Nghiên cứu thử nghiệm khả năng xử lý nước rỉ rác bằng quá trình keo tụ điện hóa
Nước rỉ rác là một loại chất
lỏng được sinh ra từ quá trình
phân hủy vi sinh đối với các
chất hữu cơ có trong rác, thấm
qua các lớp rác của ô chôn lấp
và kéo theo các chất bẩn dạng
lơ lửng, keo và tan từ các chất
thải rắn. Lượng rác thải sinh
hoạt tăng dẫn đến lượng nước
rỉ rác sinh ra ngày càng nhiều.
Nước rỉ rác thường bị ô nhiễm
nặng bởi các chất nguy hại nên
thành phần hóa học của nước
rỉ rác cũng rất khác nhau và
phụ thuộc vào thành phần rác
đem chôn cũng như thời gian
chôn lấp. Nước rỉ rác sinh ra từ
các bãi chôn lấp cũng như phát
sinh tại trạm trung chuyển có
mức độ ô nhiễm cao với hàm
lượng COD lên đến
90.000mg/L, chất rắn hòa tan
tới 55.000mg/L, tổng chất rắn
lơ lửng đến 2.000mg/L, pH lại
rất thấp, dao động trong
khoảng 4,3 – 5,4 và hàm lượng
Nitơ cao tới 1.500 –
2.300mg/L,. [1],[ 2]. Ở những
bãi rác mới, nước rỉ rác thường
có pH thấp, nồng độ BOD,
COD và kim loại nặng cao.
Trong bãi chôn lấp lâu năm,
chất thải rắn đã được ổn định
do các phản ứng sinh hóa diễn
ra trong thời gian dài, các chất
hữu cơ đã được phân hủy hầu
như hoàn toàn, các chất vô cơ
đã bị cuốn trôi đi, pH của các
bãi này từ 6,5 – 7,5, nồng độ
các chất ô nhiễm thấp hơn
đáng kể, nồng độ kim loại nặng
giảm do phần lớn kim loại nặng
tan trong pH trung tính. Nước rỉ
rác bốc mùi hôi, lan tỏa nhiều
kilomet, có thể ngấm xuyên qua
mặt đất làm ô nhiễm nguồn
nước ngầm và dễ dàng gây ô
nhiễm nguồn nước mặt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thử nghiệm khả năng xử lý nước rỉ rác bằng quá trình keo tụ điện hóa
112 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 Kết quả nghiên cứu KHCN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự tăngtrưởng kinh tế, đờisống người dân ngày càng được nâng cao, kéo theo đó lượng chất thải rắn phát sinh ngày càng lớn, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Do vậy, việc xử lý chất thải rắn là vấn đề cấp bách hiện nay. Bãi chôn lấp là phương pháp phổ biến được áp dụng trong xử lý chất thải rắn đô thị. Các bãi chôn lấp rác ở Việt Nam hiện hay đang tiến tới quá trình chôn lấp hợp vệ sinh. Nước rỉ rác là một loại chất lỏng được sinh ra từ quá trình phân hủy vi sinh đối với các chất hữu cơ có trong rác, thấm qua các lớp rác của ô chôn lấp và kéo theo các chất bẩn dạng lơ lửng, keo và tan từ các chất thải rắn. Lượng rác thải sinh hoạt tăng dẫn đến lượng nước rỉ rác sinh ra ngày càng nhiều. Nước rỉ rác thường bị ô nhiễm nặng bởi các chất nguy hại nên thành phần hóa học của nước rỉ rác cũng rất khác nhau và phụ thuộc vào thành phần rác đem chôn cũng như thời gian chôn lấp. Nước rỉ rác sinh ra từ các bãi chôn lấp cũng như phát sinh tại trạm trung chuyển có mức độ ô nhiễm cao với hàm lượng COD lên đến 90.000mg/L, chất rắn hòa tan tới 55.000mg/L, tổng chất rắn lơ lửng đến 2.000mg/L, pH lại rất thấp, dao động trong khoảng 4,3 – 5,4 và hàm lượng Nitơ cao tới 1.500 – 2.300mg/L,... [1],[ 2]. Ở những bãi rác mới, nước rỉ rác thường có pH thấp, nồng độ BOD, COD và kim loại nặng cao. Trong bãi chôn lấp lâu năm, chất thải rắn đã được ổn định do các phản ứng sinh hóa diễn ra trong thời gian dài, các chất hữu cơ đã được phân hủy hầu như hoàn toàn, các chất vô cơ đã bị cuốn trôi đi, pH của các bãi này từ 6,5 – 7,5, nồng độ các chất ô nhiễm thấp hơn đáng kể, nồng độ kim loại nặng giảm do phần lớn kim loại nặng tan trong pH trung tính. Nước rỉ rác bốc mùi hôi, lan tỏa nhiều kilomet, có thể ngấm xuyên qua mặt đất làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và dễ dàng gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Nước rỉ rác có khả năng gây ô nhiễm nặng nề đến môi trường sống vì nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước rất cao và lưu NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM KHẢ NĂNG XỬ LÝ NƯỚC RỈ RÁC BẰNG QUÁ TRÌNH KEO TỤ ĐIỆN HÓA TS. Lê Thanh Sơn, Lê Cao Khải, Đoàn Tuấn Linh, Đoàn Thị Anh Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lượng đáng kể. Do đó, ô nhiễm môi trường bởi nước rỉ rác từ lâu đã là vấn đề nan giải, được sự quan tâm đặc biệt trong công tác bảo vệ môi trường. 2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC RỈ RÁC 2.1. Công nghệ xử lý nước rỉ rác tại Đức Một trong những công nghệ xử lý nước rỉ rác của Đức được tham khảo là công nghệ kết hợp giữa 3 quá trình: sinh học, cơ học và hóa học. Sơ đồ công nghệ xử lý nước rỉ rác ở miền Bắc nước Đức được trình bày trong Hình 1. Với quy trình xử lý này các thành phần ô nhiễm chính trong nước rỉ rác như COD, NH4+ sau quá trình xử lý đạt tiêu chuẩn xả vào nguồn tiếp nhận, nồng độ các chất ô nhiễm sau mỗi công đoạn xử lý được trình bày trong Bảng 1 [3]. Với thành phần nước rỉ rác đầu vào có nồng độ COD thấp, NH4+ cao, dây chuyền công nghệ kết hợp giữa sinh học, hóa học và cơ học là hợp lý. Sau bước nitrate hóa và khử nitrate, hiệu quả xử lý khử nitơ đạt cao nhất 99,9%, hiệu quả khử COD đạt 65%. Mục đích Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 113 Kết quả nghiên cứu KHCN áp dụng quá trình sinh học (kị khí, nitrate hoá và khử nitrate) và quá trình xử lý hóa lý (keo tụ hai giai đoạn được ứng dụng nhằm loại bỏ các chất hữu cơ khó/không có khả năng phân hủy sinh học), sơ đồ công nghệ xử lý nước rỉ rác tại bãi chôn lấp Sudokwon Hàn Quốc, công suất 3.500 – 7.500m3/ngày được trình bày trong Hình 2. Công nghệ xử lý nước rỉ rác ở Hàn Quốc bao gồm hai quá trình chính: quá trình xử lý sinh học (phân hủy sinh học kị khí và khử nitơ) và quá trình hóa lý. Nồng độ các chất trước và sau xử lý được thể hiện trong Bảng 2. Bảng 1. Nồng độ nước rỉ rác trước và sau xử lý và giới hạn cho phép xả vào nguồn tiếp nhận theo tiêu chuẩn của Đức đối với nước rỉ rác [3] Thoâng soá Ñôn vò Ñaàu vaøo Ra khöû Ra oxy Ra sinh hoïc Noàng ñoä giôùi haïn COD mg/L 2.600 900 130 70 200 NH4+ mg/L 1.100 0,3 70 chính của quá trình oxy hóa là oxy hóa các hợp chất hữu cơ khó/không có khả năng phân hủy sinh học, xử lý COD đạt hiệu quả là 85%. Đối với công đoạn xử lý sinh học bằng bể sinh học lọc tiếp xúc, hiệu quả xử lý COD đạt 46%, số liệu này phù hợp với tính chất của nước rỉ rác là khó phân hủy. Tuy nhiên, công nghệ này có chi phí vận hành cao do sử dụng ozone và công đoạn nitrate hóa và khử nitrate đòi hỏi năng lượng cao. 2.2. Công nghệ xử lý nước rỉ rác tại Hàn Quốc Công nghệ xử lý nước rỉ rác của một số bãi chôn lấp ở Hàn Quốc cũng giống như ở Đức là Nguoàn tieáp nhaän Loïc Khöû nitrat Laéng Loïc Oxy hoùa vôùi Ozone Beå tieáp xuùc sinh hoïc Nöôùc ræ raùc Nitrat hoùa Hình 1. Công nghệ xử lý nước rỉ rác của miền Bắc nước Đức [3]. Nöôùc ræ raùc sau xöû lyù Beå oån ñònh Thieát bò phaân huûy kî khí Nitrat hoùa Khöû nitrat Beå keo tuï 1 Beå keo tuï 2 Nöôùc ræ raùc Hình 2. Công nghệ xử lý nước rỉ rác tại BCL Sudokwon Hàn Quốc [4] 114 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 Kết quả nghiên cứu KHCN Với tính chất nước rỉ rác của BCL Hàn Quốc có tỉ lệ BOD/COD khoảng 0,3 – 0,4; Hàn Quốc cũng đã áp dụng phương pháp sinh học kết hợp hóa lý để xử lý chất hữu cơ và nitơ có trong nước rỉ rác. Kết quả cho thấy bể oxy hóa amoni hoạt động rất hiệu quả, nồng độ amoni được xử lý đến 99% (N-NH4+ đầu ra dao động khoảng 1 – 20mg/L), tuy nhiên tổng nitơ đầu ra có khi lên đến 240mg/L. Kết quả chứng minh rằng với nồng độ amoni cao (2.000mg/L) thì phương pháp khử nitơ bằng phương pháp truyền thống không đạt hiệu quả cao là do sự ức chế của các vi khuẩn nitrosomonas và nitrobacter. Tóm lại, quy trình công nghệ xử lý nước rỉ rác nêu trên đều kết hợp các quá trình sinh học, hóa học và hóa lý, hầu hết các công nghệ xử lý đều bắt đầu xử lý nitơ bằng phương pháp cổ điển (nitrate hóa và khử nitrate), tuy nhiên với nồng độ nitơ cao (2.000mg/L) thì phương pháp này cũng bị hạn chế. Tùy thuộc vào thành phần nước rỉ rác cũng như tiêu chuẩn xả thải mà quy trình xử lý tiếp theo được thay đổi với việc áp dụng quá trình cơ học (màng lọc), hóa lý (keo tụ/ tạo bông) và oxy hóa nâng cao (fenton, ozone,...). Tiêu chuẩn xả thải đối với nước rỉ rác của các nước cao hơn so với tiêu chuẩn của Việt Nam như tiêu chuẩn giới hạn COD dao động từ 200-300mg O2/L, trong khi của Việt Nam tương đương với cột B, COD là 100mg O2/L. Để đạt được nồng độ COD giảm từ 200-300mg O2/L xuống 100mg O2/L đòi hỏi chi phí cao và áp dụng các phương pháp tiên tiến. Bảng 2. Nồng độ các chất ô nhiễm trước và sau xử lý [4]. Thoâng soá Tröôùc xöû lyù Sau xöû lyù COD (mg/L) 2.200 x 3.600 220 x 300 BOD (mg/L) 700 x 1.600 - Nitô toång (mg/L) 1.300 x 2.000 54 x 240 N-NH4+ (mg/L) 1.200 x 1.800 1 x 20 Ñoä maøu - 171 2.3. Công nghệ xử lý nước rỉ rác ở Việt Nam Bãi chôn lấp là phương pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt thích hợp nhất đang được áp dụng ở Việt Nam do chi phí thấp, dễ vận hành và cũng là phương pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề xử lý chất thải rắn của cả nước. Tuy nhiên công nghệ xử lý nước rỉ rác ở Việt Nam hiện nay bộc lộ rất nhiều nhược điểm, nguyên nhân là do: - Thiết kế hệ thống thu gom nước rỉ rác chưa tối ưu; - Quy trình vận hành bãi chôn lấp chưa theo đúng các quy định kỹ thuật; - Thành phần chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn đô thị đưa vào bãi chôn lấp không ổn định; - Sự thay đổi nhanh của nồng độ chất ô nhiễm có trong nước rỉ rác; - Nhiệt độ cao; - Chi phí đầu tư và giá thành xử lý bị khống chế. * Công nghệ xử lý nước rỉ rác tại Bãi Chôn Lấp Phước Hiệp TP Hồ Chí Minh Bãi chôn lấp Phước Hiệp giai đoạn 1 có diện tích 43ha, tổng lượng CTR được xử lý là 2.600.000 tấn, thời gian vận hành từ 2003 đến nay. Thành phần nước rỉ rác như trong Bảng 3. Năm 2004 Công ty Khoa Học Công Nghệ Môi Trường Việt đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước rỉ rác với công suất 800m3/ngày. Công nghệ xử lý nước rỉ rác của Công ty Quốc Việt áp dụng là kết hợp phương pháp sinh học và hóa lý (Hình 3). 3. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG XỬ LÝ NƯỚC RỈ RÁC BẰNG QUÁ TRÌNH KEO TỤ ĐIỆN HÓA 3.1. Giới thiệu về kỹ thuật keo tụ điện hóa Keo tụ điện hóa là quá trình điện hóa học, sử dụng dòng điện để ăn mòn điện cực dương (thường là nhôm hoặc sắt) để giải phóng ra các chất có khả năng keo tụ (cation Al3+ hoặc Fe2+) vào trong môi trường nước thải: Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 115 Kết quả nghiên cứu KHCN Al Al3+ + 3e- (1) Fe Fe2+ + 2e- (2) Các cation được tạo thành sẽ phản ứng với các ion OH- có mặt trong nước hình thành các hydroxit nhôm hay sắt theo các phương trình phản ứng sau: Al3+ + 3OH-Al(OH)3 (3) Fe2+ + 2OH-Fe(OH)2 (4) Ở catot xảy ra quá trình oxy hóa nước tạo thành các bọt khí Hydro [5]: H2O + 2e- H2 + 2OH- (5) Các hydroxit kim loại này sẽ tham gia vào các phản ứng polyme hóa: Al(OH)3 (OH)2Al-O-Al(OH)2 + H2O (6) Fe(OH)2 (OH)Fe-O-Fe(OH) + H2O (7) Các polyme này có thể loại bỏ các chất ô nhiễm tan và không tan bởi quá trình hấp phụ, tạo phức hay kết tủa [6]. Hiệu quả của quá trình keo tụ điện hóa phụ thuộc rất nhiều vào bản chất của điện cực, thời gian điện phân, cường độ dòng điện, pH, độ dẫn điện của dung dịch: - Các dạng điện cực được sử dụng phổ biến là sắt và nhôm, trong đó theo các kết quả nghiên cứu của Ilhan và cộng sự [7] Bảng 3. Nồng độ nước rỉ rác trước và sau hệ thống xử lý của BCL Phước Hiệp STT Thoâng soá Ñôn vò Nöôùc ræ raùc vaøo Ra kî khí Ra phaûn öùng Ra hieáu khí Laéng Ra hoà sinh hoïc 2 Ñaàu ra TCVN 5945 x 1995 coät B 1 pH 7,40 7,85 6,73 8,12 8,06 7,99 6,93 5,5 x 9,0 2 COD Mg O2/L 2.720 2.016 1.088 845 660 600 77 100 3 BOD Mg O2/L 660 90 90 80 78 66 48 50 4 N-NH3 mg/L 1.184 1.092 658 532 356 258 22 1 5 N-Norg mg/L 140 105 70 77 39 28 8 - 6 N-toång mg/L 1.324 1.197 728 609 395 286 30 60 7 Fe toång mg/L 40 37 147 24 27 15 5 5 Hình 3. Hệ thống hồ xử lý nước rỉ rác của công ty Quốc Việt tại BCL Phước Hiệp. Hoà tieáp nhaän Hoà kî khí Hoà phaûn öùng Hoà hieáu khí Hoà laéng Hoà sinh hoïc Hoà chöùa NRR Keânh 15 H2SO4 FeCl3 Nöôùc saïch 116 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 Kết quả nghiên cứu KHCN Hình 4. Sơ đồ nguyên lý phương pháp keo tụ điện hóa điện cực Al xử lý độ đục, chất màu và NH4+ hiệu quả hơn điện cực Fe. Kết quả nghiên cứu của Li và cộng sự [8] cho thấy điện cực Fe lại xử lý COD hiệu quả hơn điện cực Al. - Theo định luật Faraday, thời gian điện phân càng lớn, lượng ion kim loại sinh ra ở điện cực càng nhiều, do đó khả năng loại bỏ chất ô nhiễm của quá trình keo tụ điện hóa càng cao, tuy nhiên thời gian điện phân càng lâu càng tiêu tốn năng lượng. - Cũng theo định luật Faraday, lượng ion kim loại tạo ra ở anot tỷ lệ thuận với cường độ dòng điện áp đặt giữa 2 điện cực, do đó khi tăng cường độ dòng điện, quá trình keo tụ điện hóa sẽ càng hiệu quả. - Tùy thuộc vào độ pH của dung dịch mà các ion Al3+, Fe2+ cũng có thể hình thành các chất keo tụ khác. Sự thủy phân của ion Al3+ hình thành các ion Al(H2O)63+, Al(H2O)52+ và Al(H2O)42+, sau đó từ các ion này hình thành các monome và polyme như: Al(OH)2+, Al(OH)2+, Al2(OH)24+, Al(OH)4-, Al6(OH)153+, Al7(OH)174+,[. Tương tự, sự thủy phân của ion Fe2+ hình thành monome Fe(OH)3 và các phức polymer như Fe(H2O)63+, Fe(H2O)5(OH)2+, Fe(H2O)4(OH)2+, Fe2(H2O)8(OH)24+, Fe2(H2O)6(OH)44+,[[9]. - Theo các kết quả nghiên cứu của Ilhan và cộng sự [7], sự tăng độ dẫn điện của dung dịch điện phân sẽ tối ưu hóa năng lượng tiêu thụ và giảm thời gian xử lý bằng keo tụ điện hóa. Như vậy trong quá trình keo tụ điện hóa bao gồm rất nhiều các hiện tượng hóa- lý, các phản ứng hóa học khác nhau. Sự kết hợp các hiện tượng khác nhau này làm cho quá trình loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ trong nước rất hiệu quả. Ngoài ra, keo tụ điện hóa cũng loại bỏ hiệu quả các chất có phân tử lượng lớn [10], là các chất thường có mặt trong nước rỉ rác, rất khó bị phân hủy bằng các quá trình sinh học. 3.2. Hệ thiết bị thí nghiệm và các phương pháp phân tích a) Hệ thí nghiệm keo tụ điện hóa: Bể keo tụ điện hoá hoạt động trong điều kiện nước thải được nạp một lần (theo mẻ). Hệ thống điện cực được đặt ngập trong nước thải, để đảm bảo khả năng tiếp xúc giữa các bọt khí và các chất ô nhiễm là tốt nhất. Kích thước bể phản ứng dự tính là: 12cm x 12cm x 20cm. Mẫu nước rỉ rác được dùng cho thí nghiệm: Lấy 900ml nước rỉ rác của bãi rác Hình 5. Hệ thí nghiệm keo tụ điện hóa trong phòng thí nghiệm Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 117 Kết quả nghiên cứu KHCN Nam Sơn (Sóc Sơn, Hà Nội) đem pha loãng 2 lần, dung tích nước mẫu sau khi pha loãng được dùng cho hệ thí nghiệm là 1,8L. Mẫu nước rỉ rác trong quá trình xử lý được khẩy bằng máy khuấy từ với tốc độ 200 vòng/phút. - Điện cực: là 08 tấm sắt kích thước 0,4 x 10 x 11cm. - Nguồn điện: nguồn một chiều được lấy từ thiết bị chỉnh dòng có khả năng điều chỉnh được các giá trị điện áp và cường độ dòng điện. Dòng điện vào là dòng xoay chiều 220V, dòng ra có thể điều chỉnh và là dòng một chiều. Giới hạn điều chỉnh điện áp và cường độ dòng của nguồn một chiều là 40V/30A (BK PRICISION). b) Phương pháp phân tích: - Phương pháp xác định Amoni: Amoni được xác định bằng phương pháp Natri nitro- prusiat, đo quang tại bước sóng 672nm trên thiết bị UV – VIS theo TCVN 6179-1:1996 (tương ứng với ISO 7150: 1984). - Phương pháp xác định COD: Giá trị COD được phân tích theo TCVN 6491: 1999 (tương ứng với ISO 6060: 1989). 3.3. Kết quả đánh giá Trong thí nghiệm này, chúng tôi tiến hành đánh giá khả năng xử lý COD và amoni (là hai đối tượng ô nhiễm chính trong nước rỉ rác của bãi rác Nam Sơn) bằng kỹ thuật keo tụ Bảng 4. Hiệu quả xử lý COD và NH4+ theo thời gian của nước rỉ rác bãi rác Nam Sơn bằng quá trình keo tụ điện hóa. Thôøi gian ñieän phaân (phuùt) Xöû lyù COD Xöû lyù amoni Haøm löôïng COD (mg/L) Hieäu suaát (%) Haøm löôïng amoni (mg/L) Hieäu suaát (%) 0 6165,14 - 1389,93 - 10 3522,94 42,86 1268,33 8,75 20 2532,11 58,93 1219,17 12,29 30 1871,56 69,64 1146,73 17,50 40 1651,38 73,21 1120,86 19,36 60 1431,19 76,79 1061,35 23,64 80 1277,06 79,29 1051 24,38 điện hóa. Điều kiện thí nghiệm như sau: I = 3A, khoảng cách giữa các điện cực là 1cm, pH dung dịch ban đầu ~ 8, thời gian điện phân 80 phút. Nồng dộ COD và amoni còn lại trong dung dịch tại các thời điểm được phân tích để tính toán hiệu suất xử lý. Kết quả thu được thể hiện trên Bảng 4. Có thể thấy rằng quá trình keo tụ điện hóa bằng điện cực sắt xử lý tương đối tốt các chất hữu cơ (COD) trong nước rỉ rác, trong khi hiệu quả xử lý amoni thấp hơn rất nhiều. Cụ thể, chỉ sau 30 phút điện phân, khoảng 70% COD được loại bỏ khỏi nước rỉ rác, trong khi đối với amoni chỉ khoảng 17,5%. Ngoài ra, hiệu suất xử lý các đối tượng ô nhiễm này tăng dần theo thời gian: sau 80 phút điện phân, khoảng 80% COD trong nước rỉ rác đã bị loại bỏ trong khi với amoni khoảng 24,4%. Thật vậy, theo định luật Faraday, lượng chất bị điện phân trên các điện cực tỉ lệ thuận với thời gian điện phân, do đó, theo thời gian lượng kim loại tan ra trên điện cực tăng dần, dẫn đến lượng keo hydroxit sắt được tạo ra tăng dần, kết quả là hiệu suất loại bỏ COD và amoni tăng. Tuy nhiên, cũng từ bảng kết quả, có thể thấy rằng việc kéo dài thời gian điện phân tuy làm tăng hiệu suất keo tụ, nhưng sự tăng hiệu suất không tuyến tính với thời gian. Nguyên nhân có thể do điện năng đã bị tiêu hao biến thành nhiệt năng, làm giảm hiệu suất Faraday. 118 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 Kết quả nghiên cứu KHCN 4. KẾT LUẬN Với thành phần phức tạp, nồng độ các chất ô nhiễm như COD, BOD, amoni rất cao và thay đổi rất nhanh của nước rỉ rác, công nghệ xử lý nước rỉ rác của các nước trên thế giới đều kết hợp các quá trình sinh học, hóa học và hóa lý. Hầu hết các công nghệ xử lý đều bắt đầu với xử lý nitơ bằng phương pháp cổ điển (nitrate hóa và khử nitrate), với nồng độ ammonia nhỏ hơn 1.000mg/L phương pháp nitrate hóa và khử nitrate cho hiệu quả khử cao nhưng với nồng độ nitơ lớn hơn 1.000mg/L thì phương pháp này cũng bị hạn chế, điều này được chứng minh trong trường hợp của BCL Sudokwon Hàn Quốc và Phước Hiệp của Việt Nam. Phương pháp keo tụ điện hóa được thử nghiệm, kết quả đã chỉ ra rằng phương pháp có khả năng xử lý tương đối tốt COD, sau 30 phút điện phân với cường độ dòng điện 3A, điện cực sắt, 70% COD trong nước rỉ rác của bãi rác Nam Sơn đã bị loại bỏ. Tuy nhiên, khả năng xử lý amoni bằng keo tụ điện hóa tỏ ra không hiệu quả, sau 80 phút điện phân, chỉ 24,4% amoni đã bị loại bỏ. Do đó, phương pháp keo tụ điện hóa thích hợp để loại bỏ COD. Để xử lý triệt để nước rỉ rác đạt QCVN, cần kết hợp với các công nghệ khác như công nghệ sinh học. LỜI CÁM ƠN Công trình này được ủng hộ bởi đề tài thuộc 7 hướng ưu tiên cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam ‘Nghiên cứu xử lý nước rỉ rác bằng phương pháp keo tụ điện hóa kết hợp lọc sinh học’ (VAST 07.01/16-17). TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Hồng Khánh, Lê Văn Cát, Tạ Đăng Toàn, Phạm Tuấn Linh (2009) “Môi trường bãi chôn lấp chất thải và xử lý nước rác”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [2]. Nguyễn Hồng Khánh, Tạ Đăng Toàn (2008), “Quản lý chất thải rắn đô thị, những vấn đề và giải pháp nhằm tiến tới quản lý chất thải rắn bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ, 46, 209-217. [3]. ANONYMUS (1996): Anhang 51: Oberirdische Ablagerung von Abfällen. Allgemeine Rahmen Verwaltungsvorschrift über Mindestanforderungen an das Einleiten von Abwasser in Gewässer, German regulation. [4]. Cho-Hee Yoon, Seung- Hyun Kim and Jong-Choul Won (2004) “Biological nitro- gen removal for long-term landfill leachate by using mle process”, Journal of Water and Environment Technology, 1(2), 155-161. [5]. Chen G. (2004), “Electrochemical technologies in wastewater treatment”. Separation and Purification Technology, 38, 11-41 [6]. Drogui P., Blais J.F., Mercier G. (2007) “Review of electrochemical technologies for environmental applica- tions”, Recent patents on engi- neering, 1, 257-272. [7]. Ilhan F., Kurt U., Apaydin O. and Gonullu M.T. (2008), “Treatment of leachate by electrocoagulation using alu- minum and iron electrodes”, Journal of Hazardous Materials., 154, 381-389. [8]. Li X., Song J., Guo J., Wang Z. and Feng Q. (2011), “Landfill leachate treatment using electrocoagulation”, Procedia Environmental Sciences, 10, 1159-1164. [9]. Mollah M.Y., Morkovsky P., Gomes J.A., Kesmez M., Parga J. and Cocke D.L. (2004), “Fundamentals, pres- ent and future perspectives of electrocoagulation”. Journal of Hazardous Materials, 114, 199-210. [10]. Tsai C.T., Lin S.T., Shue Y.C. et Su P.L. (1997), “Electrolysis of soluble organic matter in leachate from land- fills”, Water Research, 31, 3073-3081.
File đính kèm:
- nghien_cuu_thu_nghiem_kha_nang_xu_ly_nuoc_ri_rac_bang_qua_tr.pdf