Nghiên cứu ứng dụng sét Kaolin và vỏ trấu làm vật liệu lọc nước dưới đất nhiễm Mangan

Bài báo trình bày kết quả sử dụng hỗn hợp sét kaolin phối trộn với vỏ trấu để chế tạo

thiết bị lọc nước ô nhiễm Mn2+. Hỗn hợp sét kaolin và vỏ trấu được định hình ở dạng chậu lọc với

tỷ lệ sét kaolin: vỏ trấu (75:25%) ở nhiệt độ nung 1.000 oC. Kết quả thí nghiệm với hàm lượng Mn2+

đầu vào 5,0 0,5 mg/L cho thấy sau khi lọc, hàm lượng Mn2+ đã giảm xuống 0,32 mg/L (xấp xỉ với

giá trị cho phép của nước uống QCVN 01:2009/BYT là 0,30 mg/L). Kết quả nghiên cứu đã khẳng

định hiệu quả của các thiết bị lọc làm từ sét kaolin kết hợp với vỏ trấu để xử lý hiệu quả các nguồn

nước dưới đất ô nhiễm Mn2+.

pdf 6 trang kimcuc 8660
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ứng dụng sét Kaolin và vỏ trấu làm vật liệu lọc nước dưới đất nhiễm Mangan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ứng dụng sét Kaolin và vỏ trấu làm vật liệu lọc nước dưới đất nhiễm Mangan

Nghiên cứu ứng dụng sét Kaolin và vỏ trấu làm vật liệu lọc nước dưới đất nhiễm Mangan
17TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
Ban Biên tập nhận bài: 12/2/2020 Ngày phản biện xong: 23/3/2020 Ngày đăng bài: 25/04/2020
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SÉT KAOLIN VÀ VỎ TRẤU
LÀM VẬT LIỆU LỌC NƯỚC DƯỚI ĐẤT 
NHIỄM MANGAN
Từ Thị Cẩm Loan1, Hoàng Thị Thanh Thủy1, Hà Thị Thu Trang1
Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả sử dụng hỗn hợp sét kaolin phối trộn với vỏ trấu để chế tạo
thiết bị lọc nước ô nhiễm Mn2+. Hỗn hợp sét kaolin và vỏ trấu được định hình ở dạng chậu lọc với
tỷ lệ sét kaolin: vỏ trấu (75:25%) ở nhiệt độ nung 1.000 oC. Kết quả thí nghiệm với hàm lượng Mn2+
đầu vào 5,0 0,5 mg/L cho thấy sau khi lọc, hàm lượng Mn2+ đã giảm xuống 0,32 mg/L (xấp xỉ với
giá trị cho phép của nước uống QCVN 01:2009/BYT là 0,30 mg/L). Kết quả nghiên cứu đã khẳng
định hiệu quả của các thiết bị lọc làm từ sét kaolin kết hợp với vỏ trấu để xử lý hiệu quả các nguồn
nước dưới đất ô nhiễm Mn2+. 
Từ khóa: Sét kaolin, vỏ trấu, mangan, vật liệu lọc, nước dưới đất.
1. Mở đầu
Hiện nay, nguồn nước sử dụng cho sinh hoạt
ở nước ta được khai thác từ nước mặt và nước
dưới đất. Trong đó, nước dưới đất (NDĐ) cấp cho
đô thị chiếm 40%, nông thôn chiếm 70 - 80%.
Tuy nhiên, hàm lượng Mn trong NDĐ ở một số
khu vực đã vượt quy chuẩn QCVN 09 -
MT:2015/BTNMT (0,5 mg/L). Ví dụ như ở Hà
Nội (1,26 - 2,8 mg/L) [6]; huyện Vĩnh Phú, tỉnh
Bình Dương (3,57 mg/L) [8]; TP.HCM (tầng
Pliocen giữa (0,80 mg/L) và và Pliocen hạ (0,95
mg/L) [4]. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cũng đã
phát hiện một số mẫu dị biến có hàm lượng Mn
từ 2,53 đến 4,40 mg/L [5]. Trong cuộc sống Mn
là nguyên tố vi lượng cần thiết cho nhu cầu dinh
dưỡng hàng ngày (30 - 50 µg/Kg trọng lượng cơ
thể). Tuy nhiên ở nồng độ cao Mn sẽ trở nên độc
hại. Khi nhiễm Mn lâu ngày sẽ gây ảnh hưởng
đến sức khỏe của con người, có thể gây ra hội
chứng được gọi là “manganism”, gây ảnh hưởng
đến hệ thần kinh trung ương, bao gồm các triệu
chứng như đau đầu, mất ngủ, viêm phổi, run chân
tay, đi lại khó khăn, co thắt cơ mặt, tâm thần phân
liệt và thậm chí gây ảo giác [6].
Mn cũng như các kim loại khác có thể được
loại bỏ trong nước bằng các phương pháp truyền
thống như oxy hóa bằng oxy không khí, oxy hóa
bằng hóa chất, phương pháp sinh học, hấp phụ,
v.v. Phương pháp oxy hóa bằng O2 không khí, kỹ
thuật vận hành đơn giản, chi phí trung bình được
ứng dụng ở quy mô hộ gia đình hoặc công nghiệp
nhỏ với hàm lượng Mn đầu vào thấp, hiệu quả
oxy hóa thấp nếu trong nước tồn tại nhiều chất
như H2S, NH3 hoặc tạp chất hữu cơ. Phương pháp
oxy hóa bằng các hóa chất như Clor, Ozon,
KMnO4, H2O2 có hiệu suất xử lý cao, có thể loại
bỏ Mn ở hàm lượng cao kể cả trong trường hợp
nước có nhiều chất ô nhiễm khác. Tuy nhiên
phương pháp này có chi phí đầu tư ban đầu cao
và kỹ thuật vận hành phức tạp so với phương
pháp oxy hóa bằng oxy không khí. Phương pháp
sinh học là vi sinh vật sử dụng một phần mangan
làm chất dinh dưỡng cho quá trình tăng trưởng
và chủ yếu là chuyển hóa Mn (II) thành Mn (IV)
dưới dạng MnO2 kết tủa bám trên bề mặt vật liệu
lọc, đây là giải pháp thân thiện với môi trường
nhưng tốc độ phản ứng tương đối chậm [7].
Chính vì vậy, hấp phụ đã trở thành một giải pháp
hợp lý do có nhiều ưu điểm: hiệu quả xử lý cao,
giá thành rẻ, quy trình công nghệ đơn giản. Có
rất nhiều loại chất hấp phụ tự nhiên hoặc biến tính
1Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.
Hồ Chí Minh
Email: ttcamloan121@gmail.com
DOI: 10.36335/VNJHM.2020(712).17-22
± 
 (1) 
18 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
hoặc tổng hợp đã được sử dụng. Ví dụ như than
hoạt tính là một chất hấp phụ truyền thống đã
được sử dụng rất rộng rãi. Tuy nhiên, do giá
thành cao và yêu cầu kỹ thuật phức tạp để tăng
hiệu quả hấp phụ các chất ô nhiễm vô cơ nên
cacbon hoạt tính chủ yếu sử dụng để xử lý nước
thải công nghiệp. Và một trong những sản phẩm
cạnh tranh do giá thành và hiệu suất xử lý chính
là các khoáng sét tự nhiên như montmorillonite,
zeolite và kaolin. Các nghiên cứu đã triển khai đã
chứng minh kaolin là một vật liệu hấp phụ tự
nhiên có hiệu quả để loại bỏ Mn trong nước dưới
đất. Dawodu và cs (2014) đã triển khai thí
nghiệm khảo sát khả năng hấp phụ Mn2+ của sét
kaolin từ Nigeria. Kết quả cho thấy khả năng hấp
phụ Mn2+ có thể lên đến 111,11 mg/g [1]. Tương
tự, trước đó nghiên cứu của Yavuza cũng cho
thấy kaolin là một vật liệu hấp phụ triển vọng đối
với Mn (0,446 mg/g) và các kim loại khác [5]. 
Trong nghiên cứu trước đây của Loan và cs
(2019) [10] đã nghiên cứu chế tạo được chén lọc
từ hỗn hợp sét kaolin và vỏ trấu. Hỗn hợp được
tạo hình dưới dạng chén gốm sứ dung tích 50 mL,
bề dày thành chén 0,5 cm. Nghiên cứu này đã xác
định điều kiện tạo hình và nhiệt độ nung chén lọc
tối ưu từ 900 - 1.100 oC. Tuy nhiên, do kích thước
của vật liệu lọc quá nhỏ nên thời gian lọc rất
chậm. Chính vì vậy, mục tiêu của giai đoạn
nghiên cứu này là tiếp tục các thí nghiệm với quy
mô lớn hơn để có thể tiến tới ứng dụng trong thực
tế xử lý nước dưới đất bị nhiễm Mn. 
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu
- Sét kaolin đã qua chế biến của Công ty KT
& CB KS Tân Uyên FiCo và vỏ trấu được công
ty TNHH Hòa Kiến Nhân (Đồng Tháp) cung cấp.
Cả hai vật liệu được nghiền bằng cối và chày sứ,
sau đó cho qua rây kích thước lỗ 0,25 mm [2].
- Nước mẫu thí nghiệm là nước giếng có bổ
sung Mn2+ dưới dạng muối MnSO4. H2O 99%,
(Scharlau, Tây Ban Nha) có hàm lượng Mn2+
khoảng 5,0 0,5 mg/L, nước giếng được sử dụng
không chứa Mn2+ (CMn < GHPH). 
2.2. Tạo vật liệu lọc
Nghiên cứu này là bước phát triển tiếp theo
của nghiên cứu giai đoạn trước [10], do đó quá
trình tạo hình vật liệu cũng qua các giai đoạn như
sau: 
a. Tạo hình dạng chậu lọc từ khuôn thạch cao
với hỗn hợp sét kaolin và vỏ trấu có trọng lượng
là 1.000 g, với kích thước cụ thể: chiều cao 12
cm, đường kính miệng 15 cm đường kính đáy 10
cm và bề dày thành chậu 1 cm (Hình 1);
b. Bay hơi nước hoàn toàn chậu lọc bằng tủ
sấy ở 100 oC. Sau đó, lấy chậu lọc ra khỏi khuôn
thạch cao trước khi đưa chậu lọc vào lò nung; 
c. Nung ở những nhiệt độ 900 - 1.100 oC.
2.3. Mô hình thí nghiệm
2.3.1. Khảo sát tỷ lệ phối trộn vật liệu hấp phụ
phù hợp 
Trên cơ sở nghiên cứu trước đây của Loan và
cs (2019), các tỷ lệ phối trộn ở nghiên cứu này
giữa sét kaolin và vỏ trấu theo khối lượng như
sau: TN1 (90:10), TN2 (80:20), TN3 (75:25),
TN4 (60:40) và TN5 (50:50) % [10]. Các chậu
lọc này được nung ở cùng nhiệt độ là 900 oC.
2.3.2. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ nung 
Trên cơ sở xác định tỷ lệ phối trộn thích hợp
(thí nghiệm 2.3.1), tiến hành các thí nghiệm để
khảo sát ảnh hưởng của khoảng nhiệt độ nung từ
900 đến 1.100 oC [10] đến hiệu quả xử lý Mn2+
trong NDĐ. 
2.3.3. Đề xuất mô hình lọc nước nhiễm Mn2+
Từ kết quả nghiên cứu 2.3.2 đề xuất mô hình
thí nghiệm (chậu lọc) phù hợp dựa trên các cơ sở
sau: (i) hiệu quả xử lý Mn2+, (ii) Điều kiện chế
tạo chậu lọc ổn định và (iii) giá thành. 
2.3.4. Hiệu quả hấp phụ Mn2+
Công thức tính toán hiệu quả hấp phụ Mn2+
được trình bày ở công thức (1), cụ thể như sau:
(1)
± 
 (1) 
 (1) 
Hình 1. Chậu lọc sau khi nung 
v r
v
C - CH(%) = *100%
C
 (1) 
19TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
Trong đó Cv là nồng độ ion Mn2+ trong mẫu
đầu vào (mg/L); Cr là nồng độ ion Mn2+ trong
mẫu sau lọc (mg/L).
Kết quả xác định hiệu quả xử lý của mỗi mô
hình thí nghiệm được theo dõi kiểm tra trong
khoảng thời gian 0 - 24 hoặc 48 giờ.
2.3.5. Phương pháp phân tích - Thí nghiệm
a. Hàm lượng Mn2+ trong nước được phân
tích theo Standard Methods for the Examination
of Water and Wastewater (SMEWW 3500-Mn
(B):2012).
b. Lưu lượng nước lọc của vật liệu hấp phụ
được xác định thông qua lượng nước thu được
sau mỗi giờ lọc trong điều kiện nước được xử lý
được cho vào liên tục đảm bảo thể tích nước
trong chậu lọc là như nhau trong thời gian lọc. 
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng tỷ lệ phối trộn giữa sét
kaolin và vỏ trấu làm vật liệu hấp phụ 
Qua kết quả thí nghiệm (Hình 2) cho thấy lưu
lượng lọc và hiệu suất hấp phụ Mn2+ tăng tỷ lệ
thuận với lượng trấu phối trộn ở cả hai dạng chậu
cũng như chén. Chỉ có một ngoại lệ là hỗn hợp
với tỷ lệ (50:50%) có hiệu suất xử lý thấp hơn
so với tỷ lệ (60:40%).
Ở thí nghiệm dạng chậu cho hiệu quả xử lý
Mn2+ dao động khoảng 79,4 - 75,4% tương ứng
với lượng vỏ trấu cho vào từ 10 - 25%. Kết quả
này cũng tương tự như mô hình thí nghiệm dạng
chén trước đây (85,65 - 84,04%).
Ở tỷ lệ vỏ trấu 50% (TN5 - Hình 2a, TN5 -
Hình 2b) tốc độ lọc rất nhanh tương ứng 1.021
mL/giờ, 116,67 mL/giờ, nhưng khả năng hấp
phụ Mn2+ không tốt, hàm lượng Mn2+ còn lại
tương ứng (0,69; 0,95 mg/L) đều cao hơn so với
tiêu chuẩn nước giếng QCVN 09 -
MT:2015/BTNMT (< 0,5 mg/L). Ở các mô hình
có hàm lượng sét kaolin cao (90, 80 và 75%) thì
lưu lượng lọc khá chậm lần lượt là 4,4; 5,0; 10,5
mL/giờ. Tuy nhiên, khi tỷ lệ sét giảm đi
(60:40%) và (50:50%) lưu lượng lọc tăng nhanh
tương ứng gấp 64,85 và 97,23 lần so với tỷ lệ
(75:25%) (Qlọc 10,5 mL/giờ). Theo nghiên cứu
trước đây đã cho thấy khi nung ở nhiệt độ trên
600 oC, chất hữu cơ trong vỏ trấu bị phân hủy
tạo thành hỗn hợp SiO2 và cacbon vô định hình
có cấu trúc xốp, rỗng tạo ra khoảng trống khá lớn
nên tuy tốc độ lọc tăng [9]. Nhưng khi lượng trấu
lên đến 50% thì tốc độ lọc quá nhanh (1.021
mL/giờ) đã làm giảm thời gian tiếp xúc giữa vật
liệu hấp phụ và chất bị hấp phụ dẫn đến khả năng
làm giảm hiệu quả xử lý của chậu lọc. 
Hình 2. Hiệu quả xử lý Mn2+ ứng với mô hình lọc dạng chậu (a), dạng chén (b)
 (1) 
79.4 78.8
75.4
90.4
86.2
4.4 5
10.5
681
1021
0
200
400
600
800
1000
1200
TN1
90:10
TN2
80:20
TN3
75:25
TN4
60:40
TN5
50:50
65
70
75
80
85
90
95
Lư
u l
ượ
ng
 (m
l/g
iờ)
Tỷ lệ phối trộn (%)
Hi
ệu
 su
ất 
(%
)
Hiệu suất (%) Lưu lượng (ml/giờ)
84.5
85.65 85.2 84.04
78.8
2.08 8.33
50
66.67
116.67
0
20
40
60
80
100
120
140
74
76
78
80
82
84
86
88
TN1
100:0
TN2
90:10
TN3
80:20
TN4
75:25
TN5
50:50
Lư
u l
ượ
ng
 (m
l/g
iờ)
Hi
ệu
 su
ất 
(%
)
Tỷ lệ phối trộn (%)
Hiệu suất (%) Lưu lượng (ml/giờ)
(a) (b)
Tóm lại, với tỷ lệ sét và trấu (60:40%) là tỷ lệ
có hiệu quả xử lý Mn2+ cao nhất, tương ứng
90,4%. Hàm lượng Mn2+ còn lại trong mẫu thí
nghiệm (0,48 mg/L). Bên cạnh đó lưu lượng lọc
đạt 681 mL/giờ/Kg vật liệu lọc xấp xỉ so với các
sản phẩm lọc nước hiện nay. Ví dụ như sản
phẩm của công ty Hưng Thịnh đạt hiệu quả 322
- 677 mL/giờ/Kg đất sét. Tỷ lệ này được lựa
chọn để triển khai thí nghiệm khảo sát ảnh
hưởng của nhiệt độ nung. Ngoài ra, nhóm nghiên
cứu cũng chọn thêm hỗn hợp tỷ lệ sét cao hơn
(75:25%) để thí nghiệm. Lý do chọn tỷ lệ
20 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
Hình 3. Chậu lọc được nung ở 1.100oC
(75:25%) dựa trên kết quả thí nghiệm trước đây
ở mô hình chén đã cho thấy cùng tỷ lệ sét: trấu,
lưu lượng lọc tăng khi nhiệt độ nung tăng [10].
Thêm vào đó, ở tỷ lệ này sử dụng ít vỏ trấu hơn
thì khả năng trộn đều hỗn hợp và sự kết dính
giữa hai vật liệu sẽ tốt hơn. 
3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung 
Kết quả nghiên cứu trước đây của Loan và cs
(2019) đã cho thấy hiệu quả xử lý Mn2+ tăng tỷ
lệ với nhiệt độ nung trong khoảng từ 900 đến
1.100 oC. Do đó, chậu lọc đã được nung thử
nghiệm ở nhiệt độ > 900 oC. Ở điều kiện 1.000
oC thì các chậu lọc vẫn được định hình tốt. Tuy
nhiên, nếu tăng nhiệt độ nung đến 1.100 oC thì
các chậu lọc có tỷ lệ trấu ≥ 25% đều bị nứt (Hình
3). Như đã nêu ở trên, nhiệt độ nung quá cao đã
ảnh hưởng đến cấu trúc vật liệu lọc. 
Qua kết quả bảng 1 cho thấy với tỷ lệ phối
trộn (60:40%) và nhiệt độ nung 900 oC có lưu
lượng lọc cũng khá tốt (681 mL/giờ). Tuy nhiên,
lưu lượng này vẫn thấp hơn khi vật liệu được
nung ở nhiệt độ 1.000 oC (1.180 mL/giờ). Ở cả
hai mô hình thí nghiệm dạng chén và dạng chậu
đều cho thấy khi nhiệt độ tăng thì lưu lượng lọc
đều tăng. Như đã trình bày ở trên, do trong thành
phần của chậu lọc có một lượng trấu nhất định
nên khi nhiệt độ nung tăng đã làm tăng độ xốp
của chậu lọc và có thể đã dẫn đến tăng độ lỗ rỗng
[10]. Để có kết luận chính xác hơn thì cần thực
hiện các nghiên cứu xác định độ lỗ rỗng cũng
như cấu trúc của vật liệu lọc ở các nhiệt độ nung
khác nhau. Cả hai chậu lọc có tỷ lệ phối trộn
(75:25 và 60:40 %) ở nhiệt độ nung 1.000 oC đều
cho hiệu quả xử lý rất tốt, hàm lượng Mn2+ trong
nước sau xử lý lần lượt là 0,32 và 0,37 mg/L.
Hàm lượng này đã đạt xấp xỉ yêu cầu với tiêu
chuẩn nước uống của Bộ Y tế QCVN
01:2009/BYT.
3.3. Đề xuất mô hình lọc nước nhiễm Mn
Từ các kết quả nêu trên đã cho thấy nếu dựa
vào ba tiêu chí (i) hiệu quả xử lý Mn2+, (ii) vật
liệu phối trộn cũng là vật liệu tự nhiên dễ kiếm
và thân thiện với môi trường và (iii) giá thành
thì hai mô hình với hỗn hợp sét kaolin và vỏ trấu
ở các tỷ lệ (75:25%) và (60:40%) được nung ở
nhiệt độ 1.000 oC là phù hợp nhất. Hai mô hình
này đều có hiệu quả hấp phụ cao (93,6 và
92,6%). Tuy nhiên, nếu áp dụng trong thực tế thì
mô hình (75:25%) có nhiều ưu thế hơn. Mặc dù
lưu lượng lọc chậm hơn so với mô hình
(60:40%) (38 mL/giờ) nhưng khả năng đồng
nhất hỗn hợp sét và vỏ trấu đơn giản hơn. Vì nếu
sử dụng hỗn hợp (60:40%) thì đòi hỏi sét và trấu
phải được trộn đều, nếu hỗn hợp không đồng
nhất sẽ dẫn đến bề mặt chậu lọc có độ rỗng
không đồng đều, hiệu suất hấp phụ Mn2+ sẽ
giảm. 
Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã xác định được
các thông số cơ bản của mô hình lọc Mn2+. Một
chậu lọc với kích thước 10x15x12x1 (cm) được
chế tạo từ hỗn hợp sét kaolin:vỏ trấu với tỷ lệ
(75:25%) ở nhiệt độ nung 1.000 oC là mô hình
hiệu quả, có thể sử dụng để loại bỏ Mn2+ trong
nước ngầm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy hỗn hợp sét
kaolin và vỏ trấu có thể được phối trộn để chế
tạo các vật liệu lọc nhằm loại bỏ Mn2+ trong
nước dưới đất. Khối lượng vật liệu hấp phụ và
nhiệt độ nung là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả xử lý Mn2+ trong nước cũng
như lưu lượng lọc. Lưu lượng lọc tăng tỷ lệ
thuận với khối lượng vỏ trấu phối trộn với sét
 (1) 
Bảng 1. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến hiệu
quả xử lý Mn2+ của chậu lọc
Tỷ lệ sØt và trấu (%) Lưu lượng lọc (mL/giờ) 
CMn2+ sau lọc 
(mg/L) 
1/. To nung: 900 oC 
(75 : 25) 10,5 1,23 
(60 : 40) 681 0,48 
2/. To nung: 1.000 oC 
(75 : 25) 38 0,32 
(60 : 40) 1.180 0,37 
21TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
kaolin. Mô hình chậu lọc từ tỷ lệ hỗn hợp sét
kaolin: vỏ trấu (75:25%) và nung ở nhiệt độ
1.000 oC đã cho thấy khả năng hấp phụ Mn khá
tốt. Hàm lượng Mn2+ ban đầu (5,0 0,5 mg/L)
đã giảm đến 0,32 mg/L. hàm lượng Mn2+ sau xử
lý đạt chất lượng nước ngầm QCVN 09 -
MT:2015/BTNMT (< 0,5 mg/L) và xấp xỉ giá trị
giới hạn của tiêu chuẩn nước uống
QCVN01:2009/BYT (< 0,3 mg/L). Các vật liệu
sét kaolin và vỏ trấu sử dụng trong nghiên cứu
đều là vật liệu hấp phụ tự nhiên, thân thiện môi
trường và chi phí thấp. Tuy nhiên, còn nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hấp phụ của mô hình
lọc (kỹ thuật trộn đều hai vật liệu, giai đoạn tạo
hình chậu lọc, bề dày thành chậu,...). Do đó,
trong thời gian tới cần có những nghiên cứu tiếp
theo để có thể nâng cao hiệu suất và ứng dụng
mô hình lọc vào thực tế. 
± 
 (1) 
Tài liệu tham khảo
1. Dawodu, F.A., Akpomie, K.G. (2014), Simultaneous adsorption of Ni(II) and Mn(II) ions from
92014m aqueous solution onto a Nigerian kaolinite clay. Journal of Materials Research and Tech-
nology, 3 (2), 129-141.
2. Kamel, M.M., Ibrahm, M.A., Ismael, A.M., El-Motaleeb, M.A. (2004), Adsorption of some
heavy metal ions from aqueous solutions by using kaolinite clay. Assiut University Bulletin for En-
vironmental Researches, 07, 101-110. 
3. Nguyễn Văn Niệm, Phạm Văn Thanh (2007), Hiện trạng nhiễm mặn, ô nhiễm Mn - Fe và các
hợp chất Nitơ trong nước của các tầng chứa nước Holocen và Pleistocen vùng Quảng Nam - Đà
Nẵng. Tạp chí Địa chất, 300 (5-6). 
4. Nguyễn Việt Kỳ, Lê Thị Tuyết Vân (2013), Ô nhiễm Mangan trong nước dưới đất tầng Pleis-
tocen khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Các khoa học về Trái đất, 35 (1), 81-87. 
5. Yavuza, O., Altunkaynak, Y., Uzel, F.G. (2003), Removal of copper, nickel, cobalt and man-
ganese from aqueous solution by kaolinite. Water Resources, 37, 948-952.
6. Trần Hoàng Mai (2011), Luận văn Thạc sỹ Nghiên cứu sự ô nhiễm mangan trong nước giếng
khoan và sự tích lũy trong cơ thể người dân tại xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm, Hà Nội, tr. 3-4. 
7. Trần Thu Thủy (2000), Xử lý nước sinh hoạt và công nghiệp, dân tại xã Thượng Cát, huyện
Từ Liêm, Hà Nội. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà nội. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội,
tr. 198-220. 
8. Trung tâm Quan trắc - Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo
kết quả quan trắc chất lượng nước dưới đất địa bàn tỉnh Bình Dương 2017. 
9. Trương Phương Linh (2017), Tổng hợp vật liệu lọc từ vỏ trấu ứng dụng xử lý nước thải trường
đại học Cửu Long. Tạp chí đại học Cửu Long, 64-73. 
10. Từ Thị Cẩm Loan, Hoàng Thị Thanh Thủy, Hà Thị Thu Trang, Hellen Fournet (2019), Nghiên
cứu ứng dụng sét kaolin làm vật liệu hấp phụ Mangan trong nước. Kỷ yếu hội nghị: Nghiên cứu cơ
bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 124-127. 
11. Zereffe, E.A. (2017), Clay Ceramic Filter for water Treatment. Materials Science and Applied
Chemistry, 34, 69-74. 
22 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2020
BÀI BÁO KHOA HỌC
STUDY ON APPLYCATION OF KAOLIN CLAY AND RICE HUSK
AS SORBENT TO REMOVE MANGANESE IN THE GROUNDWATER 
Tu Thi Cam Loan1, Hoang Thi Thanh Thuy, Ha Thi Thu Trang1
1Hochiminh City University of Natural Resources and Environment 
Abstract: This study investigates the usage of a mixture of kaolin and rice husk in order to pro-
duce a filtration device for Mn2+ contaminated groundwater. The mixture of kaolin and rice husk is
shaped into a filter-pot figure with the ratio (75:25) and heating temperature of 1,000 oC. After fil-
tration, initial Mn2+ concentration of 5.0 0.5mg/L in groundwater has decreased to 0,32mg/L (ap-
proximately equivalent to allowable concentration for drinking water QCVN 01:2009/BYT, which
is 0,30 mg/L). The results of the experiment have emphasized that a high efficiency and low-price
filter device of natural clay and rice husk can be used to treat Mn2+ contaminated groundwater. 
Keywords: Kaolin clay, rice husk, manganese, filter, groundwater.
±
 (1) 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_dung_set_kaolin_va_vo_trau_lam_vat_lieu_loc_n.pdf