Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng và giá trị của HCG trong tiên lượng bệnh thai trứng

Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố nguy cơ của

bệnh thai trứng và đánh giá giá trị của βhCG trong

tiên lượng bệnh thai trứng. Đối tượng và phương

pháp: nghiên cứu bệnh - chứng và theo dõi dọc,

gồm 41 bệnh nhân thai trứng và 246 sản phụ có

cùng tuổi thai vào điều trị tại Khoa Phụ sản Bệnh

viện Trung ương Huế từ tháng 4/2012 đến 7/2013.

Kết quả: tuổi < 20="" hoặc="" ≥="" 40="" làm="" tăng="" nguy="">

thai trứng gấp 9 lần (OR= 8,8), nghề nghiệp làm

nông làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 5 lần (OR=

4,8), BMI < 18,5="" làm="" tăng="" nguy="" cơ="" thai="" trứng="">

5 lần (OR=5,1), mang thai nhiều lần (≥ 3 lần) làm

tăng nguy cơ thai trứng gấp 6 lần (OR=5,5), có

tiền sử thai trứng làm tăng nguy cơ thai trứng gấp

19 lần (OR=19,3). Nồng độ βhCG trung bình của

nhóm thai trứng toàn phần 482.402,1± 372.419,5

cao hơn nhóm thai trứng bán phần 142.277,4 ±

88 564,9 với p<0,05, nồng="" độ="" βhcg="" trước="" nạo="">

215.912 IU/L sẽ có nguy cơ biến chứng với độ nhạy

75%, độ đặc hiệu 57,6%. Kết luận: các yếu tố nguy

cơ cao của thai trứng là tuổi <20 hoặc="" ≥="" 40,="" có="">

sử thai trứng và mang thai ≥ 3 lần, các yếu tố nguy

cơ thấp là nghề nghiệp làm nông và chỉ số khối cơ

thể <18,5, nồng="" độ="" βhcg="" của="" thai="" trứng="" toàn="">

luôn cao hơn thai trứng bán phần, nguy cơ bị biến

chứng u nguyên bào nuôi cao nếu nồng độ βhCG

trước nạo > 215.912 IU/L.

pdf 5 trang kimcuc 4420
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng và giá trị của HCG trong tiên lượng bệnh thai trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng và giá trị của HCG trong tiên lượng bệnh thai trứng

Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng và giá trị của HCG trong tiên lượng bệnh thai trứng
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
45
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 45 - 49, 2013
Lê Thị Diệu hằng, Nguyễn Vũ Quốc huy
Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố nguy cơ của 
bệnh thai trứng và đánh giá giá trị của βhCG trong 
tiên lượng bệnh thai trứng. Đối tượng và phương 
pháp: nghiên cứu bệnh - chứng và theo dõi dọc, 
gồm 41 bệnh nhân thai trứng và 246 sản phụ có 
cùng tuổi thai vào điều trị tại Khoa Phụ sản Bệnh 
viện Trung ương Huế từ tháng 4/2012 đến 7/2013. 
Kết quả: tuổi < 20 hoặc ≥ 40 làm tăng nguy cơ 
thai trứng gấp 9 lần (OR= 8,8), nghề nghiệp làm 
nông làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 5 lần (OR= 
4,8), BMI < 18,5 làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 
5 lần (OR=5,1), mang thai nhiều lần (≥ 3 lần) làm 
tăng nguy cơ thai trứng gấp 6 lần (OR=5,5), có 
tiền sử thai trứng làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 
19 lần (OR=19,3). Nồng độ βhCG trung bình của 
nhóm thai trứng toàn phần 482.402,1± 372.419,5 
cao hơn nhóm thai trứng bán phần 142.277,4 ± 
88 564,9 với p 
215.912 IU/L sẽ có nguy cơ biến chứng với độ nhạy 
75%, độ đặc hiệu 57,6%. Kết luận: các yếu tố nguy 
cơ cao của thai trứng là tuổi <20 hoặc ≥ 40, có tiền 
sử thai trứng và mang thai ≥ 3 lần, các yếu tố nguy 
cơ thấp là nghề nghiệp làm nông và chỉ số khối cơ 
thể <18,5, nồng độ βhCG của thai trứng toàn phần 
luôn cao hơn thai trứng bán phần, nguy cơ bị biến 
chứng u nguyên bào nuôi cao nếu nồng độ βhCG 
trước nạo > 215.912 IU/L.
Abstract
Risk factors of molar pregnancy and the value of 
βhCG in monitoring its complications
Objective: Study on several risk factors of molar 
pregnancy and the value of βhCG in monitoring its 
complications. Materials and methods: case-control 
and follow-up study, including 41 patients diagnosed as 
molar pregnancy and 246 women at the same gestational 
age treated, monitored at Hue Central Hospital from 
4/2012 to 7/2013. Results: age < 20 or ≥ 40 increases the 
risk of the molar pregnancy 9-fold (OR = 8.8), agricultural 
occupations increases the risk 5-fold (OR = 4.8), BMI < 18,5 
increases the risk 5-fold (OR = 5.1), multiple pregnancy 
(≥ 3 times) increases the risk 6-fold (OR = 5.5), history of 
molar pregnancy increases the risk 19-fold (OR = 19.3). The 
βhCG average of complete molar pregnancy is (482,402.1 
± 372,419.5) higher than partial molar pregnancy’ s 
(142,277.4 ± 88,564.9) with p < 0.05, if the βhCG before 
molar evacuation > 215,912 IU/L, it will have the risk of 
gestational trophoblastic neoplasia with the sensitivity of 
75% and the specificity of 57.6%. Conclusion: The high 
risk factors of molar pregnancy are age < 20 or ≥ 40, history 
of molar pregnancy and pregnancy ≥ 3 times, the low risk 
factors are agricultural occupations and body mass index 
< 18.5, the βhCG average of complete molar pregnancy is 
always higher than partial molar pregnancy’s, there will 
be risk of gestational trophoblastic neoplasia if the βhCG 
before molar evacuation > 215,912 UI / L.
NGHIÊN CỨU MỘT Số YẾU Tố NGUY CƠ 
CỦA bệNH THAI TRỨNG VÀ GIÁ TRỊ 
CỦA hCG TRONG TIÊN LƯỢNG bệNH THAI TRỨNG
Đặt vấn đề
Thai trứng là một dạng lành tính của bệnh lý tế 
bào nuôi có nguồn gốc thai nghén với một số biến 
chứng đáng sợ như thai trứng xâm lấn (10-15%) hay 
ung thư tế bào nuôi (2,5%) [1]. Tần suất bệnh thay đổi 
rất khác nhau như ở châu Âu là 1/1000- 2000 trường 
hợp đẻ thường, ở Philippine là 1/200 riêng ở Việt 
Nam là khoảng 1/500 người có thai. Việc phòng tránh 
bệnh thai trứng cũng như dự phòng biến chứng của 
bệnh đóng vai trò quan trọng trong vấn đề chăm sóc 
sức khỏe của người phụ nữ, đặc biệt là sức khỏe sinh 
sản. Vấn đề đặt ra là làm như thế nào? Để giải quyết 
vấn đề này việc cần làm là phải xác định các yếu tố 
nguy cơ của bệnh thai trứng và đánh giá được yếu tố 
có giá trị theo dõi biến chứng sau điều trị thai trứng. 
Một số nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã cho 
thấy nguy cơ thai trứng cao gấp 5 lần ở những người 
trên 40 tuổi, gấp 1,5-2 lần ở những người <20 tuổi, 
gấp 2,9 lần ở nhóm bệnh nhân có chỉ số trọng lượng 
dưới mức trung bình và gấp 18 lần ở những phụ nữ 
có tiền sử thai trứng so với cộng đồng [3], [12] Đa 
phần các nghiên cứu đều cho thấy hocmon hướng 
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Vũ Quốc Huy, nvqhuy@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài (received): 10/11/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 26/11/2013. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/12/2013
Lê Thị Diệu hằNg, NguyễN Vũ QuốC huyngHIÊn CỨu
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
46
sinh dục rau thai βhCG là yếu tố tương đối có giá trị 
nhất cho đến thời điểm hiện tại trong việc dự phòng 
biến chứng sau nạo thai trứng. 
Đề tài: “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và giá 
trị của βhCG trong theo dõi, tiên lượng bệnh thai 
trứng” được tiến hành với mục tiêu: Tìm hiểu một số 
yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng và khảo sát giá trị 
của βhCG trong theo dõi, tiên lượng bệnh thai trứng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu được tiến hành trên 41 
bệnh nhân thai trứng và 246 sản phụ có cùng tuổi 
thai vào khám và điều trị tại Khoa Phụ sản Bệnh viện 
Trung ương Huế từ tháng 4/2012 đến 7/2013, với tỷ lệ 
nhóm bệnh- nhóm chứng là 1/6.
Phương pháp: 
Mục tiêu 1: nghiên cứu bệnh- chứng, mục tiêu 2: 
theo dõi dọc. 
Phương tiện nghiên cứu: bao gồm máy siêu âm, 
máy định lượng βhCG Elecsys 2010, bộ dụng cụ nạo 
hút buồng tử cung, thuốc kháng sinh, oxytoxin, phiếu 
điều tra
Quá trình thăm khám, chẩn đoán, điều trị và theo 
dõi được thực hiện qua 5 bước: 
- Bước 1: Khai thác bệnh sử, tiền sử để tìm các yếu 
tố nguy cơ của thai trứng.
- Bước 2: Chẩn đoán bệnh qua thăm khám lâm 
sàng và cận lâm sàng.
- Bước 3: Điều trị
- Bước 4: Theo dõi sau nạo thai trứng 
- Bước 5: Xác định biến chứng u nguyên bào nuôi 
nếu có.
Xác định các loại biến số
- Biến số phụ thuộc
Tỷ lệ biến chứng u nguyên bào nuôi trong tổng 
số bệnh nhân thai trứng, trong từng loại thai trứng 
được theo dõi.
- Biến số độc lập: gồm 3 nhóm biến số
+ Các yếu tố liên quan tồn tại từ trước lúc thai 
trứng loại bỏ, thường liên quan tới các yếu tố đặc 
trưng mang tính chất cá nhân (tuổi, nghề nghiệp, tiền 
sử sản phụ khoa, BMI).
+ Các yếu tố có tính chất triệu chứng lâm sàng hay 
cận lâm sàng có trước hay sau khi thai trứng được loại 
bỏ (ra máu âm đạo, nang hoàng tuyến, nôn nghén 
quá độ, tiền sản giật, tắc mạch phổi). 
+ Các yếu tố liên quan tới sau nạo thai trứng (thời 
gian βhCG trở về < 5IU/l, thời gian ra máu âm đạo sau 
nạo thai trứng).
Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Kết quả 
1. Các yếu tố nguy cơ về xã hội
- Mối liên quan về tuổi mẹ với bệnh thai trứng là có 
ý nghĩa thống kê, nguy cơ ở những người mẹ < 20 tuổi 
hay ≥ 40 tuổi là 9 lần (OR= 8,8, 95% CI: 3,58-21,84).
- Mối liên quan về nghề nghiệp mẹ với bệnh thai 
trứng là có ý nghĩa thống kê, nguy cơ tăng gấp 5 lần 
(OR= 4,8, 95% CI: 2,22-10,37).
2. Các yếu tố nguy cơ về nhân trắc và di truyền 
- Có sự liên quan giữa chỉ số khối cơ thể với bệnh thai 
trứng (p=0,002), nguy cơ thai trứng trong những trường 
hợp BMI < 18,5 là 5 lần (OR=5,1, 95% CI: 1,94-13,81).
- Không có mối liên quan giữa tiền sử bệnh nguyên 
bào nuôi trong gia đình với bệnh thai trứng (p=0,462).
3. Các yếu tố nguy cơ về tiền sử sản phụ khoa
- Mang thai nhiều lần (≥ 3 lần) làm tăng nguy cơ 
thai trứng lên 6 lần (OR=5,5, 95% CI: 2,14-14,04).
- Tiền sử thai trứng làm tăng nguy cơ thai trứng lên 
19 lần (OR=19,3, 95% CI: 1,96-190,78).
- Tiền sử sẩy thai, mang đa thai, vòng kinh không 
đều hay có dùng thuốc tránh thai không có mối liên 
quan với thai trứng (p> 0,05).
4. Diễn biến nồng độ βhCG trung bình trước và 
sau nạo giữa thai trứng không biến chứng và có 
biến chứng u nguyên bào nuôi
- Nồng độ trung bình βhCG của thai trứng không 
biến chứng thấp hơn hẳn thai trứng có biến chứng ở 
Tuổi bắt đầu có kinh
Nhóm bệnh Nhóm chứng
oR Ci p
n % n %
Tuổi < 20 hoặc ≥ 40 12 29,3 11 4,5 8,8 3,58-21,84 <0,001
Nghề nghiệp làm nông 14 34,1 24 9,8 4,8 2,22-10,37 <0,001
Bảng 1. phân bố và tỷ suất chênh của các yếu tố nguy cơ về xã hội
yếu tố nguy cơ về
nhân trắc và di truyền
Nhóm bệnh Nhóm chứng
oR Ci p
n % n %
BMi <18,5 8 19,5 11 4,5 5,1 1,94-13,81 0,002
Có tiền sử bệnh nguyên 
bào nuôi trong gia đình
1 2,4 3 1,2 2 0,21-19,95 0,462
Bảng 2. phân bố và tỷ suất chênh của các yếu tố nguy cơ về nhân trắc và di truyền
yếu tố nguy cơ về
nhân trắc và di truyền
Nhóm bệnh Nhóm chứng
oR Ci p
n % n %
Mang thai ≥ 3 lần 9 22 12 4,9 5,5 2,14-14,04 0,001
sẩy thai 7 17,1 42 17,1 1,0 0,42-2,41 0,602
Thai trứng 3 7,3 1 0,4 19,3 1,96-190,78 0,010
Mang đa thai 1 2,4 2 0,8 3,0 0,27-34,43 0,371
Vòng kinh không đều 6 14,6 15 6,1 2,64 0,96-7,26 0,061
Thuốc tránh thai 10 24,4 71 28,9 0,8 0,37-1,71 0,350
Bảng 3. phân bố và tỷ suất chênh của các yếu tố nguy cơ về tiền sử sản phụ khoa
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
47
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 45 - 49, 2013
mọi thời điểm và sớm trở về giá trị bình thường hơn, vì 
vậy đường biểu diễn có dạng dốc đứng.
- Nồng độ trung bình của βhCG của thai trứng có 
biến chứng giảm chậm, và không về giá trị bình thường 
mà tăng trở lại vào tuần thứ 4.
5. Ngưỡng nồng độ βhCG thời điểm trước nạo 
thai trứng
- AUC= 0,84, khoảng tin cậy 95% là 0,66-1,02.
- Vào thời điểm trước nạo ngưỡng nồng độ βhCG 
>215,912 UI/L sẽ có nguy cơ biến chứng với độ nhạy 
75%, độ đặc hiệu 57,6%.
Bàn luận
1. Các yếu tố nguy cơ về xã hội
Tuổi bệnh nhân là một yếu tố nguy cơ quan 
trọng trong thai trứng. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi khi so sánh với nhóm tuổi < 20 và ≥ 40 
nhận thấy nguy cơ thai trứng tăng gấp 9 lần so với 
nhóm tuổi 20-39 (OR= 8,8, khoảng tin cậy 95% là CI 
: 3,58-21,84) và mối liên quan này là có ý nghĩa (p 
<0,001). Theo tác giả Phan Thị Duyên Hải thì nguy 
cơ này là OR= 3,76 (khoảng tin cậy 95% là CI: 1,25-
Biểu đồ 1. so sánh diễn biến nồng độ βhCg trung bình trước và sau nạo giữa thai 
trứng không biến chứng và có biến chứng uNBN
4	
  
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Vũ Quốc Huy, nvqhuy@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài (received) 10/11/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 26/11/2013. Ngày bài 
báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/12/2013 
- Tiền sử sẩy thai, mang đa thai, vòng kinh không đều hay có dùng thuốc tránh thai không có mối 
liên quan với thai trứng (p> 0,05). 
4. Diễn biến nồng độ βhCG trung bình trước và sau nạo giữa thai trứng không biến chứng 
và có biến chứng u nguyên bào nuôi 
Biểu đồ 1. So sánh diễn biến nồng độ βhCG trung bình trước và sau nạo giữa thai trứng không 
biến chứng và có biến chứng UNBN. 
- Nồng độ trung bình βhCG của thai trứng không biến chứng thấp hơn hẳn thai trứng có biến 
chứng ở mọi thời điểm và sớm trở về giá trị bình thường hơn, vì vậy đường biểu diễn có dạng 
dốc đứng. 
- Nồng độ trung bình của βhCG của thai trứng có biến chứ giảm chậm, và không về giá trị 
bình thường mà tăng trở lại vào tuần thứ 4. 
5. Ngưỡng nồng độ βhCG thời điểm trước nạo thai trứng 
783.569	
  
9.317,3	
  
18.036,1	
  
109	
  
1.574,5	
  
285.710,2	
  
44,1	
  
1,2	
  
1	
  
10	
  
100	
  
1000	
  
10000	
  
100000	
  
1000000	
  
truoc	
   2	
   4	
   6	
   8	
   10	
   12	
   20	
   28	
   36	
  
βh
C
G
 (I
U
/L
) 
Tuần 
Nhóm biến chứng 
Biểu đồ 2. Biểu đồ đường cong RoC giá trị nồng độ βhCg thời điểm trước nạo thai trứng
5	
  
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Vũ Quốc Huy, nvqhuy@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài (received) 10/11/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 26/11/2013. Ngày bài 
báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/12/2013 
ROC Curve
1 - Specificity
1.00.75.50.250.00
Se
ns
itiv
ity
1.00
.75
.50
.25
0.00
Biểu . Biểu ồ đường cong ROC giá trị nồng độ βhCG thời điểm 
trước nạo thai trứng 
- AUC= 0,84, khoảng tin cậy 95% là 0,66-1,02. 
- Vào thời điểm trước nạo ngưỡng nồng độ βhCG >215,912 UI/L sẽ có nguy cơ biến chứng với 
độ nhạy 75%, độ đặc hiệu 57,6%. 
BÀN LUẬN 
1. Các yếu tố nguy cơ về xã hội 
Tuổi bệnh nhân là một yếu tố nguy cơ quan trọng trong thai trứng. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi khi so sánh với nhóm tuổi < 20 và ≥ 40 nhận thấy nguy cơ thai trứng tăng gấp 9 
lần so với nhóm tuổi 20-39 (OR= 8,8, khoảng tin cậy 95% là CI : 3,58-21,84) và mối liên quan 
này là có ý nghĩa (p <0,001). Theo tác giả Phan Thị Duyên Hải thì nguy cơ này là OR= 3,76 
(khoảng tin cậy 95% là CI: 1,25-6,24) [3]. Một số tác giả lại chỉ ra tỷ lệ nguy cơ rõ cho từng 
nhóm tuổi như : theo Steigrad và cộng sự thì nguy cơ thai trứng ở trẻ vị thành niên gấp 1,5-2 lần 
và ở phụ nữ >40 gấp trên 5 lần so với hóm còn lại, Bagshawe và cộng sự thì nguy cơ ở phụ nữ 
>35 là 10 lần, ở trẻ vị thành niên thì thấp hơn [12]. 
Theo nghiên cứu của Phan Thị Duyên Hải, nghề nghiệp làm nông có mối liên quan với 
nguy cơ thai trứng ( P< 0,05), nguy cơ này cao gấp 4,3 lần (OR=4,32, CI : 2,08-8,61) so với 
nhóm nghề khác. Nguyễn Thị Xiê và cộng sự trong nghiên ứu điều tra dịch tể học thai trứng 
Hà Nội-Đà Nẵng-Sông Bé thiết kế theo nghiên cứu bệnh- chứng đã nhận thấy tỷ lệ mẹ làm 
ruộng của cả 3 nơi của nhóm thai trứng so với nhóm chứng đều cao hơn một cách có ý nghĩa 
RR = 3,66 [3]. Các tác giả cho rằng người phụ nữ làm ruộng điều kiện ăn uống kém hơn, sinh 
hoạt và vệ sinh thiếu thốn hơn, thêm vào đó là nguy cơ tiếp xúc với thuhốc trừ sâu do đó tỷ lệ 
thai trứng cao hơn. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối liên quan giữa thai trứng và nghề 
nghiệp, với tỷ suất chênh OR=4,8 khoảng tin cậy 95% của OR là 2,22-10,37. Tuy nhiên để tìm 
hiểu chính xác mối liên hệ này cần đầu tư quy mô nghiên cứu lớn hơn về lao động, tập quán sống 
của những người phụ nữh làm nghề nông ở nước ta. 
2. Các yếu tố nguy cơ về nhân trắc và di truyền 
Đ
ộ nhạy 
1 - Độ đặc hiệu 
6,24) [3]. Một số tác giả lại chỉ ra tỷ lệ nguy cơ rõ cho 
từng nhóm tuổi như : theo Steigrad và cộng sự thì 
nguy cơ thai trứng ở trẻ vị thành niên gấp 1,5-2 lần 
và ở phụ nữ >40 gấp trên 5 lần so với nhóm còn lại, 
Bagshawe và cộng sự thì nguy cơ ở phụ nữ >35 là 10 
lần, ở trẻ vị thành niên thì thấp hơn [12].
Theo nghiên cứu của Phan Thị Duyên Hải, nghề 
nghiệp làm nông có mối liên quan với nguy cơ 
thai trứng ( P< 0,05), nguy cơ này cao gấp 4,3 lần 
(OR=4,32, CI : 2,08-8,61) so với nhóm nghề khác. 
Nguyễn Thị Xiêm và cộng sự trong nghiên cứu điều 
tra dịch tể học thai trứng Hà Nội-Đà Nẵng-Sông 
Bé thiết kế theo nghiên cứu bệnh- chứng đã nhận 
thấy tỷ lệ mẹ làm ruộng của cả 3 nơi của nhóm thai 
trứng so với nhóm chứng đều cao hơn một cách 
có ý nghĩa RR = 3,66 [3]. Các tác giả cho rằng người 
phụ nữ làm ruộng điều kiện ăn uống kém hơn, sinh 
hoạt và vệ sinh thiếu thốn hơn, thêm vào đó là nguy 
cơ tiếp xúc với thuhốc trừ sâu do đó tỷ lệ thai trứng 
cao hơn. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối 
liên quan giữa thai trứng và nghề nghiệp, với tỷ suất 
chênh OR=4,8 khoảng tin cậy 95% của OR là 2,22-
10,37. Tuy nhiên để tìm hiểu chính xác mối liên hệ 
này cần đầu tư quy mô nghiên cứu lớn hơn về lao 
động, tập quán sống của những người phụ nữh làm 
nghề nông ở nước ta.
2. Các yếu tố nguy cơ về nhân trắc và di truyền
Chúng tôi nhận thấy có mối liên quan giữa 
chỉ số khối cơ thể với nguy cơ bệnh thai trứng (p 
=0,02), tỷ suất chênh OR = 5,1 khoảng tin cậy 95% 
của OR là 1,94-13,81. Chỉ số khối cơ thể thấp liên 
quan đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân, 
có thể do thiếu các chất dinh dưỡng trong bữa ăn 
hàng ngày như protein và carotene. Nghiên cứu 
của Berkowitz và cộng sự (1985) nêu ra với chế độ 
ăn carotene trên mức trung bình sẽ làm giảm nguy 
cơ thai trứng (RR= 0,6, P=0,02). Không những thế 
carotene với đặc tính chống oxi hóa, tăng cường 
miễn dịch còn góp phần giảm tỷ lệ biến chứng u 
nguyên bào nuôi như trong kết quả của Andrijono 
nghiên cứu mù đôi với 2 nhóm sau nạo thai trứng, 
nhóm dùng giả dược và nhóm dùng vitamin A 
200000 UI/ngày kết quả là nhóm giả dược tỷ lệ 
biến chứng u nguyên bào nuôi là 26,8%, trong 
khi n óm dùng vitamin A là 6,3% và kết quả xét 
nghiệm cho thấy không có sự tăng SGOT và SGPT 
do dùng vitamin A dài ngày [7].
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, yếu 
tố tiền sử bệnh nguyên bào nuôi trong gia đình 
không có liên quan với bệnh thai trứng (p = 0,462). 
Lê Thị Diệu hằNg, NguyễN Vũ QuốC huyngHIÊn CỨu
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
48
Cho đến nay có rất ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề 
này ngoài một vài báo cáo trường hợp như Nguyễn 
Quốc Tuấn (2008) báo cáo trường hợp thai trứng 
trong gia đình có 6 con gái nhưng có tới 4 người bị 
thai trứng, nhiều lần và tất cả đều có biến chứng, 
phải điều trị hóa chất, một trường hợp 3 gia đình 
ở Ấn Độ có trên 2 người chị em gái bị thai trứng ít 
nhất một lần [5].
3. Các yếu tố nguy cơ về tiền sử sản phụ khoa
Nghiên cứu của Trần Quốc Tuấn (2003) cho thấy 
tỷ lệ mang thai ≥ 3 lần ở nhóm thai trứng là 26,6%, 
nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả là 22% [4], 
nguy cơ này tăng gấp 6 lần (OR= 5,5, khoảng tin 
cậy 95% của OR là 2,14-14,04) so với phụ nữ mang 
thai <3 lần. Điều này đồng quan điểm với Steigrad, 
ông cho rằng tỷ lệ thai trứng tăng lên ở những phụ 
nữ nhiều con. Tuy nhiên, một số nghiên cứu của 
Matalon và Berkowitz lại cho rằng không có mối liên 
quan giữa số lần có thai với thai trứng nếu trong độ 
tuổi sinh đẻ [12].
Trong những yếu tố nguy cơ về tiền sử sản phụ 
khoa có thể thấy tiền sử thai trứng có độ kết hợp 
mạnh nhất với bệnh thai trứng, cụ thể là tăng gấp 19 
lần ở những phụ nữ có tiền sử thai trứng (OR=19,3, 
CI: 1,96-190,78). Kết quả này tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của Franke (1983) ở Hà Lan cho thấy nguy 
cơ thai trứng tăng gấp 18 lần ở những phụ nữ có tiền 
sử thai trứng so với cộng đồng.
Theo những nghiên cứu trên thế giới, ngoài yếu 
tố tuổi ra thì tiền sử thai trứng là yếu tố nguy cơ 
hàng thứ 2 của bệnh thai trứng. Theo Bagshawe và 
cộng sự ở Anh nguy cơ thai trứng lần 2 là 1,3%, và 
lần 3 là 15,4%, Lurain: nguy cơ lặp lại thai trứng sau 
1 lần bị là 1%, tương đương với nguy cơ gấp 10-20 
lần so với cộng đồng [9].
Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy 
mối liên quan giữa tiền sử sẩy thai, tiền sử mang 
đa thai, chu kỳ kinh nguyệt và thuốc tránh thai với 
thai trứng. Kết quả nghiên cứu trên thế giới về các 
yếu tố này vẫn chưa thống nhất như: trong nghiên 
cứu của Parazzini và cộng sự những phụ nữ có tiền 
sử sẩy thai có nguy cơ thai trứng cao gấp 2-3 lần 
[9]. Tuy nhiên trong những nghiên cứu khác, tiền 
sử sẩy thai và sẩy thai liên tiếp (Berkowitz 1985, 
La Vacchia 1985) được báo cáo không có liên quan 
đến thai trứng [12]. Trong nghiên cứu của Phan 
Thị Duyên Hải, kết quả cho thấy không có mối liên 
quan giữa chu kỳ kinh nguyệt không đều với thai 
trứng (OR= 2,28, CI: 0,87-5,99) [3]. Một nghiên cứu 
ở Baltimore đã nhận thấy tiền sử vô sinh và các 
vấn đề kinh nguyệt không liên quan đến bệnh thai 
trứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy 
cũng không có mối liên quan giữa bệnh thai trứng 
với những người có chu kỳ kinh nguyệt không đều 
OR = 2,64 khoảng tin cậy 95% của OR là (0,96-7,26).
Về vấn đề sử dụng thuốc tránh thai, chúng tôi 
không tìm thấy mối liên hệ giữa bệnh thai trứng với 
tiền sử sử dụng thuốc tránh thai OR = 0,8, CI: 0,37-
1,71, P= 0,371. Kết quả này tương tự với kết quả 
của Phan Thị Duyên Hải cho thấy không có mối liên 
quan giữa thuốc tránh thai và thai trứng OR= 1,4 (CI: 
0,73-2,69). Không những thế theo nghiên cứu của 
Berkowizt (1981) và Costa cho thấy thuốc tránh thai 
cũng không làm tăng nguy cơ u nguyên bào nuôi 
sau nạo thai trứng, vì vậy mà thuốc tránh thai là một 
lựa chọn tốt cho việc đảm bảo quá trình theo dõi sau 
nạo thai trứng [8].
4. Diễn biến nồng độ βhCG trung bình trước và 
sau nạo giữa thai trứng không biến chứng và có 
biến chứng u nguyên bào nuôi
Biểu đồ 1 cho thấy nồng độ βhCG của nhóm 
có biến chứng u nguyên bào nuôi giảm chậm và 
không có trường hợp nào βhCG trở về <5 IU/l. Đặc 
biệt βhCG có dấu hiệu tăng lên trở lại vào tuần 
thứ 4. So với kết quả của Phan Nữ Thanh Châu là 
nồng độ βhCG hạ thấp vào tuần thứ 8 và tăng lại 
vào tuần thứ 10 thì thời gian xuất hiện biến chứng 
của chúng tôi có phần ngắn hơn [2]. Tất cả 19,5% 
trường hợp sau nạo thai trứng có biến chứng u 
nguyên bào nuôi trong nghiên cứu của chúng tôi 
hiện biến chứng trong vòng 12 tuần sau nạo, tương 
tự kết quả của Trần Nguyên Vũ cho thấy 87,83% 
trường hợp có biến chứng xuất hiện trong vòng 11 
tuần sau nạo [6]. Do vậy khoảng thời gian 3 tháng 
đầu sau nạo thai trứng là khoảng thời gian quan 
trọng cần theo dõi kỹ nhất.
Khảo sát một số nghiên cứu của nước ngoài 
cho thấy: Trong nghiên cứu của Sebire và cộng sự 
(2007) trên 6701 bệnh nhân sau theo dõi thai trứng 
53% trường hợp βhCG trở về bình thường trong 8 
tuần, 6% biến chứng u nguyên bào nuôi, trong đó 
98% xẩy ra biến chứng trong 6 tháng sau nạo [11], 
nghiên cứu của Pisal và cộng sự đã cung cấp những 
bằng chứng thuyết phục để có thể rút ngắn sự theo 
dõi cho phần lớn phụ nữ bị thai trứng: trong 2046 
bệnh nhân theo dõi sau nạo thai trứng, có 1296 
trường hợp βhCG về âm tính đầu tiên sau 5 tuần, 
trong nhóm này chỉ 0,1% bị biến chứng, so với 104 
trường hợp nồng độ βhCG vẫn còn tăng trong. 
Điều này cho thấy những bệnh nhân có βhCG trở 
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
49
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 45 - 49, 2013
về âm tính nhanh sau nạo thai trứng sẽ có nguy cơ 
biến chứng u nguyên bào nuôi thấp [10].
5. Ngưỡng nồng độ βhCG thời điểm trước nạo 
thai trứng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
vào thời điểm trước nạo nồng độ βhCG >215,912 
UI/L sẽ có nguy cơ biến chứng với độ nhạy tương 
đối cao 75%, độ đặc hiệu 57,6%, giá trị vùng dưới 
đường cong là 0,84. Kết quả này khá tương đồng 
với kết quả của Phan Nữ Thanh Châu (2006) cho 
thấy nguy cơ xảy ra biến chứng khi nồng độ βhCG 
trước nạo >217,367 UI/L với độ nhạy 81,1%, và độ 
đặc hiệu 35,9% [2].
Kết luận
Qua nghiên cứu 41 trường hợp thai trứng với 
29 trường hợp thai trứng toàn phần, 12 trường hợp 
thai trứng bán phần, tỷ lệ biến chứng u nguyên 
bào nuôi là 19,5% và 246 trường hợp đối chứng 
vào điều trị và theo dõi tại khoa Phụ Sản bệnh viện 
Trung Ương Huế từ 4/2012- 7/2013, chúng tôi có 
những kết luận như sau:
- Mẹ < 20 tuổi hay ≥ 40 tuổi làm tăng nguy cơ thai 
trứng gấp 9 lần (OR= 8,8).
- Mẹ làm nông làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 5 
lần (OR= 4,8).
- BMI < 18,5 làm tăng nguy cơ thai trứng gấp 5 
lần (OR=5,1).
- Mang thai nhiều lần (≥ 3 lần) làm tăng nguy cơ 
thai trứng gấp 6 lần (OR=5,5).
- Tiền sử thai trứng làm tăng nguy cơ thai trứng 
gấp 19 lần (OR=19,3). 
- Các yếu tố địa dư, tiền sử gia đình bị bệnh 
nguyên bào nuôi, tiền sử mang đa thai, tiền sử sẩy 
thai, kinh nguyệt không đều, sử dụng thuốc tránh 
thai không phải là yếu tố nguy cơ của bệnh thai trứng 
trong nghiên cứu này.
- Diễn tiến của nồng độ βhCG trước và sau nạo 
trong nhóm không biến chứng giảm nhanh hơn 
nhóm có biến chứng và một khi đã về < 5 IU/L thì 
không tăng lên trở lại.
- Nồng độ βhCG trước nạo > 215,912 IU/l sẽ có 
nguy cơ biến chứng với độ nhạy 75%, độ đặc hiệu 
57,6%.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Hồng Cẩm (2008), “Thai trứng”, Sản Phụ khoa tập II, 
NXB Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 722-729.
2. Phan Nữ Thanh Châu (2006), Nghiên cứu giá trị βhCG 
và kích thước nang hoàng tuyến trong theo dõi và tiên lượng 
bệnh nguyên bào nuôi, Luận án Chuyên khoa cấp II, Trường 
Đại học Y khoa Huế.
3. Phan Thị Duyên Hải (2001), Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng và một số yếu tố liên quan bệnh chửa trứng tại Bệnh viện 
Trung Ương Huế, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại Học Y 
Khoa Huế.
4. Nguyễn Quốc Tuấn (2003), Nghiên cứu về một số đặc 
điểm thường gặp trên bệnh nhân chửa trứng và các yếu tố 
liên quan đến biến chứng, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường Đại 
học Y hà Nội.
5. Nguyễn Quốc Tuấn (2008), “Nhân một trường hợp chửa 
trứng có yếu tố gia đình”, Tạp chí nghiên cứu y học 53 (1), tr16-18.
6. Trần Nguyên Vũ (2005), Đánh giá kết quả điều trị bệnh 
chửa trứng tại khoa Phụ sản bệnh viện Trung Ương Huế và 
bệnh viện Trường đại học Y khoa Huế, Luận án Chuyên khoa 
cấp II, Trường Đại học Y khoa Huế.
7. Andrijono A., Muhilal M. (2010), “Prevention of Post-
Mole Malignant Trophoblastic Disease with Vitamin A”, Asian 
Pacific Journal of Cancer Prevention, 11, pp.567-5 70.
8. Costa H.L.F., Doyle P. (2006), “Influence of oral 
contraceptives in the development of post-molar trophoblastic 
neoplasia-A systematic review”, Gynecologic Oncology , 100, 
pp.579 – 585.
9. Lurain J.R. (2010), “Gestational trophoblastic disease I: 
epidemiology, pathology, clinical presentation and diagnosis 
of gestational trophoblastic disease, and management 
of hydatidiform mole”, American Journal of Obstetrics & 
Gynecology, pp.531-539.
10. Pisal N., Tidy J., Hancock B. (2004), “Gestational 
trophoblastic disease: is βhCG intensive follow up essential 
in all women”, British Journal of Obstetrics and Gynaecology, 
111, pp. 1449–1451. 
11. Sebire N.J., Fisher R.A., Foskett M., et al. (2003), “Risk 
of recurrent hydatidiform mole and subsequent pregnancy 
outcome following complete or partial hydatidiform molar 
pregnancy”, International Journal of Obstetrics and 
Gynaecology, 110, 22–26. 
12. Steigrad S.J. (2003), “Epidemiology of gestational 
trophoblastic diseases”, Best Practice & Research Clinical 
Obstetrics and Gynaecology (2003), 17, 837–847. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_yeu_to_nguy_co_cua_benh_thai_trung_va_gia.pdf