Nghiên cứu sự tác động của hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đến quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Hiệp định Đối tác xuyên Thái B̀nh Dương

(TPP) được kỳ ṿng sẽ trở thành một khuôn khổ

thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là

khuôn m̃u cho các Hiệp định thế kỷ 21. Phạm vi

c̉a Hiệp định sẽ bao g̀m hầu hết các lĩnh vực

có liên quan t́i thương mại. Đối v́i Việt Nam,

cho đến nay, doanh nghiệp nhà nức ṽn đóng

vai trò quan tṛng trong nền kinh tế (lĩnh vực

kinh doanh, số lượng lao động, tài sản, đóng

góp ngân sách nhà nức, đóng góp GDP). Do

đó, tham gia TPP vừa là thách thức song cũng

là cơ hội đ̉ Việt Nam thực hiện cải cách khu vực

doanh nghiệp nhà nức.

pdf 7 trang kimcuc 4020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sự tác động của hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đến quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sự tác động của hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đến quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Nghiên cứu sự tác động của hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đến quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
146
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NGHIÊN CỨU SỰ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN 
THÁI BÌNH DƯƠNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU DOANH 
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
AGREEMENT ON THE TRANS-PACIFIC PARTNERSHIP WITH ISSUES 
RESTRUCTURING STATE-OWNED ENTERPRISES IN VIETNAM
 Hoàng Xuân Sơn(*) , Hồ Thị Thanh Trúc(**)
TÓM TẮT
Hiệp định Đối tác xuyên Thái B̀nh Dương 
(TPP) được kỳ ṿng sẽ trở thành một khuôn khổ 
thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là 
khuôn m̃u cho các Hiệp định thế kỷ 21. Phạm vi 
c̉a Hiệp định sẽ bao g̀m hầu hết các lĩnh vực 
có liên quan t́i thương mại. Đối v́i Việt Nam, 
cho đến nay, doanh nghiệp nhà nức ṽn đóng 
vai trò quan tṛng trong nền kinh tế (lĩnh vực 
kinh doanh, số lượng lao động, tài sản, đóng 
góp ngân sách nhà nức, đóng góp GDP). Do 
đó, tham gia TPP vừa là thách thức song cũng 
là cơ hội đ̉ Việt Nam thực hiện cải cách khu vực 
doanh nghiệp nhà nức.
Từ khoá: sự tác động, TPP, tái cơ cấu, 
doanh nghiệp nhà nước
ABSTRACT
Agreement on the Trans-Paciic Partnership 
(TPP) is expected to become a comprehensive 
trade framework, are of high quality and is the 
template for the 21st century agreement Scope of 
the Agreement will cover most all areas related 
to trade. For Vietnam, so far, state-owned 
enterprises still play an important role in the 
economy (business ield, number of employees, 
assets, state budget contribution, contribution 
to GDP). Therefore, participation in TPP both a 
challenge but also an opportunity for Vietnam to 
reform state-owned enterprise sector.
Keywords: impact, TPP, restructuring 
state-owned enterprises
1. VÀI NÉT VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC 
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
Hiệp định TPP (Trans-Paciic Partnership - 
TPP) là Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái 
Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia 
nên còn được gọi là P4.
Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định 
đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 
nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) 
phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị cấp cao 
APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4-2005, 
Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng 
lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, 
biến P3 thành P4.
Đây là Hiệp định mang tính mở. Tuy không 
phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ 
APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể 
gia nhập nếu quan tâm. Singapore đã nhiều lần 
thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng 
TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng 
về khu vực mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình 
Dương của APEC (FTAAP).
- Các nội dung ch́nh c̉a Hiệp định TPP – P4:
Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, 
bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ (chưa bao gồm 
dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ 
sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật 
(*) ThS. Giảng viên Trừng Đại ḥc Kinh tế TP.HCM
(**) ThS. Giảng viên Trừng Cao đẳng Tài ch́nh – Hải quan
147
Nghiên cứu sự tác động của hiệp định . . .
(TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, 
mua sắm chính phủ và minh bạch hóa. Ngoài 
ra, còn có một chương về hợp tác và hai vĕn 
kiện đi kèm về Hợp tác Môi trường và Hợp tác 
Lao động.
Theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp 
tục đàm phán và ký hai vĕn kiện quan trọng về 
đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau 2 
nĕm kể từ khi P4 chính thức có hiệu lực (3-2008).
Điểm nổi bật nhất của P4 là tự do hóa rất 
mạnh về hàng hóa. Thuế nhập khẩu được xóa 
bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi 
Hiệp định có hiệu lực.
Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh 
theo phương thức chọn - bỏ. Theo đó, tất cả các 
ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành 
nằm trong danh mục loại trừ.
- Hiệp định TPP mở rộng và sự tham gia 
c̉a Việt Nam:
Tháng 9-2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. 
Tiếp theo đó, tháng 11-2008, Australia và Peru 
cũng tuyên bố tham gia TPP. Tại buổi họp báo 
công bố việc tham gia của Australia và Peru, đại 
diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết 
lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các 
vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho 
đến nay.
Từ nĕm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã 
rất tích cực mời Việt Nam tham gia TPP - P4. 
Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế 
và chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này 
của Singapore.
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham 
gia TPP, và trước khi tuyên bố tham gia TPP, 
Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định 
này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay 
không tham gia TPP.
Đầu nĕm 2009, Việt Nam quyết định tham 
gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên 
kết. Tháng 11-2010, sau khi tham gia 3 phiên 
đàm phán TPP với tư cách này, Việt Nam đã 
chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó, 
tháng 10-2010, Malaysia cũng chính thức tham 
gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm 
phán lên thành 9 nước. Sau đó là sự tham gia 
của Canada (10-2012) và Nhật Bản (3-2013) đã 
nâng tổng số các thành viên chính thức của TPP 
là 12 thành viên.
Ngoài các nội dung đàm phán mang tính 
truyền thống trong các FTA, các quốc gia thành 
viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và 
biện pháp để thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề 
liên quan tới hoạch định chính sách, tạo thuận 
lợi cho doanh nghiệp, phát triển chuỗi cung cấp 
và sản xuất giữa các nước thành viên, nâng cao 
sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
vào quá trình lưu thông hàng hóa giữa các quốc 
gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy sự phát 
triển chung của các quốc gia thành viên. 
Với mục tiêu duy trì tính mở của Hiệp định 
TPP, tức là có cơ chế kết nạp thêm thành viên 
mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục 
đàm phán những vấn đề phát sinh sau khi Hiệp 
định có hiệu lực, các nhóm đàm phán cũng đã nỗ 
lực đưa ra nhiều đề xuất và biện pháp liên quan 
để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại lợi ích nhiều 
nhất cho tất cả những nước tham gia Hiệp định.
Nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP so 
với các FTA truyền thống trước đây là sự tham 
gia của các đối tượng liên quan như doanh 
nghiệp, hiệp hội, tổ chức xã hội. Tại mỗi phiên 
đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo cơ 
hội để trao đổi thông tin cũng như bày tỏ quan 
điểm và nguyện vọng đối với các nội dung đàm 
phán của Hiệp định thông qua các buổi hội thảo 
và diễn đàn dành cho các đối tượng liên quan 
được tổ chức bên lề các phiên đàm phán.
Ngày 5-10-2015, tại Atlanta Hoa Kỳ Hội 
nghị Bộ trưởng Thương mại các nước thành 
viên Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) đã đạt được thỏa thuận cuối cùng, 
kết thúc đàm phán Hiệp định TPP của 12 nước 
thành viên.
Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ trở thành 
một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất 
148
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định 
thế kỷ 21. Phạm vi của Hiệp định sẽ bao gồm 
hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới thương mại, 
trong đó có nhiều lĩnh vực mới như môi trường, 
lao động, các vấn đề xuyên suốt liên quan đến 
thương mại như chuỗi cung ứng, doanh nghiệp 
vừa và nhỏ
2. THỰC TRẠNG TÁI CƠ CẤU DNNN 
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA TPP
Trước khi tham gia TPP, Việt Nam đã tiến 
hành quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước 
(DNNN) từ giữa những nĕm 80 của thế kỷ XX 
và cho đến nay Việt Nam đã đạt được một số 
thành tựu nhất định trong chủ trương tái cơ cấu 
DNNN. Cụ thể:
Giai đoạn 1986 – 1990: đến cuối nĕm 1989, 
cả nước có khoảng trên 12.000 doanh nghiệp 
quốc doanh, với quy mô chủ yếu là vừa, nhỏ, vốn 
ít, công nghệ lạc hậu, hiệu quả hoạt động thấp.
Giai đoạn 1990 – 2000: số lượng doanh 
nghiệp quốc doanh đã giảm mạnh, từ 12.000 
đơn vị (nĕm 1990) xuống còn khoảng 7.000 đơn 
vị (nĕm 1995). Trong giai đoạn này đã có 548 
DNNN được cổ phần hóa (CPH). Tuy nhiên, tỷ 
trọng GDP của DNNN đã tĕng từ 32,5% nĕm 
1990 lên 42,2% GDP vào nĕm 1995(1) đã thể 
hiện sự lấn át của DNNN đối với các doanh 
nghiệp của các thành phần kinh tế khác trong 
nền kinh tế ngày càng gia tĕng. Nhìn chung việc 
thực hiện sắp xếp DNNN trong giai đoạn này 
còn chậm chạp và chỉ mới xử lý đối với DNNN 
có quy mô nhỏ, số lượng DNNN giải thể khá 
nhiều nhưng về vốn, lao động và giá trị tổng 
sản lượng chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ các 
DNNN.
Giai đoạn 2000 – 2010 đã tiến hành CPH 
gần 3.300 DNNN, tĕng gấp gần 6 lần so với giai 
đoạn 1990 – 2000. Do đó, tỷ trọng của khu vực 
(1) Ṭa đàm khoa ḥc (2014), “Tổng kết một số vấn đề 
lý luận - thực tiễn qua 30 nĕm đổi ḿi”, Ban Kinh tế 
Trung ương và Trừng Đại ḥc Kinh tế TP. H̀ Ch́ 
Minh, tr.308
kinh tế nhà nước trong GDP cũng đã giảm mạnh 
so với giai đoạn trước, đến nĕm 2010 kinh tế nhà 
nước chỉ còn chiếm tỷ trọng 33,74% GDP so với 
42,2% GDP nĕm 1995.
Giai đoạn 2011 đến nay: nếu như ở giai 
đoạn hoàng kim của thị trường chứng khoán 
Việt Nam (2002-2005), số lượng doanh nghiệp 
CPH tĕng mạnh và ở mức cao, nhất là thời điểm 
2004-2005, bình quân mỗi nĕm có tới 800 doanh 
nghiệp được CPH, thì trong giai đoạn sau đó, 
tốc độ CPH đã giảm tốc mạnh.
Đến nĕm 2007, số lượng doanh nghiệp CPH 
đạt con số 118 doanh nghiệp và lao dốc xuống 
chỉ còn 18,7 doanh nghiệp được CPH bình quân 
mỗi nĕm từ 2008-2010 trước khi nhích lên con 
số khiêm tốn 60 doanh nghiệp trong nĕm 2011.
Giai đoạn 2011 – 2013, do tình hình khủng 
hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu ảnh hưởng 
mạnh đến Việt Nam đã làm cho thị trường chứng 
khoán không thuận lợi và điều kiện thoái vốn khó 
khĕn, số lượng doanh nghiệp được CPH đã thu 
hẹp, trong 3 nĕm này chỉ cổ phần hóa được 99 
DNNN (rất thấp so với mục tiêu của Chính phủ 
đề ra là đến nĕm 2015 sẽ CPH được 531 DNNN).
 Để đẩy mạnh CPH trong 2 nĕm còn lại 
2014 – 2015, tính đến tháng 12-2014, cả nước 
đã CPH được 143 DNNN, là kết quả khả quan. 
Tuy vậy, đánh giá chung thì việc thực hiện 
CPH trong giai đoạn này vẫn diễn ra quá chậm. 
Trong hai nĕm 2014 – 2015 theo đề án tái cơ cấu 
DNNN được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
phải thực hiện CPH 432 doanh nghiệp, trong 
đó đã có 348 doanh nghiệp thành lập Ban chỉ 
đạo CPH; 247 doanh nghiệp đang xác định giá 
trị doanh nghiệp; đã công bố giá trị 123 doanh 
nghiệp, dự kiến cả nĕm 2014 sẽ CPH khoảng 
200 doanh nghiệp(2).
(2) ThS. Hoàng Xuân Sơn - ThS. Nguyễn Thị Thảo 
Nguyên, Quá tr̀nh tái cơ cấu DNNN th̀i kỳ đổi ḿi - 
nhận thức và thực tiễn, Tạp ch́ Nghiên cứu phát trỉn, 
số 11 (1/2015), tr.36-37
149
Nghiên cứu sự tác động của hiệp định . . .
Thực hiện kế hoạch trên, trong 8 tháng đầu 
nĕm 2015 đã thoái vốn được khoảng 8,39 nghìn 
tỷ đồng, thu về khoảng 12,38 nghìn tỷ đồng, bằng 
1,48 lần giá trị sổ sách. Xét theo lĩnh vực, lĩnh 
vực bất động sản đã thoái 2,69 nghìn tỷ đồng, 
thu về 3,18 nghìn tỷ đồng; lĩnh vực bảo hiểm, 
chứng khoán, tài chính là gần 1,3 nghìn tỷ đồng, 
thu về 1,35 nghìn tỷ đồng; bán phần vốn Nhà 
nước không cần nắm giữ tại các doanh nghiệp 
khác là 4,4 nghìn tỷ đồng, thu về 7,86 nghìn 
tỷ đồng... Đã có 23 bộ, ngành, địa phương, tập 
đoàn kinh tế trình Thủ tướng phê duyệt phương 
án sắp xếp DNNN theo tiêu chí, danh mục phân 
loại doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Thủ 
tướng đã phê duyệt 19 phương án, trong đó bổ 
sung 106 doanh nghiệp CPH nĕm 2015 và 109 
doanh nghiệp CPH giai đoạn 2016-2020(3).
3. YÊU CẦU CỦA TPP ĐỐI VỚI DNNN
Ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia 
trên thế giới hiện nay, các DNNN có vai trò quan 
trọng trong nền kinh tế. Ví dụ, trong nĕm 2013, 
mặc dù chỉ chiếm 0,9% tổng số doanh nghiệp 
và sử dụng 13,5% lực lượng lao động, DNNN 
chiếm 32,2% GDP của Việt Nam và 40,4% tổng 
đầu tư hàng nĕm của cả nước(4).
Đối với Việt Nam, tính tới thời điểm trước 
khi đàm phán Hiệp định TPP, cam kết đa phương 
duy nhất của Việt Nam có nội dung về DNNN là 
cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế 
giới (WTO). Trong các Hiệp định thương mại 
song phương đã ký, Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ 
cam kết riêng về DNNN, ngoại trừ 2 điều khoản 
trong Hiệp định Thương mại song phương giữa 
Việt Nam và Hoa Kỳ (2001) có liên quan đến 
hoạt động của DNNN. Trong những nĕm sau 
đó, các cam kết này cũng chưa ảnh hưởng nhiều 
đến hoạt động của DNNN và sự điều hành của 
Chính phủ đối với DNNN.
(3)  Ngày 
truy cập 06-6-2016
(4) 
bo-tac-dong-cua-tpp-doi-voi-viet-nam/; Ngày truy 
cập: 05-6-2016
Trong quá trình đàm phán Hiệp định TPP, 
vấn đề DNNN được các thành viên đề cập từ 
những phiên đầu tiên, khi thảo luận về các quy 
tắc liên quan đến xây dựng và thực thi chính 
sách cạnh tranh. Mục tiêu chính của các thành 
viên TPP khi xây dựng bộ nguyên tắc mới về 
DNNN là tạo lập môi trường cạnh tranh bình 
đẳng giữa các thành phần kinh tế trong khu vực 
thương mại tự do, đồng thời các thành viên cũng 
thừa nhận do sự đa dạng về lịch sử, chính trị 
và kinh tế nên tại một số nước thành viên, đặc 
biệt là các nước đang phát triển, khu vực DNNN 
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các 
mục tiêu chính sách công, ổn định kinh tế vĩ mô 
và đảm bảo an ninh – quốc phòng. Cụ thể TPP 
quy định định đối với DNNN như sau:
- Ngoại trừ trường hợp DNNN thực hiện 
nhiệm vụ công ích hoặc được Nhà nước chỉ định 
độc quyền trên một thị trường nhất định, DNNN 
phải ra quyết định dựa trên “tính toán thương 
mại”, có nghĩa là phải dựa trên các tiêu chí mang 
tính thương mại như: giá cả, chất lượng, khả nĕng 
cung ứng, tiếp thị, vận tải hoặc những yếu tố 
khác tương tự như doanh nghiệp thuộc các thành 
phần kinh tế khác ra quyết định kinh doanh.
- DNNN không được phân biệt đối xử khi 
mua bán hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp 
từ một thành viên TPP khác cung cấp. Doanh 
nghiệp được chỉ định độc quyền không được 
phân biệt đối xử khi mua bán hàng hóa, dịch vụ 
trên thị trường liên quan do doanh nghiệp từ một 
thành viên TPP khác cung cấp.
- Khi Chính phủ giao hoặc ủy quyền cho 
DNNN thực hiện một số nhiệm vụ thuộc thẩm 
quyền của Chính phủ như quyền trưng thu, cấp 
hoặc thu hồi giấy phép, phê duyệt giao dịch 
thương mại, ấn định hạn ngạch, phí và lệ phí, 
thì DNNN đó phải tuân thủ toàn bộ các cam kết 
của Chính phủ trong Hiệp định TPP.
- Chính phủ không được trực tiếp hoặc gián 
tiếp (thông qua DNNN) cung cấp dành riêng 
cho DNNN các khoản “hỗ trợ phi thương mại” 
150
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
lớn tới mức gây tác động bất lợi tới lợi ích của 
một nước thành viên TPP khác.
Nghĩa vụ này hoàn toàn không cấm mọi 
hình thức hỗ trợ của Chính phủ dành cho DNNN 
mà chỉ yêu cầu khi cần thiết có hỗ trợ cho 
DNNN thì phải thực hiện theo cách thức phù 
hợp và không gây ra tác động tiêu cực tới lợi 
ích thương mại của các nước thành viên TPP. 
Nghĩa vụ này không áp dụng đối với: (i) hỗ trợ 
dành cho DNNN cung cấp dịch vụ trong nước; 
(ii) các khoản hỗ trợ chung mà các doanh nghiệp 
đủ tiêu chuẩn đều được hưởng, không phân biệt 
DNNN với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh 
tế khác; (iii) các khoản hỗ trợ được cấp trước khi 
Hiệp định được ký kết. 
Đối với Việt Nam, ta đã cam kết không trợ 
cấp dành riêng cho doanh nghiệp xuất khẩu 
hàng hóa sang nước khác (bao gồm DNNN) kể 
từ khi gia nhập WTO (Hiệp định Trợ cấp SCM). 
Vì thế, thực chất nghĩa vụ này có 2 nội dung mới 
là: (i) hỗ trợ gây ảnh hưởng đến cạnh tranh đối 
với hàng hóa cung cấp trong nước; và (ii) hỗ trợ 
cho DNNN cung cấp dịch vụ hoạt động tại một 
nước thành viên TPP khác.
Trong quá trình đàm phán, Việt Nam giữ 
quyền bảo lưu các hình thức hỗ trợ cần thiết 
cho DNNN trong việc thực hiện các chủ trương, 
chính sách lớn của nhà nước về: Chương trình 
cổ phần hóa và tái cơ cấu khu vực DNNN với 
mục đích làm cho DNNN hoạt động tốt hơn theo 
các tín hiệu thị trường.
- DNNN khi được chỉ định độc quyền không 
được trực tiếp hay gián tiếp lợi dụng vị trí đó 
để gây ra hành vi hạn chế cạnh tranh trên một 
thị trường khác mà doanh nghiệp có tham gia 
kinh doanh và cạnh tranh với các doanh nghiệp 
khác, gây tác động bất lợi tới một nước thành 
viên TPP khác.
- Trong quản lý, điều hành, cơ quan quản lý 
nhà nước không được tạo ra sự phân biệt đối xử 
giữa DNNN và doanh nghiệp thuộc thành phần 
kinh tế khác.
- Các nước thành viên phải cho phép tòa án 
nước mình thụ lý và xử lý đối với những vụ kiện 
dân sự chống lại DNNN nước ngoài hoạt động 
trên lãnh thổ nước mình.
- Các nước thành viên Hiệp định TPP đều 
phải công bố hoặc thông báo cho các nước thành 
viên khác danh sách các DNNN thuộc diện điều 
chỉnh của Hiệp định hoặc khi chỉ định doanh 
nghiệp độc quyền trên một thị trường nhất định.
Khi có quan ngại xác đáng về hoạt động 
của một DNNN có khả nĕng gây tác động đến 
thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, 
một nước thành viên có thể đề nghị cung cấp các 
thông tin cơ bản về DNNN đó (tỷ lệ sở hữu nhà 
nước, tổng doanh thu, tổng tài sản, các báo cáo 
tài chính đã được công bố, các miễn trừ áp dụng 
luật) hoặc các thông tin về chương trình hỗ trợ 
phi thương mại của Chính phủ.
Là một trong những thành viên tham gia 
đàm phán thành lập khu vực thương mại tự do 
theo Hiệp định TPP, Việt Nam cùng các thành 
viên khác đã xây dựng bộ nguyên tắc mới điều 
chỉnh hoạt động của các DNNN. Các nguyên 
tắc này mang tính chất cân bằng, có tính tới yếu 
tố phát triển, hướng tới mục tiêu tạo lập môi 
trường cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN và 
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, 
nhưng đồng thời cũng khẳng định vai trò của 
DNNN trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính 
sách công, chính sách an sinh xã hội, ổn định 
kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh - quốc phòng, hỗ 
trợ phát triển kinh tế - xã hội. Các nghĩa vụ đối 
với DNNN mà Việt Nam cam kết là phù hợp và 
cùng chiều với định hướng tái cơ cấu khu vực 
DNNN, vì vậy, nếu được thực thi nghiêm túc sẽ 
có tác động tích cực trong việc nâng cao hiệu 
quả và tính minh bạch trong hoạt động của các 
DNNN, cũng như hiệu quả, hiệu lực của quản lý 
nhà nước đối với khu vực DNNN.
Như vậy, việc tham gia TPP sẽ có tác động 
nhất định đến chính sách cạnh tranh và DNNN. 
Theo đó, cam kết TPP về DNNN dựa trên nguyên 
tắc: tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và doanh 
151
Nghiên cứu sự tác động của hiệp định . . .
nghiệp tư nhân; không can thiệp đến hình thức 
thành phần kinh tế của một quốc gia và chỉ chi 
phối hành vi của DNNN khi có sự cạnh tranh 
của khu vực tư nhân.
Thông tin cho thấy, 12 nước TPP đều có 
DNNN, là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 
công và các hoạt động khác nhưng các thành 
viên TPP đều nhận thấy lợi ích của việc thống 
nhất một khung khổ quy định về cạnh tranh liên 
quan đến DNNN.
Cụ thể, TPP sẽ đảm bảo các DNNN sẽ tiến 
hành các hoạt động thương mại trên cơ sở tính 
toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp 
với nhiệm vụ và các DNNN đó đang phải thực 
hiện để cung cấp các dịch vụ công và đảm bảo 
các DNNN hoặc các đơn vị độc quyền sẵn có 
không có những hoạt động phân biệt đối xử với 
các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các 
thành viên khác.
Bên cạnh đó, TPP cũng trao cho Tòa án 
quyền tài phán đối với các hoạt động thương 
mại của các DNNN nước ngoài và đảm bảo rằng 
các cơ quan hành chính quản lý cả các DNNN 
và doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một 
cách công bằng; không tạo ra những ảnh hưởng 
tiêu cực đối với lợi ích của các thành viên TPP 
khác khi cung cấp hỗ trợ phi thương mại cho các 
DNNN sản xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ 
của các thành viên khác và chia sẻ danh sách các 
DNNN với các thành viên khác và khi được yêu 
cầu sẽ cung cấp thông tin bổ sung về mức độ sở 
hữu hoặc kiểm soát của Chính phủ và những hỗ 
trợ phi thương mại cho các DNNN.
Đối với Việt Nam, cho đến nay, DNNN vẫn 
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế (lĩnh 
vực kinh doanh, số lượng lao động, tài sản, đóng 
góp ngân sách nhà nước, đóng góp GDP). Do 
đó, tham gia TPP vừa là thách thức song cũng là 
cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách khu vực 
DNNN. Khi tham gia TPP, các DNNN sẽ không 
còn được hưởng các ưu đãi, không còn những 
đặc quyền, đặc lợi, các doanh nghiệp tư nhân sẽ 
có cơ hội để phát triển và cạnh tranh bình đẳng. 
Đồng thời, TPP sẽ tạo sức ép thúc đẩy các 
DNNN chủ động nâng cao nĕng lực cạnh tranh. 
Tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải hoàn thiện thể 
chế kinh tế thị trường định hước XHCN theo 
hướng cải cách mạnh mẽ DNNN, tạo lập môi 
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh 
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thực hiện 
nhất quán cơ chế giá thị trường, loại bỏ mọi hình 
thức trợ cấp trái với quy định của WTO, cải cách 
và hoàn thiện thể chế về pháp luật kinh doanh.
Ngoài ra, công khai minh bạch cũng là một 
thách thức đối với DNNN khi tham gia TPP. 
TPP yêu cầu DNNN phải công khai và minh 
bạch tuyệt đối trong sử dụng ngân sách, trong đó 
có quy định công khai và minh bạch giao dịch 
và tài chính của DNNN. 
Trong khi đó, đối với DNNN Việt Nam, 
việc công khai tài chính đã khó, công khai giao 
dịch (toàn bộ hoạt động mua, bán, ký kết, đàm 
phán...) lại càng phức tạp. Tuy nhiên, quy định 
này một mặt tạo sức ép, song đồng thời cũng tạo 
động lực tái cấu trúc khu vực DNNN và là cơ 
hội tốt để sàng lọc lại hệ thống DNNN. Thực tế 
đã chứng minh, nhiều doanh nghiệp Việt Nam 
theo thời gian đã trở nên thành công nhờ cổ 
phần hóa như: Bảo Việt hay Công ty cổ phần 
Sữa Việt Nam... Vì vậy, thách thức hiện nay của 
Chính phủ là phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách hệ 
thống DNNN, đặc biệt là các DNNN hoạt động 
trong lĩnh vực dịch vụ. 
Song Hiệp định TPP cũng không bắt buộc 
DNNN công khai giao dịch của mình. Những gì 
thuộc về bí mật kinh doanh của doanh nghiệp sẽ 
không ai được quyền đòi hỏi. Chỉ khi nào TPP 
nhận thấy doanh nghiệp có biểu hiện đang được 
hỗ trợ quá mức của nhà nước, gây tác động tiêu 
cực đến thương mại và đầu tư cho các bên, khi 
đó mới phải công khai thông tin.
4. KẾT LUẬN 
TPP không ảnh hưởng nhiều đến các DNNN 
của các thành viên trong khối và cũng không ảnh 
hưởng nhiều đến quá trình tái cơ cấu DNNN ở 
152
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Việt Nam, có chĕng thì TPP chỉ mang vai trò thúc 
đẩy quá trình này ở Việt Nam mà thôi. Song, TPP 
cũng cung cấp cho Việt Nam một động lực quan 
trọng để đẩy mạnh cải cách DNNN, đặc biệt là 
việc cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Mặc dù 
cải cách DNNN đã trở thành một trong ba trụ cột 
chính của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt 
Nam kể từ nĕm 2012, nhưng tiến độ của nó trên 
thực tế lại chậm hơn dự kiến do các điều kiện 
thị trường không thuận lợi cũng như do sự phản 
kháng của một số nhà quản lý DNNN nhất định. 
Tuy nhiên, Chính phủ gần đây đã tĕng cường 
những nỗ lực này và thực hiện nhiều biện pháp 
khác nhau, như mở cửa cho cạnh tranh trong 
một số ngành trước nay được độc quyền bởi các 
DNNN (than, điện, xĕng dầu); nới rộng room sở 
hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh 
nghiệp cổ phần hóa; và kỷ luật những cán bộ 
quản lý không đáp ứng tiến độ cổ phần hóa được 
đặt ra. Những bước phát triển này cho thấy chính 
phủ Việt Nam đang điều chỉnh chính sách DNNN 
của mình theo hướng các cam kết TPP, điều có 
thể giúp cải thiện hiệu suất của các DNNN cũng 
như của cả nền kinh tế trong dài hạn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ṭa đàm khoa ḥc (2014), “Tổng kết một 
số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 nĕm đổi 
ḿi”, Ban Kinh tế Trung ương và Trừng Đại 
ḥc Kinh tế TP. H̀ Ch́ Minh
[2]. ThS. Hoàng Xuân Sơn – ThS. Nguyễn Thị 
Thảo Nguyên, Quá tr̀nh tái cơ cấu DNNN th̀i 
kỳ đổi ḿi – nhận thức và thực tiễn, Tạp chí 
Nghiên cứu phát triển, số 11 (1/2015)
[3]. www.sggp.org.vn/kinhte/2015/11/401964/
[4]. 
dinh-TPP//11607/toan-van-noi-dung-hiep-dinh-
tpp
[5]. 
gia-so-bo-tac-dong-cua-tpp-doi-voi-viet-nam/
[6]. 
nr091019080134/ns120426022635

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_su_tac_dong_cua_hiep_dinh_doi_tac_xuyen_thai_binh.pdf