Nghiên cứu thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với các tạp chí khoa học Việt Nam

Bài viết giới thiệu kết quả điều tra về thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với tạp chí khoa học Việt Nam. Qua đó, đưa ra một nhận xét, đánh giá chung về vấn đề này.

pdf 9 trang thom 04/01/2024 2020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với các tạp chí khoa học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với các tạp chí khoa học Việt Nam

Nghiên cứu thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với các tạp chí khoa học Việt Nam
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU ỨNG DỤNG DOI 
ĐỐI VỚI CÁC TẠP CHÍ KHOA HỌC VIỆT NAM (1)
1 Bài báo là kết quả của đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để ứng dụng “Mã định danh tài liệu số (Digital 
Object Identifier - DOI)” đối với tài nguyên số của Việt Nam”. Chủ nhiệm đề tài: ThS Dương Thị Phương.
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu kết quả điều tra về thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với tạp 
chí khoa học Việt Nam. Qua đó, đưa ra một nhận xét, đánh giá chung về vấn đề này.
Từ khóa: DOI; ứng dụng DOI; tạp chí khoa học Việt Nam. 
State of the art and demand for DOI application in Vietnamese scientific scholarly 
journals. 
Abstract: The article introduces the survey results on the current situation and needs of 
DOI application to Vietnamese science journals. Authors, thereby, gives a general comment on this 
issue. 
Keywords: DOI; DOI Application; Vietnamese scientific journals.
 ThS Nguyễn Thị Tú Quyên, ThS Dương Thị Phương
Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, cùng với sự 
phát triển nhanh chóng của công nghệ thông 
tin và truyền thông, phương thức xuất bản, 
khai thác nguồn tài liệu khoa học nói chung, 
các tạp chí khoa học nói riêng cũng có nhiều 
thay đổi. Tài liệu số đang trở thành xu thế ngày 
càng phát triển. Hình thức xuất bản tạp chí 
khoa học trực tuyến, hay có thêm phiên bản 
điện tử đang ngày một phổ biến với ưu điểm 
vượt trội là dễ dàng chia sẻ kết quả nghiên 
cứu một cách nhanh chóng, kịp thời. Nhiều 
tạp chí khoa học trên thế giới đã ứng dụng số 
định danh DOI như một mã định danh không 
thay đổi với bài báo trên mạng internet.
Hằng năm, Viện Thông tin Khoa học Hoa 
Kỳ (Institute for Scientific Information - ISI) 
thường công bố danh sách các tạp chí khoa 
học có uy tín trên thế giới trong Báo cáo trích 
dẫn tạp chí. Đây là hệ thống phản ánh các 
tạp chí khoa học có uy tín, có tầm ảnh hưởng 
lớn đối với cộng đồng khoa học trên thế giới. 
Trong các tiêu chí đánh giá tạp chí khoa học 
của ISI thì các thông tin về tạp chí được thể 
hiện đầy đủ, chi tiết và thống nhất cũng là một 
trong những tiêu chí quan trọng và cần thiết. 
Do đó, các tạp chí trực tuyến cần đăng ký sử 
dụng hệ thống DOI để đảm bảo khả năng 
truy cập đến mỗi bài báo một cách lâu dài 
và thống nhất trên toàn thế giới [Trần Mạnh 
Tuấn, 2012].
Trên thế giới, việc ứng dụng DOI cho 
nguồn tài nguyên số là tương đối rộng, bao 
gồm: sách, kỷ yếu hội nghị, báo cáo/tài liệu 
được xuất bản chính thức và được xuất bản 
với ISSN hoặc ISBN, các tiêu chuẩn, luận 
án, các tài nguyên đa phương tiện, tài liệu 
sở hữu trí tuệ, dữ liệu nghiên cứu, v.v. . Tuy 
nhiên, ở Việt Nam hiện mới chỉ có một số 
cơ quan/đơn vị ứng dụng DOI cho tạp chí 
khoa học. Nhằm thu thập thông tin làm cơ 
sở cho việc đề xuất áp dụng mã định danh 
DOI cho các tạp chí khoa học và công nghệ 
(KH&CN) của Việt Nam, nhóm nghiên cứu 
tập trung tìm hiểu, điều tra khảo sát việc 
ứng dụng DOI của các cơ quan/đơn vị cho 
đối tượng là tạp chí khoa học của mình. Kết 
quả nghiên cứu cung cấp các thông tin cơ 
bản về thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI 
đối với các tạp chí khoa học, từ đó có cơ sở 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
14 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
thực tế để đưa ra những đề xuất phù hợp cho 
việc lựa chọn một mô hình quản lý và cấp DOI 
tại Việt Nam.
1. Khái quát về DOI
DOI - là từ viết tắt của một thuật ngữ tiếng 
Anh “Digital Object Identifier” - tạm dịch là “Mã 
định danh tài liệu số”. DOI là một chuỗi các 
số, chữ cái và ký hiệu được sử dụng để định 
danh lâu dài cho một bài báo khoa học hoặc 
một tài liệu dạng số và cung cấp một đường 
liên kết ổn định tới vị trí của các nội dung tài 
liệu đó trên internet. DOI sẽ giúp người dùng 
dễ dàng định vị được tài liệu từ nguồn trích 
dẫn [7]. Khi truy cập một tài liệu đã được gán 
DOI, hệ thống quản lý DOI sẽ dịch mã này 
sang định vị tài nguyên thống nhất (URL) để 
có thể truy cập được đến tài liệu số. Nếu địa 
chỉ mạng của tài liệu đó thay đổi, người truy 
cập bằng DOI vẫn được đổi hướng tự động 
đến địa chỉ mới [5].
Hệ thống DOI được phát triển bởi một nhóm 
các nhà xuất bản và hiện được quản lý bởi 
Tổ chức DOI quốc tế (the International DOI 
Foundation - IDF). Hệ thống này cung cấp 
phương tiện nhận dạng cố định để quản lý 
thông tin trên hệ thống số hóa và cũng có thể 
được thực hiện thông qua các cơ quan đăng 
ký là thành viên của IDF, ví dụ như: CrossRef 
(https://www.crossref.org), một tổ chức phi lợi 
nhuận trong lĩnh vực xuất bản học thuật ra đời 
từ năm 2002, thu thập siêu dữ liệu và gán DOI 
cho nhiều loại nội dung học thuật với quy mô 
lớn (các bài báo và tài liệu bổ sung trên các tạp 
chí khoa học, sách và tài liệu tham khảo, kỷ yếu 
hội nghị, các tiêu chuẩn, các bộ dữ liệu, v.v.; 
hay DataCite (https://www.datacite.org/), một 
tổ chức phi lợi nhuận, nơi tiếp nhận việc đăng 
ký DOI cho dữ liệu nghiên cứu; hoặc thông qua 
một cơ quan/tổ chức tiếp nhận đăng ký được 
ủy quyền của Tổ chức DOI quốc tế, như một 
số nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc 
đã làm.
Tất cả các số DOI được bắt đầu bằng số 
10, chứa một tiền tố và hậu tố được phân tách 
bằng dấu gạch chéo. Tiền tố là một mã số 
duy nhất gồm bốn hoặc nhiều chữ số được 
gán cho tổ chức/đơn vị xuất bản tài liệu đó, 
hậu tố được chỉ định bởi nhà xuất bản và 
được thiết kế linh hoạt với các tiêu chuẩn 
nhận dạng của nhà xuất bản. Khi các chỉ số 
DOI đã được gắn cho một tạp chí, nó sẽ được 
xuất hiện trên cả tạp chí dạng in và dạng điện 
tử. Chỉ số DOI của mỗi bài báo thường được 
đặt trên đầu mỗi trang của bài báo đó giống 
như một thông báo về bản quyền. Chỉ số DOI 
cũng có thể được tìm thấy trên trang đích của 
cơ sở dữ liệu dành cho các bài báo [6]. Ví dụ: 
https://doi.org/10.31817/vjas.2018.1.1.07 
(mã DOI một bài báo của Tạp chí “Vietnam 
Journal of Agricultural Sciences” thuộc Học 
viện Nông nghiệp Việt Nam, năm 2018, tập 
1, số 1, bài thứ 7 của số này).
2. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng và nhu cầu ứng 
dụng DOI đối với các tạp chí khoa học Việt 
Nam, nhóm nghiên cứu đã lập danh sách 
các cơ quan/đơn vị có tạp chí khoa học (sau 
đây gọi tắt là tạp chí). Tiêu chuẩn lựa chọn là 
các tạp chí được tính điểm công trình khoa 
học. Các tạp chí không đưa vào danh sách 
khảo sát phần lớn là những tạp chí thuộc các 
ngành: khoa học An ninh, khoa học Quân 
sự, và một số tạp chí thuộc các ngành Nghệ 
thuật - Thể dục Thể thao. Phạm vi khảo sát 
bao quát cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. 
Các phương pháp điều tra, nghiên cứu bao 
gồm: 
- Điều tra khảo sát thông qua việc gửi 
phiếu điều tra và trao đổi trực tiếp;
- Thu thập thông tin về các tạp chí được khảo 
sát thông qua trang giới thiệu trên website; 
Tìm hiểu trực tiếp một số tiêu chí như: thể thức 
xuất bản, hình thức trình bày, Hội đồng biên 
tập, nội dung khoa học của tạp chí; v.v. thông 
qua website riêng của tạp chí (nếu có), qua 
trang Tạp chí khoa học Việt Nam trực tuyến 
(VJOL) hoặc tham khảo trực tiếp bản giấy ở 
Phòng Phát triển nguồn tin tại Cục Thông tin 
khoa học và công nghệ quốc gia;
- Tổng hợp, phân tích và đánh giá kết quả 
thu được.
Theo số liệu tổng hợp từ danh mục tạp chí 
được tính điểm công trình khoa học theo quy 
định của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước 
năm 2017 [4], hiện nay, Việt Nam có khoảng 
345 tạp chí khoa học được tính điểm công trình 
khoa học. Trong khuôn khổ của đề tài, nhóm 
nghiên cứu chọn ra 170 tạp chí, trong đó: 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
15THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
90 tạp chí thuộc các trường đại học, học viện; 
60 tạp chí thuộc các bộ, các cơ quan ngang 
bộ, các cơ quan/đơn vị trực thuộc bộ, các viện 
nghiên cứu; 20 tạp chí thuộc các hiệp hội và 
hội nghề nghiệp. Các tạp chí khảo sát được 
chia thành 03 nhóm chính: 
- Nhóm 1: Nhóm các tạp chí khoa học 
thuộc các trường đại học, học viện;
- Nhóm 2: Nhóm các tạp chí khoa học 
chuyên ngành thuộc các bộ, cơ quan ngang 
bộ, các cơ quan/đơn vị trực thuộc bộ, các viện 
nghiên cứu;
- Nhóm 3: Nhóm các tạp chí khoa học 
thuộc các hiệp hội và hội nghề nghiệp.
Với 170 phiếu được gửi đi, số phiếu thu 
được có thông tin phản hồi là 155 phiếu, đạt 
tỷ lệ thu hồi phiếu là 91%. Chi tiết được trình 
bày tổng hợp trong Bảng 1.
Bảng 1. Thông tin về số lượng và tỷ lệ thu hồi phiếu điều tra
Tạp chí thuộc Số phiếu phát ra Số phiếu thu được Tỷ lệ thu hồi phiếu (%)
Nhóm 1 90 87 97
Nhóm 2 60 52 87
Nhóm 3 20 16 80
Tổng số 170 155 91
Qua Bảng 1 có thể thấy, nhóm các tạp chí 
khoa học thuộc các trường đại học, học viện 
(Nhóm 1) đạt tỷ lệ thu hồi phiếu cao nhất - 97%. 
Nhóm 1 cũng là nhóm được lựa chọn gửi 
phiếu điều tra nhiều hơn cả vì đây là khu vực 
có nhiều tạp chí khoa học đang được quan 
tâm đầu tư cả về chất lượng cũng như quy mô 
phát triển trong thời gian gần đây. Nhóm 2 đạt 
tỷ lệ thu hồi phiếu là 87% và Nhóm 3 là 80%. 
Với tổng số 155 phiếu thu được thì Nhóm 1 
chiếm tỷ lệ phiếu là 56% (87/155 tạp chí) của 
cả 3 nhóm; Nhóm 2 chiếm 34% (52/155 tạp 
chí); và Nhóm 3 chiếm 10% (16/155 tạp chí).
Để có thể đánh giá được toàn diện, chính 
xác thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối với 
các tạp chí khoa học Việt Nam, phiếu điều tra 
đã được gửi tới các tạp chí trên khắp cả nước. 
Tuy nhiên, việc phân bố địa lý này chủ yếu tập 
trung ở Nhóm 1, vì các tạp chí thuộc Nhóm 2 
và Nhóm 3 phần lớn đều nằm ở khu vực miền 
Bắc. Trong 155 phiếu điều tra thu được thì: 
khu vực miền Bắc là 104 tạp chí (chiếm tỷ lệ 
67%); khu vực miền Trung - 22 tạp chí (14%); 
khu vực miền Nam - 29 tạp chí (19%). 
 3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Kết quả nghiên cứu 
3.1.1.Về dạng xuất bản của các tạp chí
Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn 
(66%) các tạp chí được xuất bản ở dạng giấy 
(102/155 tạp chí). Có 33% (52/155 tạp chí)
được xuất bản ở cả dạng giấy và dạng điện tử 
và có 1% tạp chí được khảo sát chỉ xuất bản 
ở dạng điện tử (Bảng 2). Những tạp chí được 
xuất bản ở cả hai dạng chủ yếu là những tạp 
chí đã ứng dụng DOI. Tuy nhiên, đa số (94%) 
các tạp chí đang xuất bản ở dạng giấy đều 
trả lời là có nhu cầu xuất bản ở cả dạng điện 
tử trong tương lai. Chỉ có 7% tạp chí trả lời là 
không có nhu cầu xuất bản tạp chí dưới dạng 
điện tử; 03 tạp chí không có câu trả lời cho 
câu hỏi này. 
Bảng 2. Tổng hợp về dạng xuất bản của các tạp chí 
(tỷ lệ % được làm tròn số)
Dạng tài liệu
 Số lượng
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Tổng số
SL % SL % SL % SL %
Xuất bản dạng giấy 48 55 39 75 15 94 102 66
Xuất bản dạng điện tử 1 1 0 0 0 0 1 1
Cả hai dạng 38 44 13 25 1 6 52 33
Tổng số 87 100 52 100 16 100 155 100
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
16 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
3.1.2. Thực trạng ứng dụng DOI đối với tạp 
chí của các cơ quan/đơn vị
Kết quả khảo sát thực trạng ứng dụng DOI 
trên 155 tạp chí cho thấy, có 27% số tạp chí 
đã ứng dụng DOI (42 tạp chí), số còn lại chưa 
ứng dụng DOI là 73% (113 tạp chí) (Bảng 3 
và Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tạp chí đã ứng dụng DOI và chưa ứng dụng DOI (n=155)
Trong 3 nhóm tạp chí được khảo sát, thì 
Nhóm 1 có tỷ lệ ứng dụng DOI cao nhất. Có 
30/87 tạp chí được khảo sát thuộc nhóm này 
đã ứng dụng DOI, chiếm tỷ lệ 34% tổng số 
tạp chí của nhóm này và chiếm 71% (30/42 
tạp chí) trên tổng số tạp chí đã ứng dụng DOI 
của cả 3 nhóm. Cũng theo kết quả khảo sát, 
tất cả (100%) tạp chí đã ứng dụng DOI đều 
thực hiện đăng ký trực tiếp thông qua tổ chức 
CrossRef. 
Bảng 3. Thực trạng ứng dụng DOI đối với tạp chí khoa học được khảo sát 
(tỷ lệ % được làm tròn số)
Ứng dụng DOI
 Số lượng
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Tổng số 
SL % SL % SL % SL %
Đã ứng dụng 30 34 12 23 0 0 42 27
Chưa ứng dụng 57 66 40 77 16 100 113 73
Tổng số 87 100 52 100 16 100 155 100
Kết quả tìm hiểu về nguyên nhân chưa 
ứng dụng DOI cho thấy: số lượng các tạp chí 
có nhu cầu, nhưng chưa nắm rõ về cách thức 
và quy trình đăng ký hoặc đang tìm hiểu và 
lựa chọn nhà cung cấp chiếm tỷ lệ cao nhất 
là 44% (50/113 tạp chí); 31% (35/113 tạp chí) 
chưa biết thông tin về DOI; 17% (19 tạp chí) 
trả lời chưa có nhu cầu; và có 5% (6 tạp chí) 
thuộc Nhóm 1 hiện đang trong quá trình 
triển khai đăng ký DOI. Chi tiết và mức độ 
tỷ lệ được trình bày tổng hợp trong Bảng 4 
và Hình 1.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
17THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
Bảng 4. Lý do các tạp chí chưa ứng dụng DOI (tỷ lệ % được làm tròn số)
 Lý do 
 Số lượng/Tỷ lệ
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Tổng số
SL % SL % SL % SL %
Chưa biết về DOI 10 18 16 40 9 56 35 31
Có nhu cầu, đang tìm hiểu 
thông tin 33 58 13 33 4 25 50 44
Đang trong quá trình triển 
khai 6 10 0 0 0 0 6 5
Hiện chưa có nhu cầu 7 12 9 22 3 19 19 17
Không có câu trả lời 1 2 2 5 0 0 3 3
Tổng số 57 100 40 100 16 100 113 100
31%
44%
5%
17%
3%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
LD1 LD2 LD3 LD4 LD5
Hình 1. Tỷ lệ lý do mà các tạp chí chưa ứng dụng DOI (n=113)
Chú thích:
LD1: Chưa biết về DOI
LD2: Có nhu cầu nhưng chưa biết đăng ký 
ở đâu hoặc đang tìm hiểu và lựa chọn 
nhà cung cấp
LD3: Đang trong quá trình triển khai đăng ký
LD4: Đã biết về DOI nhưng chưa có 
nhu cầu
LD5: Không có câu trả lời
3.1.3. Nhu cầu ứng dụng DOI đối với tạp 
chí của các cơ quan/đơn vị
Với câu hỏi dành cho những tạp chí chưa 
ứng dụng DOI: “Trường hợp chưa tiến hành 
ứng dụng DOI, Quý cơ quan/đơn vị có nhu 
cầu/mong muốn ứng dụng DOI cho xuất bản 
điện tử của đơn vị mình không?”, kết quả 
phân tích cho thấy, trong 113 tạp chí chưa 
ứng dụng DOI, có tới 69% (78 tạp chí) có nhu 
cầu ứng dụng DOI; chỉ có 27% (31 tạp chí) trả 
lời là hiện tại chưa có nhu cầu, trong đó bao 
gồm cả một số tạp chí chưa biết về DOI; 04 
tạp chí (gần 4%) không có câu trả lời cho câu 
hỏi này (Bảng 5 và Hình 2).
Bảng 5. Tổng hợp nhu cầu ứng dụng 
DOI đối với tạp chí (n=113)
Nhu cầu 
ứng dụng DOI
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%)
Có nhu cầu 78 69%
Hiện tại chưa có nhu cầu 31 27%
Không có câu trả lời 4 4%
Tổng số 113 100
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
18 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
Hình 2. Tỷ lệ nhu cầu ứng dụng DOI đối với tạp chí
3.1.4. Ý kiến tổng hợp của các tạp chí về 
mô hình đăng ký và cấp DOI tại Việt Nam
Với câu hỏi: “Trên thế giới, một số nước 
như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã 
có cơ quan đăng ký DOI với đầu mối là các cơ 
quan thông tin quốc gia, như: Cơ quan Thông 
tin Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (JST), 
Viện Thông tin Khoa học và Công nghệ Hàn 
Quốc (KISTI), Viện Thông tin khoa học và 
công nghệ Trung Quốc (ISTIC). Các cơ quan 
thông tin quốc gia này chịu trách nhiệm quản 
lý DOI cho các đối tượng số. Theo Quý cơ 
quan/đơn vị, Việt Nam có cần thiết lập một cơ 
quan đăng ký DOI hay không?”, kết quả tổng 
hợp trong Bảng 6 cho thấy, 74% (115/155 
tạp chí) được khảo sát cho rằng, cần thiết 
lập một cơ quan thông tin quốc gia làm đầu 
mối; 21% (33 tạp chí) cho là không cần 
thiết; và 7 tạp chí (5%) không có câu trả lời 
cho câu hỏi này.
Bảng 6. Ý kiến của các tạp chí cho mô hình thiết lập cơ quan thông tin 
làm đầu mối đăng ký DOI tại Việt Nam
Ý kiến đóng góp Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Tổng số Tỷ lệ (%)
Cần thiết 73 32 13 115 74
Không cần thiết 11 17 2 33 21
Không có câu trả lời 3 3 1 7 5
Tổng số 87 52 16 155 100
Cùng với câu hỏi lấy ý kiến của các tạp 
chí về việc Việt Nam có cần thiết lập một cơ 
quan đăng ký DOI hay không, nhóm nghiên 
cứu có đưa ra 02 câu hỏi mở cho các tạp 
chí: “Nếu cần thiết, thì nên giao việc quản lý 
hoạt động đăng ký và cấp DOI cho một cơ 
quan quốc gia hay một đơn vị nào khác?” và 
“Nếu không cần thiết, thì hoạt động đăng ký 
và cấp DOI tại Việt Nam nên được thực hiện 
như thế nào?”. Các ý kiến phản hồi được trình 
bày tổng hợp trong Bảng 7.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
19THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
Bảng 7. Tổng hợp ý kiến đóng góp cho hoạt động đăng ký và cấp DOI đối với 
các tạp chí khoa học Việt Nam
STT Tổng hợp ý kiến đóng góp Số lượng(tạp chí)
1 Nên giao cho một cơ quan cấp quốc gia 43
2 Giao cho một cơ quan cấp quốc gia kết hợp với tổ chức quốc tế 2
3
Giao cho Cục Thông tin KH&CN quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ 
làm đầu mối 51
4 Nên đưa về một cơ quan thống nhất của Bộ để quản lý 2
5
Cần thành lập một đơn vị có uy tín, thẩm quyền chịu trách nhiệm liên hệ 
với một tổ chức quốc tế cấp và quản lý DOI 5
6
Có thể giao cho một cơ quan thông tin quốc gia, Vd: Cục Thông tin 
KH&CN quốc gia; cũng có thể tạo điều kiện cho nhiều cơ quan, tổ chức 
khác thực hiện đăng ký DOI
2
7
Giao cho một đơn vị đủ năng lực của một trong hai Bộ: Khoa học và 
Công nghệ hoặc Thông tin và Truyền thông 1
8 Giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông 4
9 Nên học tập mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước đã làm và ứng dụng phù hợp với Việt Nam 9
10 Nên đăng ký trực tiếp với tổ chức DOI quốc tế thông qua tổ chức 
CrossRef; hoặc thực hiện trực tiếp với nhà cung cấp 16
11 Cần có giới thiệu và hướng dẫn thêm về DOI 6
12 Nên giao cho một đơn vị độc lập về IT 1
13
Hoạt động đăng ký DOI nên được một bộ phận độc lập mang tính hỗ trợ 
các đơn vị, không nên quản lý gây khó khăn, chồng chéo và chậm trễ. 1
14 Không có ý kiến 12
 Tổng số 155
Phân tích phản hồi cho câu hỏi mở 
(Bảng 7) cho thấy, đa số các ý kiến đề xuất 
nên giao cho Cục Thông tin KH&CN quốc 
gia, Bộ Khoa học và Công nghệ làm đầu mối 
trong việc quản lý hoạt động đăng ký và cấp 
DOI hoặc giao cho một cơ quan cấp quốc gia 
thực hiện công việc này với tỷ lệ lần lượt là 
33% (51 tạp chí) và 28% (43 tạp chí). Chỉ có 
10% (16 tạp chí) cho rằng, có thể đăng ký 
trực tiếp với Tổ chức DOI quốc tế thông qua 
CrossRef; hoặc thực hiện trực tiếp với nhà 
cung cấp. 
3.1.5. Nhu cầu chuyển đổi tổ chức đăng ký 
đối với tạp chí đã ứng dụng DOI
Với các tạp chí đã tiến hành ứng dụng DOI 
trực tiếp thông qua một tổ chức ở nước ngoài, 
nhóm nghiên cứu đã đưa ra một câu hỏi phụ 
để tìm hiểu xem các tạp chí có sẵn sàng 
chuyển đổi việc đăng ký DOI qua cơ quan 
đăng ký được thành lập tại Việt Nam hay 
không. Kết quả cho thấy, một nửa trong số 
42 tạp chí đã ứng dụng DOI, đồng ý chuyển 
đổi, trong đó có 43% (18/42 tạp chí) trả lời là 
sẵn sàng chuyển đổi việc đăng ký DOI sang 
cơ quan đăng ký được thành lập tại Việt Nam; 
7% (3/42 tạp chí) trả lời sẽ đồng ý chuyển đổi 
nếu thuận tiện và phải đảm bảo số DOI thể 
hiện được tên/bản quyền của xuất bản phẩm; 
45% số tạp chí (19/42 tạp chí) không muốn 
chuyển đổi, lý do là thủ tục đăng ký DOI với 
tổ chức ở nước ngoài cũng khá thuận tiện và 
hiện tại đang duy trì ổn định. 02 tạp chí không 
có câu trả lời cho câu hỏi này.
3.2. Một số nhận xét, đánh giá
Trên cơ sở kết quả thu được, nhóm nghiên 
cứu đưa ra một số nhận xét, đánh giá chung 
về hiện trạng và nhu cầu ứng dụng DOI 
như sau:
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
20 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
3.2.1. Về thực trạng ứng dụng DOI của các 
tạp chí khoa học Việt Nam
Nhìn chung, việc ứng dụng DOI đối với 
tạp chí khoa học nói riêng và tài nguyên số 
nói chung vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. 
Cho đến nay, số lượng tạp chí khoa học đã 
ứng dụng DOI còn tương đối ít. Các tạp chí đã 
ứng dụng DOI chủ yếu tập trung ở 02 đơn vị 
là Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Hàn lâm 
KH&CN Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ Việt Nam của Bộ KH và CN là tạp chí 
duy nhất trong nhóm các tạp chí thuộc các bộ, 
các cơ quan ngang bộ, các viện nghiên cứu, 
đã ứng dụng DOI.
Nhóm tạp chí thuộc các trường đại học, 
học viện có tỷ lệ ứng dụng DOI cao hơn cả. 
Hiện nay, Việt Nam có 5 hệ thống đại học 
trọng điểm của quốc gia, gồm có: Đại học 
Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành 
phố Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại 
học Huế, Đại học Đà Nẵng. Mỗi hệ thống lại 
có nhiều trường thành viên chuyên đào tạo và 
nghiên cứu một nhóm ngành cụ thể. Một hệ 
thống đại học có thể có nhiều tạp chí với các 
lĩnh vực chuyên ngành khác nhau. Cùng với 
nhóm 5 hệ thống đại học trọng điểm của quốc 
gia, còn có các trường đại học trọng điểm cấp 
vùng và đại học chuyên ngành và đa ngành 
nằm trong danh sách các cơ sở giáo dục đại 
học trọng điểm quốc gia. Ngoài hệ thống tạp 
chí của Đại học Quốc gia Hà Nội, các tạp chí 
đã ứng dụng DOI còn lại đa số là các tạp chí 
nằm trong hệ thống đại học hoặc trường đại 
học trọng điểm quốc gia, như: Đại học Quốc 
gia Thành phố Hồ Chí Minh; Đại học Huế, Đại 
học Đà Nẵng; Đại học Thái Nguyên; Trường 
Đại học Cần Thơ; Trường Đại học Sư phạm 
Hà Nội; Trường Đại học Kinh tế Quốc dân; 
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí 
Minh; Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ 
Chí Minh; Học viện Nông nghiệp Việt Nam; 
Trường Đại học Xây dựng. Đại học Tôn Đức 
Thắng là trường đại học công lập cũng đã 
ứng dụng DOI cho cả 2 tạp chí của trường 
là: Tạp chí công nghệ tiên tiến và tính toán 
(JAEC - Journal of Advanced engineering 
and Computation) và tạp chí “Information & 
Telecommunication”. Đây cũng là trường đại 
học đứng thứ 2 của Việt Nam trong danh sách 
công bố ISI của các cơ sở nghiên cứu và giáo 
dục ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê của 
ISI, trong các giai đoạn từ 2017-2018 [3] và 
kết quả khảo sát của đề tài, nhóm 10 cơ sở 
nghiên cứu và giáo dục ở Việt Nam có công 
bố ISI nhiều nhất, phần lớn (8/10) đều là các 
đơn vị đã ứng dụng DOI cho tạp chí khoa học 
của mình. 
Một số tạp chí đang trong quá trình triển khai 
đăng ký, như: Tạp chí Khoa học Giao thông 
Vận tải và Transport and Communication 
Science Journal (Trường Đại học Giao thông 
Vận tải); Tạp chí Khoa học Công nghệ Thông 
tin và Truyền thông (Học viện Công nghệ 
Bưu chính Viễn thông); Tạp chí Y Dược học 
(Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế); Tạp 
chí Khoa học (Trường Đại học Khánh Hòa); 
Tạp chí Khoa học (Trường Đại học Trà Vinh); 
Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á và Tạp 
chí Asian Journal of Economics and Banking 
(Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ 
Chí Minh).
3.2.2. Về nhu cầu ứng dụng DOI đối với 
các tạp chí khoa học Việt Nam
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, số lượng 
các tạp chí đang có nhu cầu ứng dụng DOI, 
cần hỗ trợ về thông tin và cách thức đăng ký, 
cũng như những tạp chí chưa có thông tin về 
DOI là tương đối nhiều. Trong số các tạp chí 
chưa ứng dụng DOI, có 69% tạp chí trả lời là 
có nhu cầu ứng dụng DOI; 4% tạp chí không 
có câu trả lời vì cần được giới thiệu và có thêm 
thông tin về DOI để có thể đưa ra quyết định 
phù hợp. Trong quá trình khảo sát, một số tạp 
chí của các trường đại học phản hồi là mong 
muốn được hỗ trợ về thông tin để có thể tiến 
hành thủ tục đăng ký DOI trong thời gian tới.
Đa số các cơ quan/đơn vị đang xuất bản 
tạp chí ở dạng giấy đều có nhu cầu xuất bản 
tạp chí ở dạng điện tử trong tương lai để phù 
hợp với xu thế hiện nay và đây cũng là tiêu chí 
cần phải có khi một tạp chí muốn ứng dụng 
DOI cho xuất bản phẩm của mình.
3.2.3. Về các ý kiến đóng góp cho mô hình 
cấp DOI tại Việt Nam
Với kết quả thu được từ phiếu điều tra, 
cùng với một số thông tin thu được trong quá 
trình trao đổi, có thể thấy rằng, đa số các tạp 
chí thống nhất với việc nên có một cơ quan 
đầu mối quốc gia hỗ trợ và quản lý cấp phát 
DOI. Hơn một nửa trong số đó cho rằng, nên 
giao cho Cục Thông tin KH&CN quốc gia, Bộ 
KH&CN làm đầu mối hỗ trợ và quản lý DOI. 
Ý kiến cho rằng, nên giao cho một cơ quan 
cấp quốc gia cũng có tỷ lệ phần trăm khá 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2019
lớn - 28% (43 tạp chí). Đây cũng là ý kiến của 
những tạp chí đang tìm hiểu thông tin về DOI 
và cần có sự hướng dẫn, hỗ trợ. 
Ý kiến cho rằng, không cần phải thiết lập 
một cơ quan đầu mối tại Việt Nam và nên 
đăng ký trực tiếp với Tổ chức DOI quốc tế 
hoặc thông qua CrossRef là không cao. 
Một số tạp chí cho rằng, nên học tập theo 
mô hình của Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc nên 
triển khai thực hiện theo mô hình mà nhiều 
nước khác đã làm, vì khi áp dụng theo mô hình 
phù hợp sẽ có thể quản lý một cách khoa học 
và có hệ thống hơn. Đây thực chất cũng chính 
là mô hình lựa chọn một cơ quan thông tin quốc 
gia làm đầu mối.
Có thể nhận thấy, ý kiến chung của những 
tạp chí có nhu cầu ứng dụng DOI đều cho 
rằng, cần có một cơ quan thông tin cấp quốc 
gia, đủ thẩm quyền và trách nhiệm đứng ra 
làm đầu mối để hướng dẫn, hỗ trợ và quản 
lý trong hoạt động cấp DOI tại Việt Nam. Một 
số tạp chí khác cho rằng, nên đăng ký trực 
tiếp với Tổ chức DOI quốc tế hoặc thông qua 
CrossRef vì thủ tục đơn giản, phí cũng không 
cao. Do vậy, để thực hiện theo mô hình của 
một số nước đã làm là thiết lập một cơ quan 
thông tin làm đầu mối nhằm hỗ trợ và quản lý 
hoạt động đăng ký và cấp DOI tại Việt Nam, 
thì một trong những yêu cầu đầu tiên đặt ra là 
cần có sự hỗ trợ tốt nhất cho các tạp chí trong 
việc đăng ký DOI, đồng thời đảm bảo về mặt 
bản quyền được thể hiện trên mã số DOI của 
mỗi tạp chí. Ngoài ra, khi đăng ký là thành 
viên với cơ quan đầu mối tại Việt Nam, các 
tạp chí đó hoàn toàn được quyền lựa chọn: 
hoặc đăng ký DOI trực tiếp với cơ quan đầu 
mối tại Việt Nam, hoặc có thể đăng ký DOI 
do CrosRef hoặc DataCite cấp thông qua cơ 
quan đầu mối này. 
Kết luận
Hệ thống tạp chí khoa học Việt Nam đang 
có những bước đổi mới cả về quy mô, hình 
thức và nội dung. Một số cơ quan/đơn vị đã 
và đang từng bước nâng cấp tạp chí theo tiêu 
chuẩn quốc tế, trong đó có việc đăng ký và 
ứng dụng DOI cho phiên bản điện tử của mình. 
Để phù hợp với xu thế chung trong việc chia 
sẻ và kết nối thông tin nghiên cứu, việc ứng 
dụng DOI là cần thiết đối với các tạp chí khoa 
học. Ở Việt Nam, đã có một số cơ quan/đơn vị 
ứng dụng DOI cho các ấn phẩm khoa học 
thông qua việc đăng ký với hệ thống Crossref. 
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, hiện còn 
rất nhiều tạp chí khoa học của Việt Nam có 
nhu cầu ứng dụng DOI và cần được hỗ trợ về 
thông tin, song, vẫn chưa có một cơ quan nào 
của Việt Nam được giao trách nhiệm làm đầu 
mối quốc gia. Do vậy, việc xây dựng một mô 
hình quản lý tiên tiến, phù hợp và đề xuất một 
cơ quan làm đầu mối quốc gia ở Việt Nam 
nhằm hỗ trợ tốt nhất và quản lý một cách có 
hệ thống việc ứng dụng và khai thác DOI đối 
với tài nguyên số của Việt Nam nói chung và 
tạp chí khoa học nói riêng là cần thiết.
Các thông tin tổng hợp thu được từ kết quả 
nghiên cứu khảo sát trên phần nào phản ánh 
được bức tranh tổng thể về sự phát triển của 
hệ thống tạp chí khoa học Việt Nam, cũng 
như thực trạng và nhu cầu ứng dụng DOI đối 
với tạp chí khoa học của các cơ quan/đơn vị. 
Các số liệu, cứ liệu của nghiên cứu là một 
trong những cơ sở cần thiết để có thể đưa ra 
các đề xuất, giải pháp phù hợp cho việc ứng 
dụng DOI đối với nguồn tài nguyên số của Việt 
Nam nói chung và tạp chí khoa học Việt Nam 
nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2017). Khoa 
học và Công nghệ Việt Nam 2016, Hà Nội: Nxb 
Khoa học kỹ thuật. 190tr.
2. Trần Mạnh Tuấn (2012). Nâng cao chất 
lượng tạp chí khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc 
tế. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 2012, 9, 
44-55.
3. Các trường đại học Việt Nam qua công bố 
quốc tế: Nhìn từ dữ liệu Scopus. Truy cập tại: 
https://science.tdtu.edu.vn/tin-tuc/2019-05/cac-
truong-dai-hoc-vn-qua-cong-bo-quoc-te-nhin-tu-
du-lieu-scopus (ngày 07/4/2019)
4. Danh mục các Tạp chí được HĐCDGSNN 
tính điểm năm 2017 theo ngành/liên ngành. Truy 
cập tại: https://www.utc.edu.vn/sites/default/files/
Danh_muc_tap_chi-HDCDGSNN-2017.pdf (ngày 
23/01/2019).
5. International DOI Foundation, 
"DOI®Handbook," 17 March 2014. [Online]. Địa 
chỉ:  [Truy cập: June 
28, 2015].
6. What is a digital object identifier, or DOI? . 
Truy cập tại: https://www.apastyle.org/learn/faqs/
what-is-doi (ngày 23/4/2019)
7. What is a DOI and how to I use them in 
citations?. Truy cập tại: https://library.uic.edu/
help/article/1966/what-is-a-doi-and-how-do-i-use-
them-in-citations (ngày 21/4/2019).
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 20-5-2019; 
Ngày phản biện đánh giá: 08-6-2019; Ngày chấp 
nhận đăng: 15-6-2019).

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_thuc_trang_va_nhu_cau_ung_dung_doi_doi_voi_cac_ta.pdf