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
CHU VĂN CấP & NGUyễN ĐỨC HảI
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhận bài: 27/07/2015 - Duyệt đăng: 20/08/2015
Mô hình tăng trưởng kinh tế (MHTTKT) ở VN trong gần 30 năm qua đã tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, cao trong thời gian nhất định; do đó, quy mô của nền kinh tế đã được mở 
rộng đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá góp phần đưa nước 
ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và bước vào hàng ngũ các 
nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, MHTTKT 
của VN cho đến nay chưa được định hình một cách hoàn chỉnh về mặt lý luận 
và việc kéo dài MHTT này trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, mạnh mẽ 
như hiện nay sẽ gây ra những hệ quả tiêu cực cả trong ngắn hạn và dài hạn và 
nguy cơ VN rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu. Bài viết này có mục 
đích là làm rõ nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình (BTNTB) dưới góc độ 
“nguồn gốc” của MHTT. Từ đó luận giải sự lựa chọn MHTTKT phù hợp với 
bối cảnh để tránh BTNTB.
Từ khoá: Mô hình tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân, bẫy thu 
nhập trung bình, hội nhập quốc tế.
Số 24 (34) - Tháng 09-10/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi 
13
Thọ Đạt, 2010).
Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX 
đến nay, các nghiên cứu TTKT vĩ 
mô phát triển khá nhanh, với mục 
tiêu khám phá các nhân tố tác động 
tới TTKT của các quốc gia hay 
các vùng. Những nghiên cứu này 
khởi nguồn từ sự phát triển mạnh 
mẽ của các lý thuyết tăng trưởng 
nội sinh, nhưng được mở rộng bao 
hàm các chính sách, các vấn đề thể 
chế và đặc biệt là tích luỹ vốn con 
người.
1.2. Bẫy thu nhập trung bình là 
gì?
Từ quan điểm của Indermit 
Gill, chuyên gia kinh tế trưởng 
của WB, của Homi Kharas ở Viện 
Brookings và của GS. Kenichi 
Ohno, Viện Nghiên cứu chính sách 
quốc gia Nhật, có thể hiểu: Bẫy 
thu nhập trung bình là khái niệm 
chỉ tình trạng một quốc gia thoát 
nghèo, gia nhập vào nhóm nước có 
thu nhập trung bình, với mức GDP 
trong khoảng 1025-9.385USD 
người/năm nhưng mất nhiều thập 
kỷ vẫn không trở thành quốc gia 
phát triển (nước có GDP trên 9.385 
USD/người/năm và đạt các tiêu chí 
khác về phát triển công nghệ, kinh 
tế - xã hội, khả năng viện trợ cho 
nước ngoài Nói một cách khác 
ngắn gọn: Bẫy thu nhập trung bình 
là tình trạng bất lực, không thoát ra 
khỏi mô hình kinh tế dựa trên lao 
động rẻ và phương pháp sản xuất 
công nghệ thấp.
Thoát nghèo là cả một quá trình 
dài, phấn đấu không mệt mỏi của 
các quốc gia. Song, từ việc thoát 
nghèo đến thịnh vượng lại là một 
quá trình phức tạp, khó khăn hơn 
nhiều lần so với quá trình thoát 
nghèo. Vào những năm 80 của 
thế kỷ XX, rất nhiều nước có tốc 
độ tăng trưởng khá cao ở khu vực 
châu Á như: Indonesia, Malaysia, 
Philippines, Thái Lan và gần đây 
là Trung Quốc hoặc ở Trung 
Đông và Mỹ La tinh nhưng đến 
nay những nước này vẫn bị mắc 
kẹt trong bẫy thu nhập trung bình 
(TS. Đỗ Thị Đông, 2013, tr.272). 
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng 
vướng vào bẫy thu nhập trung bình 
được mô tả có thể bao gồm các vấn 
đề: (i) Sự suy giảm hiệu quả vốn 
đầu tư sau quá trình tăng trưởng 
kinh tế; (ii) Tiếp tục tình trạng của 
một nền kinh tế gia công (nền kinh 
tế trong nước không đủ sức tạo ra 
giá trị gia tăng mới để tham gia vào 
chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu 
do chất lượng nguồn nhân lực thấp; 
(iii) Sự thống trị của các tập đoàn 
mang thương hiệu nước ngoài; và 
(iv) Sự phân hoá thu nhập đưa đến 
phân cực trong xã hội.
2. Những hạn chế, yếu kém của 
mô hình tăng trưởng kinh tế và 
nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập 
trung bình
Mô hình tăng trưởng kinh tế 
mà VN thực hiện trong gần 30 
năm qua là MHTT theo chiều rộng 
- dựa trên cơ sở khai thác lợi thế 
về tài nguyên thiên nhiên, sức lao 
động giá rẻ và nguồn vốn đầu tư từ 
nước ngoài (vốn vay và vốn đầu tư 
trực tiếp nước ngoài), tuy đã tạo ra 
được tốc độ tăng trưởng cao, nhanh 
trong một thời gian nhất định và 
do đó quy mô của nền kinh tế, thu 
nhập bình quân đầu người đã được 
mở rộng và tăng khá. Nhưng, việc 
kéo dài MHTT này dang bộc lộ 
những điểm yếu cơ bản và nguy cơ 
VN rơi vào BTNTB là hiện hữu. 
Điều đó thể hiện ở một số điểm 
dưới đây:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng 
tương đối cao nhưng chưa tạo tiền 
đề để thoát khỏi BTNTB. Tốc độ 
TTKT trong 30 năm đổi mới vừa 
qua đạt trung bình khoảng 6-7%/
năm. Tuy nhiên, tăng trưởng không 
ổn định và đang có xu hướng giảm 
sút, nhất là từ năm 2008 đến nay, 
nền kinh tế không chỉ suy giảm về 
tốc độ tăng trưởng, mà còn bộc lộ 
những yếu kém và những bất ổn 
và báo hiệu tình trạng suy giảm và 
trì trệ kéo dài, tốc độ tăng trưởng 
giai đoạn 2011-2015 ước tính đạt 
trung bình dưới 6%/năm. Quy mô 
của nền kinh tế mặc dù đã được 
mở rộng đáng kể, nhưng vẫn còn 
ở mức rất thấp và có khoảng cách 
xa so với các nước phát triển trong 
khu vực. Chẳng hạn, năm 2011, 
GDP của VN tính bằng USD theo 
tỷ giá thực tế là 133,1 tỷ USD, trong 
khi đó, Indonesia: 846,8 tỷ USD, 
Thái Lan: 345,7 tỷ USD (Thời báo 
kinh tế VN, Kinh tế 2014-2015, 
tr.108). Trong các nước ASEAN, 
VN vẫn thuộc nhóm 4 quốc gia 
(Cămpuchia, Lào, Mianmar và 
VN) có mức thu nhập bình quân 
đầu người thấp nhất.
Thứ hai, chất lượng tăng 
trưởng thấp, khả năng để đạt mức 
thu nhập trung bình cao (từ 3.036-
9.385USD) là khá lâu dài.
Từ năm 2009 đến nay, VN liên 
tiếp đạt mức thu nhập bình quân 
đầu người năm sau cao hơn năm 
trước với mức tăng ấn tượng. Đến 
năm 2010 là GDP/người/năm đã 
đạt được 1.273 USD, năm 2011 
là 1.517 USD, năm 2012: 1.749 
USD, năm 2013: 1.908 USD và 
năm 2014 đạt: 2.053 USD (Thời 
báo kinh tế VN, Kinh tế 2014-
2015, tr.89). Với mức thu nhập 
1.273 USD/người, năm 2010, VN 
chính thức bước vào nước có mức 
thu nhập trung bình thấp.
Trong những năm qua, chất 
lượng và hiệu quả tăng trưởng 
thấp, tăng trưởng chủ yếu dựa vào 
các yếu tố chiều rộng: (1) Đóng 
góp của nhân tố năng suất tổng 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 24(34) - Tháng 09-10/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi 
14
hợp (TFP) vào tăng trưởng thấp 
và có xu hướng giảm sút trong các 
năm gần đây. Trong thời kỳ 1990-
2000 đóng góp 44% vào tăng 
trưởng GDP, đến giai đoạn 2001-
2010, phần đóng góp của TFP vào 
tăng trưởng chỉ có 26%, thấp hơn 
nhiều so với các nước trong khu 
vực (Hàn Quốc 32%, Thái Lan 
36%, Indonesia 28%) (Hội thảo 
khoa học, 2014); (2) Năng suất lao 
động của VN thấp hơn nhiều so với 
ASEAN, năm 2011, chỉ bằng 1/2 
và bằng 1/3,5 các nước Đông Á, 
chỉ bằng 1/16 của Singapore; (3) 
Hiệu quả đầu tư không cao, nhất 
là đầu tư công. Hệ số ICOR, giai 
đoạn 2001-2005 là 5,2 lần, giai 
đoạn 2006-2010 là 6,2 lần, giai 
đoạn 2011-2014 bình quân là 5,5 
lần (Thời báo kinh tế VN, Kinh tế 
2014-2015, tr.92); và (4) Trình độ 
công nghệ nhìn chung còn lạc hậu 
khá xa so với các nước trong khu 
vực. Theo đánh giá của WEF (Diễn 
đàn Kinh tế Thế giới) trình độ công 
nghệ của các doanh nghiệp VN xếp 
thứ 92/104 nước so sánh, năng lực 
cạnh tranh xếp thứ 77
Thứ ba, cơ cấu kinh tế lạc hậu, 
kém hiệu quả, chậm chuyển dịch 
theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tỷ 
trọng nông nghiệp (nông - lâm - 
thuỷ sản) hiện còn chiếm trên dưới 
20% trong GDP, tỷ trọng ngành 
công nghiệp - xây dựng chiếm xấp 
xỉ 40% GDP và dịch vụ chiếm xấp 
xỉ 40%. Nhưng điều đáng nói là: 
Cho đến nay vẫn thiếu vắng nhiều 
ngành công nghiệp trung gian đặc 
biệt là công nghiệp phụ trợ, nên 
hầu hết các ngành công nghiệp 
của VN là ngành “công nghiệp gia 
công”. Cơ cấu trình độ công nghệ 
của các ngành công nghiệp lạc hậu 
và chậm đổi mới công nghệ. Kết 
cấu hạ tầng giao thông, vận tải, 
năng lượng còn rất yếu kém so 
với các nước trong khu vực, chưa 
đủ sức làm nền tảng cho sự nghiệp 
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước.
Thứ tư, tăng trưởng kinh tế 
chưa gắn với yêu cầu phát triển 
bền vững.
Sự lan toả của tăng trưởng kinh 
tế đến các vùng sâu, vùng xa, đến 
các đối tượng dễ bị tổn thương 
chưa mạnh. Mức sống, mức thu 
nhập của dân cư có xu hướng giảm 
dần, nhiều vấn đề xã hội bức xúc 
chưa được giải quyết, nhất là giáo 
dục và đào tạo, y tế chăm sóc sức 
khỏe dân cư; xoá đói giảm nghèo 
chưa bền vững, khoảng cách giàu 
nghèo ngày càng lớn, sự gia tăng 
bất bình đẳng xã hội, đạo đức, lối 
sống trong một bộ phận xã hội 
xuống cấp, tội phạm và tệ nạn xã 
hội ngày càng nhiều.
Tình trạng ô nhiễm môi trường 
ở nước ta ngày càng trầm trọng; 
nguy cơ mất cân bằng sinh thái 
đang hiện hữu; MHTT theo chiều 
rộng đã tập trung khai thác các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự 
khai thác có tính chất tàn phá, huỷ 
diệt các nguồn tài nguyên thiên 
nhiên và sự phát triển các loại hình 
sản xuất không thân thiện với môi 
trường đã làm cho nguồn tài 
nguyên thiên nhiên nước ta ngày 
càng suy kiệt, cạn kiệt và làm giảm 
sút đa dạng sinh học.
Nguyên nhân của việc duy trì 
MHTT theo chiều rộng: 
Có nguyên nhân khách quan do 
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 
tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, 
thiên tai, dịch bệnh. Nhưng trực 
tiếp và chủ yếu vẫn là các nguyên 
nhân chủ quan như:
- Quan điểm chạy theo mục tiêu 
tăng trưởng nhanh và bệnh thành 
tích trong kinh tế.
- Những hạn chế về nguồn lực 
tăng trưởng theo chiều sâu (thiếu 
nguồn nhân lực chất lượng cao, 
thiếu công nghệ hiện đại).
- Chính sách đầu tư và những 
khiếm khuyết trong quản lý và sử 
dụng vốn đầu tư.
- Những bất cập trong quản lý 
và điều hành kinh tế vĩ mô.
Hệ luỵ
Những khiếm, khuyết, bất cập 
của MHTTKT này tất yếu dẫn đến 
những hệ luỵ trực tiếp trước mắt và 
triển vọng phát triển dài hạn. Đó 
là: 
- Đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 
khá, nhưng vẫn trong tình trạng tụt 
hậu so với các nước phát triển trong 
khu vực và trên thế giới. Ví dụ, nếu 
duy trì được tốc độ tăng trưởng như 
vừa qua thì thu nhập bình quân đầu 
người của VN để bằng mức hiện 
nay của Indonesia phải mất 5 năm, 
bằng mức của Thái Lan phải mất 
20 năm, Malaysia là 24 năm (đó là 
phép tính đặt trong trường hợp các 
nước đó “đứng yên”.
- Chất lượng và hiệu quả của 
nền kinh tế thấp và khi tài nguyên 
và lao động rẻ được khai thác “kịch 
trần” thì động lực tăng trưởng và 
phát triển sẽ không còn và VN sẽ 
rơi vào thời kỳ tăng trưởng thấp, 
không như mong muốn được nêu 
trong chiến lược phát triển kinh tế - 
xã hội 2011-2020 là 7-8%/năm và 
mục tiêu đến năm 2020 thu nhập 
bình quân đầu người theo giá thực 
tế đạt khoảng 3.000USD là không 
dễ dàng.
- Nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập 
trung bình”, như các chuyên gia 
kinh tế của ADB, IMF và nhiều tổ 
chức kinh tế đã đưa ra lời khuyến 
cáo đối với VN.
Vì vậy, lựa chọn MHTT sao 
cho vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, 
tăng nhanh thu nhập và cải thiện 
đời sống dân cư, đưa nền kinh tế 
Số 24 (34) - Tháng 09-10/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi 
15
tiến lên phía trước mà không bị rơi 
vào bẫy thu nhập trung bình, vừa 
giải quyết được vấn đề xã hội và 
bảo vệ môi trường sinh thái, được 
đặt ra một cách cấp bách.
3. Lựa chọn và thực thi mô hình 
tăng trưởng “mới” để tránh bẫy 
thu nhập trung bình
3.1. Bối cảnh lựa chọn MHTT 
mới
Trong bối cảnh các nước trên thế 
giới đang thực hiện tái cơ cấu nền 
kinh tế, hướng tới sự phát triển tăng 
trưởng xanh và bền vững; đất nước 
ta ngày càng hội nhập sâu, rộng, 
đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và 
khu vực trong khi nền kinh tế đang 
chịu sức ép lớn về ô nhiễm môi 
trường, và biến đổi khí hậu, nhất 
là nước biển dâng và những “điểm 
nghẽn” (sự yếu kém và không phù 
hợp của thẻ chế, chính sách, sự yếu 
kém của hệ thống kết cấu hạ tầng 
và chất lượng nguồn nhân lực thấp) 
cản trở quá trình tăng trưởng kinh 
tế, muốn đẩy mạnh tăng trưởng, 
phát triển kinh tế có hiệu quả, tránh 
bẫy thu nhập trung bình, tất yếu 
phải đổi mới MHTT.
3.2. Nội dung mô hình tăng 
trưởng mới 
MHTT của VN trong thời gian 
tới là lấy nâng cao năng suất lao 
động hiệu quả sử dụng các nguồn 
lực và sức cạnh tranh của nền kinh 
tế làm mục tiêu hàng đầu nhằm 
vừa đảm bảo phát triển kinh tế, 
vượt bẫy thu nhập trung bình, phát 
triển kinh tế gắn với bảo vệ môi 
trường và thực hiện tiến bộ, công 
bằng xã hội. Đại hội lần thứ XI của 
Đảng (2011) đã chỉ rõ: “Chuyển 
đổi mô hình tăng trưởng từ chủ 
yếu phát triển theo chiều rộng sang 
phát triển hợp lý giữa chiều rộng 
và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, 
vừa chú trọng nâng cao chất lượng, 
hiệu quả, tính bền vững”. “Phát 
triển kinh tế - xã hội phải luôn luôn 
coi trọng bảo vệ và cải thiện môi 
trường, phát triển kinh tế xanh”. 
Đó có thể coi là những nội dung cơ 
bản của MHTTKT mới, giai đoạn 
2011-2020 và tầm nhìn đến năm 
2030. Có thể hiểu và cụ thể hoá 
MHTTKT này như sau:
(1) Kết hợp hài hoà giữa tăng 
trưởng theo chiều rộng và chiều 
sâu, trong đó tăng trưởng theo 
chiều sâu là hướng tới chỉ đạo.
Điều này có nghĩa là VN vẫn 
phải tiếp tục huy động tối đa các 
nguồn vốn đầu tư, các nguồn lực 
khác, kết hợp các loại công nghệ 
có trình độ khác nhau để toàn dụng 
lao động; đồng thời, liên tục cải 
thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng 
các nguồn lực đó để có được tốc độ 
tăng trưởng cao, bền vững và liên 
tục trong nhiều năm.
TTKT theo chiều sâu là hướng 
chủ đạo thể hiện thông qua yêu 
cầu coi trọng năng suất, chất lượng 
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền 
kinh tế. Các ngành kinh tế trọng 
điểm, mũi nhọn phải từng bước đi 
vào hiện đại, phát huy ảnh hưởng 
lan toả đến sự phát triển các ngành 
kinh tế khác. Hướng đi này không 
chỉ thực hiện trong trung hạn, dài 
hạn, mà phải thực hiện ngay trong 
những năm đầu của tái cơ cấu kinh 
tế gắn với đổi mới MHTT và hướng 
đi này phải được đảm bảo bằng sự 
thay đổi căn bản chính sách đầu tư, 
trong đó, quan trọng là ưu tiên đầu 
tư nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực, nâng cao năng lực công nghệ 
nội sinh, hiện đại hoá kết cấu hạ 
tầng 
(2) MHTTKT mới theo hướng 
thân thiện với môi trường: TTKT đi 
đôi với sử dụng hợp lý và tiết kiệm 
tài nguyên; nâng cao khả năng tái 
sinh tài nguyên; phòng, chống suy 
thoái, ô nhiễm môi trường, coi 
trọng TTKT xanh, khuyến khích 
sản xuất và tiêu dùng sạch, bền 
vững.
(3) MHTT mới hướng tới mục 
tiêu phát triển con người: TTKT 
gắn với phát triển xã hội, trọng 
tâm là giải quyết việc làm, xoá đói 
giảm nghèo bền vững, phát triển hệ 
thống an sinh xã hội, bảo đảm bình 
đẳng dân tộc và bình đẳng giới; 
TTKT gắn với thực hiện tiến bộ, 
công bằng xã hội; TTKT gắn với 
nâng cao mức sống cho quảng đại 
quần chúng nhân dân thông qua 
chính sách phân phối và phân phối 
lại
Việc thực hiện có hiệu quả 
MHTT này là điều kiện hàng đầu 
để VN có thể thoát khỏi BTNTB 
và bước lên những nấc thang phát 
triển mới một cách vững vàng.
3.3. Thực thi mô hình tăng trưởng 
này đòi hỏi:
3.3.1. Đổi mới và tái cơ cáu nền 
kinh tế 
Phải coi đây là quá trình liên 
tục, thường xuyên, vừa cấp bách 
trước mắt, vừa lâu dài. Cơ cấu kinh 
tế phải vừa khai thác lợi thế cạnh 
tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để 
hình thành và xây dựng các lợi thế 
cạnh tranh trong tương lai ở một số 
ngành công nghệ cao, công nghiệp 
hiện đại, ngành dịch vụ có tiềm 
năng để từng bước đưa nền kinh tế 
nước ta đạt đến trình độ phát triển 
cao hơn và cuối cùng là trở thành 
một nền kinh tế phát triển.
3.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế theo hướng hội nhập và định 
hướng xuất khẩu
Kết nối được nền kinh tế nước 
ta với nền kinh tế khu vực và toàn 
cầu; cải thiện vị thế của từng doanh 
nghiệp, từng ngành và cả nền kinh 
tế trong chuỗi giá trị toàn cầu; đồng 
thời, chú ý hơn đến nhu cầu tiêu 
dùng của thị trường trong nước.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 24(34) - Tháng 09-10/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi 
16
3.3.3. Nâng cao hiệu quả các 
chỉ tiêu tăng trưởng 
Cần phải nâng cao hiệu quả của 
tăng trưởng, chuyển hướng hoạt 
động của nền kinh tế theo các khía 
cạnh chiều sâu của sự phát triển. 
Cụ thể là: Nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực, trình độ khoa 
học và công nghệ, tăng cường ảnh 
hưởng của các nhân tố năng suất 
tổng hợp (TFP), nâng cao hiệu quả 
sử dụng vốn, tăng năng suất lao 
động, hướng hoạt động của nền 
kinh tế theo các ngành, các lĩnh 
vực có giá trị gia tăng, giảm chi phí 
trung gian, chủ động sản xuất và 
xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa 
có dung lượng công nghệ cao trên 
cơ sở khai thác triệt để lợi thế của 
đất nước, thực hiện đồng bộ hoá 
quá trình khai thác và chế biến sản 
phẩm. Những điều đó đòi hỏi tăng 
cường đầu tư theo chiều sâu đối 
với các yếu tố nguồn lực làm nền 
tảng cho tăng trưởng bền vững dài 
hạn. Cụ thể là:
(1) Tăng đầu tư cho xây dựng 
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật 
tạo tiền đề cho TTKT dài hạn, bền 
vững. Chú trọng đầu tư phát triển hệ 
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật như 
kết cấu hạ tầng giao thông, năng 
lượng, cấp thoát nước, hạ tầng viễn 
thông, khu công nghiệp tập trung, 
khu công nghệ cao, các khu kinh 
tế mở Đồng thời quan tâm đầu 
tư phát triển hệ thống kết cấu hạ 
tầng thương mại, văn hóa - xã hội. 
Để có thể tăng tỷ trọng vốn thu hút 
vào đầu tư kết cấu hạ tầng cần đa 
dạng hoá hình thức và nguồn vốn 
đầu tư đặc biệt là khuyến khích 
tư nhân trong và ngoài nước đầu tư 
xây dựng kết cấu hạ tầng.
(2) Tăng cường đầu tư cho phát 
triển nguồn nhân lực. Đầu tư phát 
triển nguồn nhân lực được thể hiện 
trực tiếp nhất trong việc tăng cường 
đầu tư cho giáo dục và đào tạo. 
“Đầu tư cho giáo dục và đào tạo là 
đầu tư cho phát triển”, thực chất là 
đầu tư vào phát triển NNL. Đây là 
vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong 
mọi thời kỳ phát triển. Tăng đầu 
tư cho giáo dục và đào tạo sẽ giúp 
cho VN có được một lực lượng lao 
động có trình độ, có kỹ năng, có 
năng lực sáng tạo và đổi mới, và 
có năng lực thích ứng với hội nhập 
quốc tế
(3) Tăng đầu tư cho khoa học 
và công nghệ.
- Cần có một chiến lược dài hạn 
về đầu tư cho hoạt động nghiên 
cứu khoa học công nghệ, đầu tư có 
trọng tâm, trọng điểm để tạo bước 
đột phá về một số công nghệ cao 
có tác động tích cực đến nâng cao 
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền 
kinh tế.
- Tăng đầu tư cho khoa học 
và công nghệ lên mức khoảng 
1% GDP, đồng thời đẩy mạnh 
xã hội hoá, huy động mọi nguồn 
lực xã hội, nhất là của các doanh 
nghiệp cho phát triển khoa học và 
công nghệ. Giải pháp quan trọng 
cho việc tăng cường đầu tư cho 
đổi mới công nghệ là chính sách 
thu hút FDI. FDI phải nhằm mục 
tiêu nâng cấp công nghệ và nâng 
cấp nền kinh tế. Do đó, phải quan 
tâm đầu tư hấp thụ công nghệ và 
kỹ năng hơn là đầu tư tư liệu sản 
xuất, máy móc hay các nhà máy. 
Để thực hiện vấn đề này cần chú ý 
2 điểm mấu chốt: (1) Phải lựa chọn 
các nhà đầu tư và các dự án đầu tư 
phù hợp và (2) Tạo sức hấp dẫn và 
niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ 
vốn vào VN.
3.3.4. Hoàn thiện thể chế, tập 
trung vào thể chế kinh tế
Thể chế được hiểu là các ràng 
buộc do con người tạo ra nhằm quy 
định cấu trúc tương tác giữa người 
với người. Các thể chế chính trị - 
xã hội, kinh tế được thừa nhận 
có tác động đến quá trình phát triển 
của đất nước. Trong cuốn sách Tại 
sao các quốc gia thất bại - nguồn 
gốc của quyền lực, thịnh vượng 
và nghèo đói, Daron Acemoglu và 
James Robinson đã khẳng định: 
“Không phải lý do từ văn hóa, thời 
tiết hay yếu tố địa lý, cũng không 
phải do thiếu hiểu biết về những 
chính sách đúng đắn mà chính 
là thể chế kinh tế và chính trị do 
con người tạo ra là nguyên nhân 
căn bản cho sự thành công (hay 
không thành công) về kinh tế xã 
hội” (Daron Acemoglu và James 
Robinson, 2013).
(Xem tiếp trang 30)

File đính kèm:

  • pdfnguy_co_roi_vao_bay_thu_nhap_trung_binh_nhin_duoi_goc_do_mo.pdf