Nghiên cứu trường hợp sử dụng trị liệu chơi không định hướng trong can thiệp hành vi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ

Trẻ có rối loạn phổ tự kỉ (RLPTK) gặp nhiều khó

khăn trong giao tiếp và tương tác xã hội, cùng với các

vấn đề về hành vi như tự kích thích, bùng nổ, tăng động,

tự làm tổn thương Việc can thiệp, giáo dục nói chung

và can thiệp hành vi cho trẻ RLPTK nói riêng là một công

việc hết sức khó khăn và đầy thách thức đối với giáo viên

và phụ huynh học sinh. Nghiên cứu chỉ ra rằng, có nhiều

chiến lược can thiệp cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ và thực tế

nhất đối với việc can thiệp trẻ là nên kết hợp cả 2 cách

tiếp cận phát triển và hành vi càng sớm càng tốt [1; tr 75].

Sử dụng chơi trong can thiệp, trị liệu là phương pháp theo

hướng tiếp cận phát triển.

Đối với trẻ nhỏ, hoạt động chơi cung cấp cho trẻ các

cách thức để thể hiện những kinh nghiệm, cảm xúc một

cách tự nhiên, đó là phương tiện quan trọng để trẻ hiểu

và chấp nhận bản thân mình và người khác [2], [3]. Chính

vì thế, chơi là một trong những hoạt động giúp người lớn

tiếp cận với trẻ một cách tự nhiên nhất. Thông qua chơi,

nhà can thiệp dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu các hành vi có

vấn đề và các hành vi nảy sinh từ những nhu cầu, cảm

xúc của trẻ.

pdf 7 trang kimcuc 7240
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu trường hợp sử dụng trị liệu chơi không định hướng trong can thiệp hành vi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu trường hợp sử dụng trị liệu chơi không định hướng trong can thiệp hành vi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ

Nghiên cứu trường hợp sử dụng trị liệu chơi không định hướng trong can thiệp hành vi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
147 
Email: thanhttm@hnue.edu.vn 
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG TRỊ LIỆU CHƠI KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG 
TRONG CAN THIỆP HÀNH VI CHO TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỈ 
Trần Thị Minh Thành - Cao Thị Phong 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Ngày nhận bài: 20/9/2018; ngày chỉnh sửa: 25/10/2018; ngày duyệt đăng: 30/11/2018. 
Abstract: The article mentioned the results of research on application of non-orientated play 
therapy with a 6-year-old boy with high autism spectrum disorder. The study was conducted for 
12 weeks with 24 individual sessions, each lasting 30 minutes. Information is collected by video 
recording, recorded and analyzed both quantitatively and qualitatively. Data show that after 3 
months of using non-oriented play therapy, this boy has significantly reduced problematic 
behaviors such as waving, shouting, hurting himself,... and increasing positive behaviors such as 
proactive, fun and interact with teachers. 
Keywords: Play therapy, non-oriental play, autism spectrum disorder, behavioral intervention. 
1. Mở đầu 
Trẻ có rối loạn phổ tự kỉ (RLPTK) gặp nhiều khó 
khăn trong giao tiếp và tương tác xã hội, cùng với các 
vấn đề về hành vi như tự kích thích, bùng nổ, tăng động, 
tự làm tổn thương Việc can thiệp, giáo dục nói chung 
và can thiệp hành vi cho trẻ RLPTK nói riêng là một công 
việc hết sức khó khăn và đầy thách thức đối với giáo viên 
và phụ huynh học sinh. Nghiên cứu chỉ ra rằng, có nhiều 
chiến lược can thiệp cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ và thực tế 
nhất đối với việc can thiệp trẻ là nên kết hợp cả 2 cách 
tiếp cận phát triển và hành vi càng sớm càng tốt [1; tr 75]. 
Sử dụng chơi trong can thiệp, trị liệu là phương pháp theo 
hướng tiếp cận phát triển. 
Đối với trẻ nhỏ, hoạt động chơi cung cấp cho trẻ các 
cách thức để thể hiện những kinh nghiệm, cảm xúc một 
cách tự nhiên, đó là phương tiện quan trọng để trẻ hiểu 
và chấp nhận bản thân mình và người khác [2], [3]. Chính 
vì thế, chơi là một trong những hoạt động giúp người lớn 
tiếp cận với trẻ một cách tự nhiên nhất. Thông qua chơi, 
nhà can thiệp dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu các hành vi có 
vấn đề và các hành vi nảy sinh từ những nhu cầu, cảm 
xúc của trẻ. 
Trị liệu chơi là một phương pháp trị liệu tâm lí đối 
với trẻ em, trong đó các nhà trị liệu sử dụng đồ chơi, các 
biểu tượng có ý nghĩa của trò chơi của trẻ để hiểu và giao 
tiếp với trẻ. Mục tiêu của trị liệu chơi là làm giảm thiểu 
các khó khăn trong hành vi và cảm xúc của trẻ; giúp cải 
thiện ngôn ngữ diễn đạt, năng lực tự quan sát, khả năng 
kiểm soát sự bốc đồng, lo sợ, thất vọng, cải thiện lòng tin 
cậy và mối liên hệ với người khác. Trị liệu chơi được sử 
dụng để xử lí các vấn đề hành vi gây trở ngại trong sự 
phát triển bình thường của trẻ em [4]. 
Khái quát các nghiên cứu về trị liệu chơi trên thế giới 
cho thấy phương pháp này được hình thành từ những 
năm 20 của thế kỉ XX. Càng ngày, trò chơi được sử dụng 
như một phương pháp can thiệp, giáo dục trẻ càng được 
quan tâm và nhiều lí thuyết về trò chơi đã được xây dựng, 
nhiều kĩ thuật và mục đích trị liệu chơi đã được phát hiện 
bởi các nhà tâm lí học và giáo dục học như Anna Freud, 
David Levy 
Can thiệp cho trẻ tự kỉ mới được quan tâm ở Việt 
Nam trong khoảng mười năm trở lại đây. Sở dĩ có sự 
chậm trễ này là vì một phần do lĩnh vực giáo dục đặc biệt 
chưa được quan tâm đúng mức, một phần do văn hóa, 
các gia đình Việt Nam khó chấp nhận tình trạng tự kỉ của 
con mình. Những năm gần đây, một số nhà tâm lí, giáo 
dục học ở Việt Nam đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu ứng 
dụng các phương pháp, chiến lược can thiệp cho trẻ rối 
loạn phổ tự kỉ. Đáng chú ý là nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Thị Hoàng Yến [5], Nguyễn Nữ Tâm An về các 
phương pháp can thiệp trẻ tự kỉ như TEACCH [6], Đỗ 
Thị Thảo [7], Phạm Hải Yến về sử dụng trò chơi [8], 
Đinh Nguyễn Trang Thu về biện pháp phát triển kĩ năng 
giao tiếp và tương tác xã hội [9] và Trần Thị Minh Thành 
về đánh giá và lập kế hoạch can thiệp [10] đã cung cấp 
những gợi ý quan trọng đối với cả thực hành và nghiên 
cứu về can thiệp giáo dục trẻ tự kỉ tại Việt Nam. Tuy 
nhiên, cho đến nay, trị liệu chơi vẫn chưa được nghiên 
cứu một cách bài bản cả về lí luận và thực hành. 
Bài viết mô tả kết quả sử dụng các nguyên tắc trị liệu 
chơi không định hướng (hay còn gọi là “chơi không 
hướng dẫn”) của Axline [4] trong quá trình can thiệp cho 
một trẻ có rối loạn tự kỉ mức nặng. Kết quả nghiên cứu 
đưa ra những khuyến nghị có giá trị đối với việc sử dụng 
trị liệu chơi để can thiệp trẻ rối loạn tự kỉ. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
148 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số vấn đề lí luận về trị liệu chơi và các nguyên 
tắc chơi trị liệu của Axline 
Chơi là một hoạt động tự do, tự nguyện; trong khi 
chơi, các mối quan hệ của con người với tự nhiên và với 
xã hội được mô phỏng lại, nó mang đến cho người chơi 
một trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái và dễ chịu [2]. 
Chơi được khẳng định là phương tiện phát triển toàn diện 
cho trẻ. Tuy nhiên, không phải phụ huynh học sinh nào 
ở Việt Nam hiện nay cũng nhận ra điều đó, họ chỉ muốn 
con mình đến trường được học chứ không phải chơi. 
“Trị liệu chơi” có thể được định nghĩa là một cách thức 
để tạo nên những trải nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa 
nhà trị liệu với những trẻ em (hoặc người trẻ tuổi), trong 
đó chơi là một môi trường giao tiếp chủ yếu trong trị liệu 
trẻ em. Mục đích trong trị liệu trẻ em là để chức năng cảm 
xúc và chức năng xã hội của trẻ trở lại với mức độ ngang 
tầm với giai đoạn phát triển của lứa tuổi sao cho trẻ có thể 
lấy lại tiến trình phát triển bình thường [5]. 
Liệu pháp “chơi không hướng dẫn” là một phương pháp 
tiếp cận hiệu quả và ít gây xâm phạm trong làm việc với trẻ 
em và người trẻ có vấn đề khó khăn tâm lí; có thể được sử 
dụng bởi những nhà chuyên môn làm việc trực tiếp với những 
trẻ em có vấn đề tổn thương về cảm xúc trong những cơ sở 
chăm sóc trẻ em, các trung tâm sức khỏe tâm thần và cả 
những cơ sở làm công tác xã hội thiện nguyện. Liệu pháp này 
dựa trên các nguyên lí của tâm lí trị liệu không hướng dẫn 
được phát triển bởi Carl Rogers tại Hoa Kì và được điều chỉnh 
bởi Virginia Axline để áp dụng vào trị liệu tâm lí cho trẻ em. 
Triết lí nền tảng của liệu pháp chơi không hướng dẫn chính là 
điều hiện hữu trong tất cả mọi con người, đó chính là khuynh 
hướng tự hiện thực hóa bản thân (self-actualization) cả ở 
người lớn lẫn ở trẻ em. Giả định được đặt ra là khi trẻ có cơ 
hội tự do giải bày các cảm xúc của chính mình, trẻ sẽ tìm thấy 
các giải pháp để giải quyết các khó khăn về cảm xúc của bản 
thân và trẻ sẽ sử dụng nhà trị liệu cùng các trải nghiệm trong 
khi chơi để thực hiện điều đó. 
Điều rất quan trọng trong khi tiến hành liệu pháp là 
cần phải hết sức lưu tâm đến những nhu cầu cần được 
giúp đỡ của chính đứa trẻ thay vì chỉ tập trung vào những 
việc như khảo sát hoặc đánh giá (những việc mà đôi khi 
chiếm nội dung chủ yếu trong công việc của nhà trị liệu). 
Liệu pháp chơi không hướng dẫn được trình bày ở đây 
có liên quan đến việc thiết lập một mối quan hệ đặc biệt 1-
1: giữa nhà trị liệu và trẻ; trong đó, nhà trị liệu tạo nên một 
bầu khí làm việc có tính an toàn và đáng tin cậy mà qua đó 
đứa trẻ có thể cảm thấy tự do để giải bày và khám phá những 
cảm xúc cũng như những ý nghĩ của chính bản thân trẻ. Đứa 
trẻ có thể giao tiếp một cách trực tiếp thông qua lời nói (cả 
cách nói cụ thể lẫn cách nói có ẩn ý) hoặc một cách gián tiếp 
thông qua hành vi và nội dung chơi. 
Công việc của nhà trị liệu là lắng nghe, thấu hiểu và 
đáp ứng lại với trẻ bằng cách thức sao cho có thể giúp trẻ 
hiểu được nhiều hơn những cảm xúc của chính mình. 
Những khía cạnh tiêu cực về cảm xúc sẽ mất đi sức mạnh 
chi phối của chúng khi trẻ được phép giải bày và được 
trải nghiệm những cảm xúc ấy trong một mối quan hệ có 
tính chấp nhận giữa trẻ với nhà trị liệu. Điều được nhấn 
mạnh trong liệu pháp này là giúp trẻ chuyển từ tình trạng 
phó mặc bản thân cho những cảm xúc giấu kín kia sang 
trạng thái làm chủ hơn đối với những cảm xúc ấy [11]. 
V. Axline (1947) đã đưa ra 8 nguyên tắc cơ bản trong 
chơi không định hướng như sau: 
- Nhà trị liệu phải phát triển một mối quan hệ thân 
thiện, nồng ấm với đứa trẻ qua đó một mối liên hệ gắn bó 
phải được hình thành càng sớm càng tốt. 
- Nhà trị liệu phải chấp nhận đứa trẻ như chính con 
người của trẻ. 
- Nhà trị liệu phải giúp hình thành một cảm nhận về 
sự cho phép trong mối quan hệ này sao cho trẻ cảm thấy 
tự do trong việc thể hiện những cảm xúc của mình một 
cách trọn vẹn. 
- Nhà trị liệu phải sáng suốt nhận ra những cảm xúc 
mà trẻ đang thể hiện và phản ảnh lại bằng một cách thức 
sao cho trẻ có thể thấu hiểu được những hành vi của 
chính bản thân mình. 
- Nhà trị liệu duy trì một sự tôn trọng sâu sắc đối với 
khả năng của trẻ trong việc tự giải quyết vấn đề của mình 
miễn là được tạo cơ hội. Trách nhiệm lựa chọn và thực 
hiện sự thay đổi là việc của bản thân đứa trẻ. 
- Nhà trị liệu không cố gắng hướng dẫn trẻ làm gì, nói 
gì dưới bất kì hình thức nào. Đứa trẻ là người dẫn đường, 
nhà trị liệu theo sau. 
- Nhà trị liệu không cố thúc đẩy tiến trình trị liệu đi 
tới. Cần hiểu rằng đây là một tiến trình lâu dài, từ từ. 
- Nhà trị liệu chỉ nên thiết lập những giới hạn cần thiết 
để gắn kết tiến trình trị liệu với thực tế đời sống và giúp trẻ 
nhận ra trách nhiệm của trẻ trong mối quan hệ trị liệu này. 
Axline cũng nhấn mạnh rằng liệu pháp không hướng 
dẫn là một tiến trình hợp nhất, trong đó mỗi nguyên lí nêu 
trên có tính đan xen và tương quan phụ thuộc với các 
nguyên lí khác. Vì thế, nhà trị liệu vừa phải có lòng tin vào 
sức mạnh của thân chủ trong việc tự giải quyết vấn đề, 
chấp nhận thân chủ như chính con người vốn có của họ, 
sẵn sàng cho phép thân chủ lựa chọn và sẵn lòng tôn trọng 
các quyết định của họ vừa phải có khả năng tham gia tích 
cực, tạo lập bầu khí và các giới hạn trong phòng chơi. 
Điều làm cho liệu pháp này khác biệt với những cách 
thức can thiệp và các liệu pháp khác chính là bản chất 
“không hướng dẫn”. Chính đứa trẻ là người chọn lựa các 
trọng tâm và chủ đề khi chơi trong phòng trị liệu, bên 
trong những ranh giới, khuôn khổ được vạch ra một cách 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
149 
cẩn thận. Vai trò của nhà trị liệu là tạo lập nên một mối 
quan hệ thân tình và tin cậy lẫn nhau, phản ảnh và đáp 
ứng lại các ý nghĩ, cảm xúc và hoạt động theo cách sao 
cho trẻ có thể tự giải quyết các vấn đề cảm xúc của mình 
bằng chính cách thức mà trẻ lựa chọn. Nhà trị liệu phải 
đảm nhận trách nhiệm của một người lớn trong việc bảo 
đảm sự an toàn cho trẻ, gìn giữ vật liệu chơi, phòng chơi 
và ấn định khuôn khổ thời gian hoạt động. Bên trong 
những giới hạn được thiết lập rõ ràng như thế, bầu khí 
của phòng chơi trị liệu phải thực sự thư giãn. Hành vi và 
cách giao tiếp của nhà trị liệu phải tạo nên nơi trẻ những 
cảm nhận về sự an toàn và tin cậy, từ đó nếu trẻ muốn, 
trẻ sẽ tự do giải bày và khám phá các chủ đề nổi trội trong 
cảm xúc của trẻ. 
2.2. Sử dụng trị liệu chơi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ 
2.2.1. Mục đích nghiên cứu 
Nghiên cứu nhằm xem xét những ảnh hưởng của trị 
liệu chơi đối với việc giảm thiểu các hành vi không phù 
hợp và hình thành, phát triển các hành vi tích cực cho trẻ 
có rối loạn phổ tự kỉ. 
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu trường hợp được 
sử dụng trong nghiên cứu này. Nghiên cứu đã lựa chọn 1 
trường hợp bé trai 6 tuổi đã được chẩn đoán tự kỉ nặng, 
có nhiều vấn đề về hành vi. 
* Đối tượng tham gia: 
Đối tượng tham gia các buổi trị liệu chơi là bé trai 
Nguyễn Thanh H. sinh ngày 28/11/ 2011, sống tại tỉnh 
Thái Nguyên. H đã được can thiệp tâm lí, giáo dục tại 
trung tâm được 9 tháng, 1 thành viên của nhóm nghiên 
cứu là giáo viên của bé. H đã được chẩn đoán tại Bệnh 
viện Nhi trung ương là bị tự kỉ mức nặng vào ngày 
9/3/2015. Sau đó H được can thiệp cá nhân tại trung tâm 
1 giờ mỗi buổi, 5 buổi/ tuần, thời gian còn lại H học ở 
trường mầm non hòa nhập. 
Kết quả đánh giá khả năng và nhu cầu của H vào ngày 
15/12/2016 như sau: 
- Ngôn ngữ: H hiểu được những yêu cầu đơn giản của 
giáo viên như lại đây, ngồi xuống Đôi lúc bé tự bật nói 
ra một số từ như: về, mẹ, đi, không, bimbim. H hay phát 
ra các âm thanh vô nghĩa như mimi, aaaaa, mì à Khi 
muốn uống nước, ăn bánh kẹo hoặc đồ ăn yêu thích H 
cầm lấy tay người bên cạnh để lấy đồ cho. 
- Tương tác xã hội: H rất hạn chế về kĩ năng giao tiếp 
và tương tác xã hội. H thường chơi một mình, tránh tiếp 
xúc, giao tiếp mắt với người khác, bị thu hút bởi các hành 
vi rập khuôn. Tuy nhiên, khi được hỗ trợ, H có thể tham 
gia chơi các trò chơi với bạn bè ở mức độ đơn giản như 
lăn bóng cho bạn, đưa đồ vật khi được nói “cho cô xin”. 
- Nhận thức và các kĩ năng khác: H biết chỉ tay vào các 
bộ phận trên khuôn mặt giáo viên khi được hỏi nhưng chưa 
biết chỉ vào các bộ phận trên mặt mình. H có thể thể hiện 
cảm xúc với các tình huống thích, không thích, giận giữ, 
vui vẻ, muốn đi về. H biết tự mặc quần áo, đi vệ sinh ở nhà 
vệ sinh. H không thích thú đặc biệt với đồ chơi hoặc trò 
chơi nào, chưa biết chơi chức năng. H tỏ ra thích thú hơn 
cả với các trò chơi vận động và kích thích cảm giác. H có 
nhiều vấn đề về hành vi như đập đầu vào bàn, la hét, vẫy 
tay, chạy nhảy lăng xăng, ôm ghì chặt người khác 
* Can thiệp: Can thiệp bằng trị liệu chơi không định 
hướng cho bé H được tiến hành trong 12 tuần, mỗi tuần 
có 2 buổi chơi và mỗi buổi kéo dài 30 phút. 
Quá trình can thiệp được tiến hành qua các bước sau: 
Bước 1: Tìm hiểu khả năng, nhu cầu hiện tại của trẻ 
Bước 2: Xác định các hành vi có vấn đề cần can 
thiệp ở trẻ 
Bước 3: Xây dựng môi trường chơi 
Bước 4: Tiến hành can thiệp và quan sát, ghi chép sau 
mỗi buổi chơi 
Bước 5: Đánh giá kết quả sau mỗi tuần. 
- Môi trường can thiệp: Nghiên cứu được tiến hành 
tại trung tâm can thiệp sớm nơi trẻ đang được can thiệp 
hàng ngày. Các buổi chơi được tiến hành tại phòng chơi 
với các đồ chơi phù hợp với khả năng và sở thích của H, 
bao gồm những đồ chơi kích thích thị giác, xúc giác và 
các đồ chơi phát triển vận động. Vì H không thích nghe 
các âm thanh lớn hoặc chói tai nên nhóm nghiên cứu 
không sử dụng các loại đồ dùng gây ra những kích thích 
mạnh vào thính giác của trẻ. 
- Cách thức thu thập và xử lí thông tin: Thông tin 
được thu thập bằng cách quay video mỗi buổi chơi và ghi 
chép lâm sàng. Số liệu được phân tích cả về mặt định 
lượng và định tính. 
2.2.3. Kết quả nghiên cứu 
2.2.3.1. Tần suất xuất hiện các hành vi không mong 
muốn trước can thiệp 
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành quan sát trẻ trong 3 
buổi mỗi buổi 30 phút. Bản tóm tắt sau đây thể hiện 
những hành vi có vấn đề của H. 
Bảng 1. Các hành vi cần can thiệp ở H 
STT Hành vi 
Trung bình số lần 
xuất hiện hành vi 
trong 30 phút 
1 Chạy nhảy lăng xăng 12 
2 Vẫy tay 14 
3 
Đập đầu vào bàn, 
tường, người khác 
4 
4 La hét, khóc 2 
5 
Ôm ghì chặt người đối 
diện giật tóc, cấu 
3 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
150 
Những hành vi được liệt kê ở bảng trên được xác định 
là những hành vi cần can thiệp để giảm thiểu tối đa. 
Những hành vi trên nếu không được can thiệp sẽ làm ảnh 
hưởng đến việc học tập, sinh hoạt và giao tiếp xã hội của 
trẻ do tần suất xuất hiện nhiều (vẫy tay, chạy lăng xăng) 
hoặc cường độ mạnh, mức độ ảnh hưởng khá nghiêm 
trọng (đập đầu, la hét, giật tóc, ôm ghì người khác). 
Sau khi quan sát, xác định những hành vi mục tiêu, 
nghiên cứu đã tiến hành áp dụng các nguyên tắc trị liệu 
chơi của Axline đối với bé H. Trong đó, kế hoạch chơi 
với H đã được thiết lập với thời gian là 30 phút/ lần và 2 
lần/ tuần. Phòng chơi được sắp xếp một cách rõ ràng và 
có cấu trúc, trong đó trưng bày các đồ chơi hấp dẫn, mời 
mọc trẻ. Trẻ được tự do lựa chọn đồ chơi và chơi với 
chúng. Người chơi cùng trẻ luôn tạo một sự gần gũi, thân 
thiện với trẻ, tôn trọng trẻ, bắt chước cách chơi của trẻ và 
làm mẫu hành vi đúng. 
2.2.3.2. Kết quả sau 3 tháng can thiệp 
* Hành vi chạy nhảy lăng xăng (xem biểu đồ 1) 
Biểu đồ 1 cho thấy, hành vi chạy nhảy lăng xăng của 
trẻ có sự giảm đi đáng kể sau 3 tháng can thiệp bằng trị 
liệu chơi. Ban đầu, trước khi can thiệp, hành vi chạy nhảy 
lăng xăng là 27 lần trong 1 tuần. Ở tuần thứ nhất, sau khi 
can thiệp, hành vi này giảm xuống còn 25 lần. Sau đó ở 
tuần thứ 3 thực nghiệm hành vi này tiếp tục giảm xuống 
còn 23 hành vi. Trong 2 tháng đầu tiên, số hành vi chạy 
nhảy lăng xăng mỗi tuần giảm từ 2 đến 3 lần. Từ tuần 
đầu tiên cho tới tuần thứ 7 đã giảm 15 lần (từ 27 lần 
xuống còn 12 lần). Từ tuần thứ 8 trở đi hành vi này chỉ 
còn xuất hiện 3-6 lần/ tuần. 
* Hành vi vẫy tay (xem biểu đồ 2) 
Trước khi can thiệp, hành vi này xuất hiện trung bình 
28 lần trong 1 tuần. Ở tuần thứ nhất áp dụng nguyên tắc 
trị liệu chơi, hành vi này giảm còn 26 lần trong một tuần. 
Tuy nhiên, ở tuần thứ 2, hành vi này không hề giảm so 
với trước thực nghiệm mà vẫn xuất hiện 28 lần. Những 
tuần sau, hành vi vẫy tay bắt đầu giảm dần và giảm nhiều 
nhất ở tuần thứ 9 thực nghiệm. Trong tuần thứ 9 hành vi 
vẫy tay chỉ xuất hiện 5 lần ít hơn trước thực nghiệm 19 
lần. Ở tuần thứ 10, 11 và 12, hành vi này duy trì ở mức 
6-7 lần/ tuần. 
* Hành vi đập đầu vào bàn, vào tường và vào người 
khác (xem biểu đồ 3) 
Ban đầu, hành vi đập đầu vào bàn, tường và người 
khác xuất hiện 5-6 lần/ tuần. Những tuần sau, hành vi này 
giảm dần, có tuần trẻ không xuất hiện lần nào (tuần 10, 
tuần 11). 
*Hành vi la hét, ôm ghì người khác (xem biểu đồ 4) 
27
25
23
20
18
16 16
12
3
5 6 6
0
5
10
15
20
25
30
Trước 
khi can 
thiệp
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Ban đầu
Biểu đồ 1. Hành vi chạy nhảy lăng xăng 
Biểu đồ 2. Hành vi vẫy tay 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
151 
Đối với hành vi la hét, khóc, đây là một trong những 
hành vi khó chịu nhất của H trước khi thực nghiệm. 
Trước thực nghiệm, hành vi này xuất hiện trung bình 6 
lần/ tuần, thời gian khóc và la hét kéo dài, có lúc đến 20 
phút. Tuần đầu tiên thực nghiệm hành vi này có giảm 
xuống còn 4 lần. Đến tuần thứ 10 và 11 hành vi này 
không xuất hiện lần nào. Ở tuần thứ 12 hành vi này chỉ 
xuất hiện 1 lần. 
Hành vi ôm ghì người đối diện xuất hiện trung bình 
8 lần một tuần. Ở tuần đầu tiên khi ứng dụng nguyên tắc 
trị liệu chơi hành vi này chưa có sự thay đổi, vẫn xuất 
hiện 8 lần trong tuần 1. Sau đó hành vi này bắt đầu giảm 
đi cho đến không còn xuất hiện vào tuần thứ 10, 11, 12. 
Biểu đồ trên cho thấy sau 3 tháng thực nghiệm các 
hành vi không mong muốn của H đều giảm đáng kể so 
với ban đầu. Hành vi vẫy tay là hành vi có tần suất xuất 
hiện cao nhất so với các hành vi còn lại và cũng có sự 
giảm thiểu đáng kể nhất. Tháng thứ nhất hành vi này xuất 
hiện 98 lần, sang tháng thứ 2 xuất hiện 80 lần giảm 13 
lần trong 1 tháng và tháng thứ 3 xuất hiện 25 lần giảm 63 
lần so với tháng thứ nhất. 
Hành vi điển hình xảy ra nhiều thứ 2 đó là hành vi 
chạy nhảy lung tung, tháng đầu tiên hành vi này xuất hiện 
93 lần nhưng tháng thứ 2 chỉ xuất hiện 67 lần giảm 26 
lần và tháng thứ 3 xuất hiện 18 lần giảm 49 lần so với 
tháng thứ nhất thực nghiệm. 
Hành vi ôm ghì chặt người đối diện, ở tháng thứ nhất 
hành vi này xuất hiện 25 lần sang tháng thứ 2 chỉ xuất 
hiện 12 lần và tháng thứ 3 xuất hiện có 2 lần. 
Hành vi đập đầu vào tường, bàn, người khác ở tháng 
đầu xuất hiện 19 lần nhưng sang tháng thứ 2 giảm còn 12 
lần (giảm 7 lần) và chỉ còn 2 lần (giảm 17) ở tháng thứ 3. 
Hành vi cuối cùng là hành vi la hét, khóc: trong tháng 
đầu tiên thực nghiệm xuất hiện 17 lần, sang tháng thứ 2 
còn 11 lần giảm 6 lần, tháng thứ 3 xuất hiện 2 lần giảm 
15 lần so với tháng thứ nhất. 
0
1
2
3
4
5
6
7
Tuần 1 T 2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Biểu đồ 3. Tần suất hành vi đập đầu vào bàn, tường và người khác 
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Trước
CT
T2 T4 T6 T8 T10 T12
ôm ghì
la hét
Biểu đồ 4. Tần suất hành vi la hét, khóc và ôm ghì chặt người đối diện 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
152 
 Ngoài kết quả trong việc cải thiện những hành vi bất 
thường của trẻ RLPTK, chúng tôi còn nhận thấy, trị liệu 
chơi không định hướng còn giúp trẻ có những tiến bộ 
trong kĩ năng chơi, kĩ năng tương tác xã hội và cảm xúc. 
* Những hành vi tích cực của trẻ được hình thành sau 
khi áp dụng trị liệu chơi không định hướng 
Qua 3 tháng thực nghiệm ứng dụng các nguyên tắc trị liệu 
chơi của Axline trong việc can thiệp hành vi cho trẻ RLPTK 
ngoài kết quả của sự thay đổi các hành vi không mong muốn 
thì trẻ còn có những thay đổi tích cực trong các kĩ năng chơi 
và tương tác xã hội và cảm xúc. Các hành vi tích cực của trẻ 
được hình thành và phát triển (xem biểu đồ 6). 
Biểu đồ 6 cho thấy sự chú ý, quan tâm đối với người 
khác của H thay đổi nhiều nhất trong 3 tháng thực 
nghiệm. Ở tháng đầu tiên sự chú ý chỉ xuất hiện 7 lần 
nhưng sang tháng thứ 2 xuất hiện 12 lần tăng 5 lần so với 
tháng 1 và tháng thứ 3 xuất hiện 26 lần tăng 19 lần so với 
tháng 1 và 14 lần so với tháng thứ 2. Trẻ chú ý đến các 
hoạt động của cô, có thể trẻ tham gia hoặc không tham 
gia nhưng vẫn dõi theo hoạt động cô làm. 
Trong quá trình trị liệu chơi sự thay đổi về tình cảm 
của trẻ cũng được thể hiện rất tích cực. Trước thực 
nghiệm, trẻ thờ ơ với các hoạt động mà giáo viên tổ chức, 
thường đắm chìm vào những hành vi tự kích thích của 
bản thân. Sau một thời gian áp dụng trị liệu chơi, trẻ bắt 
đầu thể hiện sự hứng thú và vui thích khi chơi. Ở tháng 
thứ nhất trẻ thể hiện sự vui thích 10 lần, sang tháng thứ 2 
là 15 lần, tháng thứ 3 là 20 lần. 
Một trong những thay đổi đáng chú ý nữa đó là sự 
tương tác trong quá trình chơi, khi chơi trẻ biết phản hồi 
đáp lại với những kích thích từ cô giáo, biết thể hiện sự 
mong muốn của mình, thích hoặc không thích tham gia. 
Ở tháng đầu tiên, sự đáp lại xuất hiện 3 lần, sang tháng 
thứ 2 xuất hiện 10 lần (tăng 7 lần), sang tháng thứ 3 xuất 
hiện 19 lần (tăng thêm 16 lần) so với tháng thứ nhất. 
Thay đổi trong khả năng bắt chước đứng ở vị trí thứ 
4. Trong tháng thứ nhất trẻ bắt chước 7 lần, tháng thứ 2 
xuất hiện 13 lần, tháng thứ 3 xuất hiện 15 lần. 
93
98
19 17
25
67
80
12 11 12
18
25
2 4 2
0
20
40
60
80
100
120
Chạy nhảy Vẫy tay Đập đầu La hét Ôm ghì
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Biểu đồ 5. Tần suất xuất hiện các hành vi trong 3 tháng thực nghiệm 
0
20
40
60
80
100
120
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Cảm xúc
Chú ý
Đáp lại
Chủ động
Bắt chước
Biểu đồ 6. Sự phát triển kĩ năng chơi và các kĩ năng khác của H 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 147-153 
153 
Sự chủ động khi chơi của trẻ cũng được cải thiện 
đáng kể. Ban đầu, trẻ không chủ động khởi xướng trò 
chơi, chỉ chạy nhảy lăng xăng, vẫy tay hoặc đi lại không 
mục đích. Trong tháng đầu tiên trẻ đã chủ động khởi 
xướng trò chơi 9 lần, sang tháng thứ 2 xuất hiện 16 lần, 
tháng thứ 3 xuất hiện 18 lần. Đến tuần thứ 12 H đã chủ 
động ra chỗ cô, nhìn cô cười và rủ cô chơi cùng. 
2.2.3.3. Một số bàn luận từ kết quả nghiên cứu trường 
hợp 
Việc áp dụng phương pháp trị liệu chơi không định 
hướng của Axline trong can thiệp hành vi cho một trẻ 
tự kỉ mức độ nặng đã có những kết quả khả quan, đáng 
ghi nhận. Sau 3 tháng sử dụng trị liệu chơi, H không chỉ 
giảm các hành vi không phù mà còn gia tăng các kĩ năng 
khác như chú ý đến người khác, tích cực tham gia chơi, 
đáp lại mong muốn khi chơi, bộc lộ cảm xúc và khả 
năng bắt chước. 
Điều quan trọng của người trị liệu chơi là phải tạo lập 
được bầu không khí vui vẻ, ấm áp khi chơi với trẻ. Nhà 
trị liệu phải luôn tôn trọng trẻ, chấp nhận trẻ như là chính 
con người trẻ, cho trẻ chủ động trong môi trường của nó 
song lại phải tinh tế nhận ra những vấn đề của trẻ và khéo 
léo thiết lập những giới hạn và quy tắc để giúp trẻ phát 
triển các kĩ năng và hành vi tích cực một cách tự nhiên. 
3. Kết luận 
Những khiếm khuyết cốt lõi của trẻ có rối loạn tự kỉ 
là kĩ năng tương tác, giao tiếp xã hội và hành vi rập 
khuôn, định hình. Việc can thiệp những vấn đề cốt lõi 
của trẻ tự kỉ là một thách thức đối với phụ huynh, giáo 
viên và những nhà chuyên môn. Sau 3 tháng áp dụng 
phương pháp trị liệu chơi không định hướng của Axline 
cho thấy, trị liệu chơi không định hướng có thể làm giảm 
các hành vi có vấn đề của trẻ có RLPTK, đồng thời giúp 
trẻ phát triển các kĩ năng tương tác xã hội, kĩ năng chơi 
và cảm xúc của trẻ. 
Trị liệu chơi không định hướng là một phương pháp 
hiệu quả đối với việc can thiệp hành vi cho trẻ rối loạn 
phổ tự kỉ. Chơi là hoạt động khuyến khích trẻ tham gia 
và hợp tác nhất, chính vì thế giáo viên và phụ huynh cần 
học kĩ năng chơi với trẻ, khuyến khích trẻ chơi, phát triển 
các hoạt động chơi cho trẻ. Trong quá trình chơi với trẻ, 
người lớn không nên nóng vội, cần chú ý đến cảm xúc 
của trẻ và phải từ từ cho trẻ chấp nhận giáo viên như một 
người bạn chơi thân thiết. Trong khi chơi không hướng 
dẫn, người can thiệp luôn tuân thủ 8 nguyên tắc, đề cao 
sự tôn trọng trẻ để giúp trẻ cảm thấy thoải mái trong quá 
trình chơi và để trẻ tự thể hiện cảm xúc của mình. Trong 
bối cảnh Việt Nam hiện nay rất cần thiết có những nghiên 
cứu tiếp theo về ý nghĩa của chơi trong can thiệp, giáo 
dục trẻ rối loạn phổ tự kỉ và cần chú ý tới việc mở rộng 
đối tượng tham gia về độ tuổi, loại, mức độ khuyết tật, sự 
hợp tác của gia đình. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Christina M. Corsello, PhD (2005). Early 
intervention in Autism. Infants and Young Children, 
Vol. 18, No. 2, pp. 74-85. 
[2] Nguyễn Ánh Tuyết (2000). Trò chơi của trẻ em. 
NXB Phụ nữ. 
[3] Janet Moyles (2006). The excellence of play. 2nd 
edit. Open University Press, USA. 
[4] Axline, V.M (1947). Play therapy. London: 
Churchill Livingstone. 
[5] Nguyễn Thị Hoàng Yến (2012). Giáo dục đặc biệt 
và những thuật ngữ cơ bản. NXB Đại học Sư phạm. 
[6] Nguyễn Nữ Tâm An (2009). Bước đầu ứng dụng 
phương pháp TEACCH trong can thiệp cho trẻ tự kỉ 
tại Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, số 205, tr 17-19, 27. 
[7] Đỗ Thị Thảo (2014). Áp dụng phương pháp 
TEACCH trong can thiệp sớm cho trẻ rối loạn phổ 
tự kỉ. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm 
Hà Nội, số 59 (2), tr 132-142. 
[8] Phạm Hải Yến (2015). Thực trạng sử dụng trò chơi 
nhằm phát triển kĩ năng bắt chước cho trẻ rối loạn 
phổ tự kỉ 3-4 tuổi. Tạp chí Khoa học, Trường Đại 
học Sư phạm Hà Nội, số 8, tr 92-101. 
[9] Đinh Nguyễn Trang Thu (2014). Biện pháp rèn 
luyện kĩ năng giao tiếp và tương tác xã hội cho trẻ 
tự kỉ chức năng cao học hòa nhập tiểu học. Tạp chí 
Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6, 
tr 358-366. 
[10] Trần Thị Minh Thành (2015). Đánh giá và lập kế 
hoạch can thiệp cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ. Tạp chí 
Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 8, 
tr 82-91. 
[11] Ashley H. Morgenthal (2015). Child-Centered Play 
Therapy for Children with Autism: A Case Study. 
Dissertation. Antioch University - New England. 
[12] Phạm Hải Yến (2015). Phát triển kĩ năng bắt chước 
cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội, số 6, tr 129-135. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_truong_hop_su_dung_tri_lieu_choi_khong_dinh_huong.pdf