Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm

Trên cơ sở phân tích một cách khái lược các mô hình chủ nghĩa xã hội đã từng

và đang tồn tại trên thế giới, trong bài viết này, chúng tôi đã đề cập tới mô hình xã hội xã

hội chủ nghĩa của Việt Nam với 8 đặc trưng được Đảng ta nêu ra trong Văn kiện Đại hội

lần thứ XI. Đến Đại hội XII, những đặc trưng đó của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

tiếp tục được Đảng kiên trì; tuy nhiên, Đảng cũng đưa ra một số điểm mới liên quan đến

mô hình chủ nghĩa xã hội, đó là việc xác định rõ hơn 4 trụ cột của sự phát triển đất nước,

bổ sung và điều chỉnh các quan hệ lớn cho phù hợp hơn với thực tiễn đang vận động, biến

đổi và phát triển. Theo đó, có thể nói, việc tiếp tục hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là một tất yếu khách quan, có

tính quy luật. Đó cũng là biện chứng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn về xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

pdf 10 trang kimcuc 15240
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm

Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Văn Đức 
12 
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM 
RESEARCH ON SOCIALISM MODEL IN VIETNAM : A FEW ISSUES 
PHẠM VĂN ĐỨC 
 GS.TS. Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội, 
ducphilosophy@yahoo.com 
Mã số: TCKH13-14-2019 
TÓM TẮT: Trên cơ sở phân tích một cách khái lược các mô hình chủ nghĩa xã hội đã từng 
và đang tồn tại trên thế giới, trong bài viết này, chúng tôi đã đề cập tới mô hình xã hội xã 
hội chủ nghĩa của Việt Nam với 8 đặc trưng được Đảng ta nêu ra trong Văn kiện Đại hội 
lần thứ XI. Đến Đại hội XII, những đặc trưng đó của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
tiếp tục được Đảng kiên trì; tuy nhiên, Đảng cũng đưa ra một số điểm mới liên quan đến 
mô hình chủ nghĩa xã hội, đó là việc xác định rõ hơn 4 trụ cột của sự phát triển đất nước, 
bổ sung và điều chỉnh các quan hệ lớn cho phù hợp hơn với thực tiễn đang vận động, biến 
đổi và phát triển. Theo đó, có thể nói, việc tiếp tục hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở 
Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là một tất yếu khách quan, có 
tính quy luật. Đó cũng là biện chứng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn về xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
Từ khóa: mô hình chủ nghĩa xã hội; mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam; Văn 
kiện Đại hội lần thứ XI, XII; 4 trụ cột của sự phát triển đất nước. 
ABSTRACT: On the basis of general analysing a few socialism model which has existed 
and still exist in the world, in this article, we discuss the model of Vietnamese socialism 
model in Vietnam with 8 typical characters stated in the paper of the 11th Plenum of Party 
Central Committee. In the 12th Plenum, these typical characters of Vietnamese socialism 
model continued to be applied, however, The Party stated some new points related to 
Socialism Model, this was the identification of 4 main bases of national development, 
addition and adjustment the big relationships to suit the changing and developing reality. 
Hence, the process of ongoing completion based on research theory and reality of Vietnam 
socialism. 
Key words: socialism model; Vietnamese socialism model; paper of 11th Plenum of Party 
Central Committee; 4 bases of national development. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 – 2019 
13 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm trước đổi mới, ở 
Việt Nam và các nước đi theo con đường 
xã hội chủ nghĩa, người ta thường nhắc tới 
khái niệm mô hình chủ nghĩa xã hội. Vào 
thời kỳ đó, đã có lúc mô hình chủ nghĩa xã 
hội ở Liên Xô và Đông Âu trở thành hình 
mẫu lý tưởng cho các nước đang phát triển 
đi theo con đường này noi theo. Nhưng, 
đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, 
trước sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, 
giới lý luận mácxít ở Việt Nam đã tiến 
hành phân tích một loạt nguyên nhân cả 
khách quan lẫn chủ quan và đi đến kết luận 
rằng, đó là sự sụp đổ của một mô hình cụ 
thể về chủ nghĩa xã hội chứ không phải là 
sự sụp đổ của lý luận khoa học về chủ 
nghĩa xã hội. Trong suốt một thời gian dài, 
khoảng hơn 20 năm, ít người nói đến mô 
hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng, đến những 
năm gần đây, cùng với những thành công to 
lớn của công cuộc đổi mới, giới lý luận ở 
Việt Nam đã đặt lại vấn đề mô hình chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vậy, mô hình chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam có những đặc 
trưng và đặc điểm gì. 
2. NỘI DUNG 
Trước hết, để hiểu thế nào là mô hình 
chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần làm rõ khái 
niệm mô hình phát triển xã hội là gì? 
Mô hình phát triển xã hội là khái niệm 
để chỉ chủ thể của hoạt động xã hội sử dụng 
các phương tiện, phương thức nhằm đạt 
được mục tiêu phát triển trong thực tiễn phát 
triển xã hội, là những khái quát chung nhất 
về mục tiêu và con đường hay cách thức để 
hiện thực hóa quá trình chuyển biến của xã 
hội từ trình độ thấp sang trình độ cao. 
Xét trên bình diện phổ quát nhất, mô 
hình phát triển xã hội bao gồm các khía 
cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất, nhìn từ góc độ 
bản chất, mô hình phát triển xã hội là sự 
thống nhất giữa mục tiêu phát triển và con 
đường hiện thực hóa mục tiêu; thứ hai, 
nhìn từ góc độ nội dung, mô hình phát triển 
xã hội là chỉnh thể hữu cơ của các mô hình 
phát triển trong từng lĩnh vực cụ thể của 
đời sống xã hội, như mô hình phát triển 
kinh tế, mô hình phát triển chính trị, mô 
hình phát triển xã hội và mô hình phát triển 
văn hóa; thứ ba, nhìn từ góc độ hình thức, 
mô hình phát triển xã hội hết sức đa dạng, 
có những biểu hiện đặc thù do điều kiện 
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của 
từng quốc gia dân tộc quy định. 
Trên thực tế, thế giới đã chứng kiến hai 
mô hình phát triển xã hội tiêu biểu nhất, 
từng được hiện thực hóa và song song tồn 
tại, đó là mô hình chủ nghĩa tư bản và mô 
hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng bản thân các 
mô hình chủ nghĩa tư bản lẫn mô hình chủ 
nghĩa xã hội cũng luôn có những dạng cụ 
thể khác nhau. Chẳng hạn, đối với mô hình 
chủ nghĩa tư bản, ngoài những đặc trưng 
chung nhất để phân biệt nó với mô hình chủ 
nghĩa xã hội, chúng ta có thể kể ra một số 
dạng thức cụ thể của mô hình này như sau: 
Một là, mô hình chủ nghĩa tư bản châu 
Âu truyền thống. Đây là mô hình của một số 
nước phát triển ở Tây Âu với mục tiêu gắn sự 
phát triển xã hội với sự phát triển của lực lượng 
sản xuất. Đặc trưng chủ yếu của loại mô hình 
này là phát triển kinh tế thị trường xã hội, đề cao 
tầm quan trọng về tầm nhìn và sự điều tiết của 
nhà nước đối với phát triển kinh tế; coi trọng sự 
vận hành lành mạnh và ổn định của nền kinh tế, 
nhấn mạnh đến công bằng thị trường; chú trọng 
việc xây dựng phúc lợi xã hội,... 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Văn Đức 
14 
Hai là, mô hình kinh tế thị trường tự 
do Mỹ. Nền tảng của loại mô hình này là 
đề cao sự tự điều chỉnh của thị trường, song 
vẫn chấp nhận sự điều tiết vĩ mô, bao gồm 
cả việc can thiệp của nhà nước và điều 
hành của chính phủ. Đặc trưng của loại mô 
hình này là nhấn mạnh đến tính tích cực và 
lợi ích của việc bảo vệ kinh doanh tư nhân, 
từ đó dẫn đến việc chủ thể của mô hình 
nằm trong tầm kiểm soát và chi phối của tư 
nhân, bị tư nhân lũng đoạn, đồng thời nhà 
nước có chức năng phục vụ cho sự phát 
triển của kinh tế tư nhân. 
Ba là, mô hình chính phủ chủ đạo 
của Nhật Bản. Nét đặc trưng của loại mô 
hình này là lấy điều tiết thị trường làm tiền 
đề; trên cơ sở đó, nhấn mạnh tác dụng chỉ 
đạo và dẫn dắt của chính phủ đối với nền 
kinh tế. Điểm khác biệt của loại mô hình 
này với mô hình của các nước phát triển 
khác được thể hiện tập trung ở hai điểm: 
Thứ nhất, chính phủ đóng vai trò quan 
trọng trong sự vận hành của nền kinh tế; 
thứ hai, tính dân chủ của các quyết sách 
được thể hiện ở chỗ, mọi quyết sách đều 
được công khai lấy ý kiến và đảm bảo lợi 
ích của các bên; về cơ bản, các quyết sách 
đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích 
dân tộc và lợi ích dân chủ. 
Bốn là, mô hình Đông Á. Về mặt kinh 
tế, loại mô hình này đề cao quan điểm phát 
triển kinh tế nhằm xây dựng đất nước hoặc 
đi theo chủ nghĩa ưu tiên kinh tế, sử dụng 
chiến lược chú trọng xuất khẩu; đồng thời, 
duy trì kinh tế thị trường dưới sự chủ đạo 
của nhà nước. Về mặt chính trị, loại mô 
hình này sử dụng thể chế chính trị của chủ 
nghĩa uy quyền; đồng thời, sử dụng phương 
thức điều hành đất nước cả bằng người tài 
lẫn bằng luật pháp, nêu cao tiến trình dân 
chủ hóa từng bước. Trong mối quan hệ 
giữa hành pháp và tư pháp ở các nước phát 
triển theo mô hình loại này, hành pháp giữ 
vai trò chủ đạo. Trên thực tế, ở các nước đó, 
hành pháp quyết định cả lập pháp lẫn tư pháp. 
Mô hình chủ nghĩa xã hội hay loại 
hình chủ nghĩa xã hội (Socialist model; 
Socialist mode; Socialist pattern) là khái 
niệm chỉ các dạng chủ nghĩa xã hội khác 
nhau được tiến hành ở các nước khác nhau 
trên thế giới. Điều đó có nghĩa là, các nước 
khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội 
đều có hình thức, phương hướng và con 
đường của riêng mình. Do có sự khác biệt 
giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội, 
văn hóa cho đến dân số, điều kiện tự 
nhiên,... nên mô hình chủ nghĩa xã hội ở 
các nước, thậm chí ngay trong một nước 
nhưng ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, 
cũng có những hình thức khác nhau với 
những nét đặc trưng riêng. Mỗi nước xã hội 
chủ nghĩa căn cứ vào điều kiện thực tiễn 
của đất nước mình mà đề ra mục tiêu và 
phương thức phát triển khác nhau trong 
từng giai đoạn cụ thể. 
Mô hình chủ nghĩa xã hội có thể được 
hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo 
nghĩa rộng, mô hình chủ nghĩa xã hội là 
toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về mục 
tiêu, phương tiện (cách thức) và con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội nói chung. Theo 
nghĩa hẹp, mô hình chủ nghĩa xã hội là toàn 
bộ những lý luận, quan điểm về mục tiêu, 
phương tiện và con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội trong một giai đoạn, một hoàn cảnh 
lịch sử cụ thể của mỗi nước. 
Mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời 
gian qua cũng có nhiều loại khác nhau và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 – 2019 
15 
có thể được khái quát thành hai loại tiêu 
biểu sau: 
Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội 
kiểu Liên Xô (đại diện cho các nước Đông 
Âu). Trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu 
này, chúng ta thấy có hai giai đoạn tương 
đối nổi bật, đó là giai đoạn Lênin và giai 
đoạn Stalin. Mô hình chủ nghĩa xã hội 
kiểu Lênin có các đặc trưng chủ yếu sau: 
Thứ nhất, nhà nước lấy danh nghĩa xã hội 
trực tiếp chiếm hữu và sử dụng tư liệu sản 
xuất; thứ hai, nhà nước quyết định kế 
hoạch, giám sát quá trình sản xuất và phân 
phối sản phẩm của toàn xã hội, toàn thể 
người dân (trong độ tuổi lao động) cùng lao 
động, cùng thụ hưởng trong một tiêu chuẩn 
và điều kiện lao động chung; thứ ba, biến 
xây dựng đất nước thành một bộ máy quản 
lý, tạo nên một cơ chế quản lý từ trên 
xuống dưới. Cho đến trước khi Liên Xô ra 
đời, tất cả các mô hình chủ nghĩa xã hội đã 
được nêu ra kể từ các nhà xã hội chủ nghĩa 
không tưởng đầu thế kỷ XVI cho đến chủ 
nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và 
Ph.Ănghen đều chưa trở thành hiện thực. 
Mô hình Liên Xô trước đây là mô hình chủ 
nghĩa xã hội đầu tiên được hiện thực hóa. 
Mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung 
cao độ kiểu Stalin (hay còn gọi là mô 
hình tập trung cao độ) bao gồm một số 
đặc trưng chủ yếu: thứ nhất, thực hiện chế 
độ công hữu đơn nhất, loại bỏ toàn bộ các 
thành phần kinh tế khác; thứ hai, xây dựng 
nền kinh tế hiện vật chứ không phải là nền 
kinh tế hàng hóa, sử dụng mô hình quản lý 
tập trung cao độ trên phương diện tổ chức 
quản lý; thứ ba, thực hiện chuyên chính vô 
sản trên phương diện đời sống chính trị, 
cho rằng động lực phát triển của xã hội xã 
hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp 
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. 
Kiểu mô hình chủ nghĩa xã hội này mang 
những đặc trưng của thể chế thời chiến mà 
cơ bản dựa trên nguyên tắc lý luận và lý 
tưởng cách mạng. Khiếm khuyết đó khiến 
mô hình này có một khuyết điểm khá 
nghiêm trọng là xa rời thực tiễn cuộc sống. 
Hai là, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu 
Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa xã hội 
kiểu Trung Quốc cũng có hai giai đoạn: 
giai đoạn Mao Trạch Đông và giai đoạn cải 
cách mở cửa. 
Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội 
kiểu Mao Trạch Đông là mô hình chủ 
nghĩa xã hội thể chế kế hoạch hành chính 
trung ương tập trung cao độ. Loại mô hình 
này chịu một số ảnh hưởng của mô hình 
Liên Xô cũ, tạo ra những nét đặc trưng của 
chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung 
Quốc, song nhìn chung vẫn không vượt qua 
được khuôn khổ của mô hình chủ nghĩa xã 
hội Liên Xô cũ, đặc biệt là trên phương 
diện thể chế kinh tế. 
Thứ hai, kiểu mô hình chủ nghĩa xã 
hội mang đặc sắc Trung Quốc là mô hình 
phát triển xã hội gắn với lý luận Đặng Tiểu 
Bình, học thuyết “ba đại diện” và quan 
điểm phát triển một cách khoa học. Điểm 
nhấn mạnh của mô hình này là đổi mới 
mạnh mẽ về mặt tư tưởng, tập trung mọi 
nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, mà các 
nhà lý luận của Trung Quốc gọi là phát 
triển lực lượng sản xuất. Một trong những 
đột phá lý luận quan trọng nhất của Đặng 
Tiểu Bình là việc xác lập được lý luận kinh 
tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việc xác lập 
này không chỉ đột phá vào lý luận kinh tế 
kế hoạch truyền thống - lý luận đã phủ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Văn Đức 
16 
nhận quan hệ hàng hóa, tiền tệ, phủ định 
vai trò của kinh tế thị trường, mà còn đột 
phá vào lý luận kinh tế thị trường truyền 
thống vốn coi điều tiết thị trường là của 
riêng sở hữu tư nhân. Sau lý luận của Đặng 
Tiểu Bình và tư tưởng “ba đại diện” của 
Giang Trạch Dân, tư tưởng xã hội hài hòa 
của Hồ Cẩm Đào được coi là bước phát 
triển mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã 
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở 
Trung Quốc. 
Nội dung cơ bản của quan điểm về xã 
hội hài hòa được thể hiện ở 4 điểm sau: thứ 
nhất, “xã hội hài hoà là thuộc tính bản chất 
của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung 
Quốc, là đảm bảo quan trọng nhất cho sự 
giàu mạnh của quốc gia, hưng thịnh của 
dân tộc, hạnh phúc của nhân dân”; thứ hai, 
xã hội hài hòa là mục tiêu phấn đấu không 
ngừng của Đảng Cộng sản và của nhân dân 
Trung Quốc; thứ ba, “xây dựng xã hội hài 
hòa xã hội chủ nghĩa là một quá trình liên 
tục điều hòa không ngừng các mâu thuẫn 
xã hội”; thứ tư, “xã hội hài hòa xã hội chủ 
nghĩa là xã hội hài hòa do toàn thể nhân 
dân xây dựng, toàn thể nhân dân hưởng 
thụ”. Mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc 
Trung Quốc hiện nay đang đạt được nhiều 
thành tựu lớn lao, được cả thế giới ghi nhận. 
Thứ ba, kiểu mô hình chủ nghĩa xã 
hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là 
mô hình phát triển xã hội dựa trên tư tưởng 
Tập Cận Bình. Đại hội XIX của Đảng Cộng 
sản Trung Quốc tháng 10 - 2017 đã chính 
thức đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ 
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời 
đại mới” vào Điều lệ Đảng. Tư tưởng này 
đã đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương châm 
chiến lược của Đảng Cộng sản Trung Quốc 
đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hiện 
đại hóa vào giữa thế kỷ XXI. Báo cáo Đại 
hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ ra, 
từ cận đại đến nay Trung Quốc đã trải qua 
các giai đoạn lịch sử “từ đứng lên, giàu 
lên đến mạnh lên” [2]. Điều này với hàm ý 
thời đại mới là thời đại Tập Cận Bình 
làm cho Trung Quốc mạnh lên. 
Xuất phát từ nền tảng kiên trì chủ 
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Mao Trạch 
Đông, Lý luận Đặng Tiểu Bình, Tư tưởng 
quan trọng “ba đại diện” và Quan điểm 
phát triển khoa học, tập thể lãnh đạo thứ 5 
do Tập Cận Bình đứng đầu đã xác định 
nhiệm vụ của xây dựng chủ nghĩa xã hội 
đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới là: 
xây dựng cường quốc hiện đại hóa xã hội 
chủ nghĩa và phục hưng dân tộc Trung 
Hoa vĩ đại. 
Trên cơ sở xây dựng thành công xã hội 
khá giả toàn diện vào năm 2020, trong 30 
năm tiếp theo, Trung Quốc sẽ chia việc 
hoàn thành nhiệm vụ tổng thể trên làm 2 
giai đoạn: 
Đến năm 2035 (15 năm tới): cơ bản 
thực hiện hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội; 
Đến năm 2050 (15 năm tiếp theo): 
hoàn thành mục tiêu xây dựng cường quốc 
hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, 
dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp [2]. 
Về nội dung của chủ nghĩa xã hội đặc 
sắc Trung Quốc trong thời đại mới, gồm: ...  trị 
đảng toàn diện), nhấn mạnh “Bốn tự tin” 
(con đường, lý luận, chế độ, văn hóa); 
Xác định rõ mục tiêu tổng thể đi sâu 
cải cách toàn diện là hoàn thiện và phát 
triển chế độ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung 
Quốc, thúc đẩy hệ thống quản lý đất nước 
và hiện đại hóa năng lực quản lý đất nước; 
Xác định rõ mục tiêu tổng thể thúc đẩy 
toàn diện quản lý đất nước theo pháp luật là 
xây dựng hệ thống pháp trị chủ nghĩa xã 
hội đặc sắc Trung Quốc, xây dựng nhà 
nước pháp trị xã hội chủ nghĩa; 
Xác định rõ mục tiêu quân đội hùng 
mạnh của Đảng trong thời kỳ mới là xây 
dựng quân đội nhân dân nghe theo sự chỉ 
huy của Đảng, có thể đánh thắng, tác phong 
tốt, xây dựng quân đội nhân dân thành đội 
quân hàng đầu thế giới; 
Xác định rõ ngoại giao nước lớn đặc 
sắc Trung Quốc cần thúc đẩy xây dựng 
quan hệ quốc tế kiểu mới, thúc đẩy xây 
dựng cộng đồng chung vận mệnh; 
Xác định rõ đặc trưng bản chất nhất 
của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là 
Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, ưu 
thế lớn nhất của chế độ chủ nghĩa xã hội 
đặc sắc Trung Quốc là Đảng Cộng sản 
Trung Quốc lãnh đạo, Đảng là lực lượng 
lãnh đạo chính trị cao nhất, đề ra yêu cầu 
tổng thể về xây dựng Đảng trong thời kỳ 
mới, làm nổi bật vị trí quan trọng của việc 
xây dựng chính trị trong xây dựng Đảng. 
Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa 
xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã 
xác định 14 phương lược (phương châm 
sách lược) cơ bản sau: 
Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng đối với 
mọi mặt công tác; 
Kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm; 
Kiên trì đi sâu cải cách toàn diện; 
Kiên trì quan điểm phát triển mới; 
Kiên trì nhân dân làm chủ; 
Kiên trì quản lý đất nước toàn diện 
theo pháp luật; 
Kiên trì hệ thống giá trị cốt lõi của chủ 
nghĩa xã hội; 
Kiên trì đảm bảo và cải thiện dân sinh; 
Kiên trì sự chung sống hài hòa giữa 
con người và thiên nhiên; 
Kiên trì quan niệm an ninh quốc gia 
tổng thể; 
Kiên trì “một nước hai chế độ” và đẩy 
mạnh thống nhất tổ quốc; 
Kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng 
đối với quân đội; 
Kiên trì thúc đẩy xây dựng cộng đồng 
cùng chung vận mệnh của nhân loại; 
Kiên trì quản trị Đảng nghiêm minh 
toàn diện. 
Ngoài hai hệ thống mô hình trên, hiện 
nay mô hình “con đường thứ ba” trong 
bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang thu hút 
sự quan tâm, chú ý. Mô hình “con đường 
thứ ba” có các đặc trưng cơ bản sau: Một 
là, lấy cân bằng giữa tác dụng của thị 
trường và sự điều tiết của nhà nước làm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Văn Đức 
18 
nguyên tắc để tạo ra nền kinh tế mới; hai 
là, lấy cân bằng giữa trách nhiệm và quyền 
lợi làm nguyên tắc để xây dựng hệ thống 
phúc lợi mới; ba là, lấy cân bằng giữa hiệu 
quả kinh tế và công bằng xã hội làm 
nguyên tắc để đề xuất chính sách mới; bốn 
là, lấy cân bằng giữa chủ nghĩa dân tộc và 
chủ nghĩa quốc tế làm nguyên tắc trong 
thực thi chính sách đối ngoại. 
Hiện nay, chưa có một hệ thống lý luận 
chặt chẽ về mô hình “con đường thứ ba”. 
“Con đường thứ ba” xuất hiện là do xuất 
phát từ điều kiện thực tế của chủ nghĩa tư 
bản trong quá trình toàn cầu hóa, các chính 
đảng cánh tả của phương Tây phải đưa ra 
các giải pháp để xử lý các vấn đề hiện thực 
trong xã hội tư bản, phản ánh hiện tượng và 
xu thế tả khuynh của hình thái ý thức chính 
trị ở các nước phương Tây. Về thực chất, 
đây là một sự thỏa hiệp chính trị giữa chủ 
nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa xã hội dân 
chủ, là một phong trào tư tưởng của chủ 
nghĩa tư bản vượt ra ngoài cả “tả” và “hữu” 
trong điều kiện toàn cầu hóa nhằm khắc 
phục những vấn đề nội tại của chính mình. 
Mặc dù, mô hình này có một số nội dung 
và đặc điểm mới, song về bản chất, nó xuất 
phát từ tiền đề bảo vệ chủ nghĩa tư bản, tập 
trung vào điều chỉnh phương thức quản lý 
và cách thức điều hành đất nước. 
Ở Việt Nam, trước đổi mới, chúng ta 
thường nhắc tới mô hình chủ nghĩa xã hội 
mà chúng ta sẽ xây dựng mang dáng dấp 
của mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô 
và Đông Âu. Đó là một mô hình chủ nghĩa 
xã hội dựa trên những đặc trưng do C.Mác 
và Ph.Ăngghen phác thảo và Stalin hiện 
thực hóa trong thực tế. Nhưng sau sự sụp 
đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên 
Xô và Đông Âu, Việt Nam đã chủ động 
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất 
nước, hoàn thiện dần mô hình mới về chủ 
nghĩa xã hội với những mục tiêu và phương 
tiện xác định để từng bước đạt tới mục tiêu 
đó. Căn cứ vào các văn kiện của Đảng 
Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là Văn kiện 
Đại hội XI, chúng ta có thể phác họa mô 
hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với 
những nội dung chủ yếu như sau: 
Thứ nhất, mục tiêu bao trùm và thể 
hiện bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa 
mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng là 
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh. 
Thứ hai, mục tiêu đó được cụ thể hóa 
bằng một loạt các đặc trưng cơ bản trên các 
lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là: 
1) Do nhân dân làm chủ; 
2) Có nền kinh tế phát triển cao dựa 
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ 
sản xuất tiến bộ phù hợp; 
3) Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản 
sắc dân tộc; 
4) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, 
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 
5) Các dân tộc trong cộng đồng Việt 
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp 
nhau cùng phát triển; 
6) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 
7) Có quan hệ và hợp tác với các nước 
trên thế giới. 
Các đặc trưng trên đây thể hiện một 
cách toàn diện những nét căn bản nhất các 
lĩnh vực khác nhau của một xã hội, từ chính 
trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội và đối 
ngoại. Các đặc trưng đó là sự kế thừa quan 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 – 2019 
19 
điểm của Đảng tại Đại hội X; đồng thời, có 
sự bổ sung và phát triển mới cho phù hợp 
với thực tiễn. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII 
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết 5 
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đồng 
thời tổng kết và đánh giá 30 năm tiến hành 
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước - một 
sự đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách 
mạng, một quá trình cải biến sâu sắc, toàn 
diện, triệt để của toàn Đảng, toàn dân và 
toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Đại hội XII khẳng định, nhìn tổng thể, 
qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được 
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử 
trên mọi phương diện, trong đó có đổi mới 
về lý luận. Đặc biệt, chúng ta đã nhận thức 
ngày càng rõ hơn về mô hình chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam; khẳng định đường lối đổi 
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “đúng 
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn 
của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch 
sử”; rằng, “thành tựu và những kinh 
nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo 
tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta 
tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ 
trong những năm tới” [1, tr.16-17]. 
Không chỉ khẳng định những thành tựu 
to lớn, có ý nghĩa lịch sử rất đáng tự hào 
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, 
Đảng Cộng sản Việt Nam còn nghiêm túc, 
thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết 
điểm đang còn tồn tại cả trong nhận thức lý 
luận lẫn trong hoạt động thực tiễn. Đặc 
biệt, liên quan đến mô hình chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới, Đảng 
đã nhấn mạnh rằng, “lý luận về chủ nghĩa 
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội 
còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết 
thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục 
làm rõ” [1, tr.67]. Rõ ràng, điều này thể 
hiện sự trăn trở, trách nhiệm cũng như thái 
độ nghiêm túc và thực sự cầu thị của Đảng 
Cộng sản Việt Nam trước các vấn đề lý 
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi 
lên chủ nghĩa xã hội nói chung, về mô hình 
chủ nghĩa xã hội nói riêng ở Việt Nam. Bởi 
lẽ, đây là những vấn đề lý luận rất hệ trọng, 
căn cốt, không chỉ phản ánh đường hướng 
chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - 
một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở 
Việt Nam hiện nay, mà còn trực tiếp can hệ 
mật thiết đến vận mệnh của cả đất nước, của 
cả dân tộc Việt Nam trong những năm tới. 
Trở lại vấn đề mô hình chủ nghĩa xã hội 
ở Việt Nam, so với Đại hội XI, quan điểm của 
Đảng tại Đại hội XII tiếp tục kiên định những 
đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở 
Việt Nam đã được xác định rõ trong Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) 
được Đại hội XI thông qua. Song, trên cơ sở 
đánh giá tình hình thực tiễn trên thế giới và 
trong nước, Đại hội XII đã chỉ rõ: “Tình hình 
thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ 
và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều 
vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn 
đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước 
và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, 
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, 
Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ 
lực phấn đấu mạnh mẽ hơn” [1, tr.75] làm căn 
cứ để xác định những phương hướng, nhiệm 
vụ trọng tâm và giải pháp chủ đạo nhằm từng 
bước hiện thực hóa vững chắc những đặc 
trưng căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, xã 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Văn Đức 
20 
hội mà chúng ta đã và đang ra sức xây dựng ở 
Việt Nam. 
Liên quan đến thực hiện mô hình chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản 
Việt Nam đã nhấn mạnh đến 4 trụ cột, 
khẳng định: “Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát 
triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về 
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc 
phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát 
triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây 
dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn 
hóa, con người làm nền tảng tinh thần; 
tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng 
yếu, thường xuyên” [1, tr.17]. Đây là một 
điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII của 
Đảng so với Đại hội XI. Đồng thời, Đảng ta 
cũng đã có sự bổ sung, điều chỉnh nhận 
thức về các mối quan hệ lớn cần được giải 
quyết trong quá trình đổi mới, phát triển đất 
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu 
Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) 
nêu rõ 8 mối quan hệ thì Đại hội XII đã bổ 
sung thêm một quan hệ mới - quan hệ giữa 
nhà nước và thị trường, đồng thời điều chỉnh 
quan hệ giữa kinh tế thị trường và định 
hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng cụ thể 
hơn, sát thực hơn - thành quan hệ giữa tuân 
theo các quy luật thị trường và bảo đảm định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Đặc biệt, Đại hội XII đã thể hiện sự 
phát triển mới về chất trong nhận thức lý 
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc 
xác định và cụ thể hóa các phương hướng 
xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn 2016 - 
2020. Căn cứ vào những đặc trưng cơ bản 
của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 
Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát phù 
hợp với tình hình, nhiệm vụ giai đoạn 2016 
- 2020, đó là: “Tăng cường xây dựng Đảng 
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực 
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây 
dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát 
huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã 
hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng 
bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế 
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước 
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất 
và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên 
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ 
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của 
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân 
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa 
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội 
nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng 
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu 
vực và trên thế giới” [1, tr.76]. Từ mục tiêu 
tổng quát này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
đề ra 13 phương hướng lớn để biến mục 
tiêu đó thành hiện thực, bao gồm: 
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu 
lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước. 
Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, 
đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; 
Phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; 
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người; 
Quản lý phát triển xã hội; thực hiện 
tiến bộ, công bằng xã hội; 
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ 
môi trường; chủ động phòng chống thiên 
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; 
Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo 
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa trong tình hình mới; 
Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 – 2019 
21 
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn 
dân tộc; 
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo 
đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; 
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa; 
Xây dựng Đảng trong sạch, vững 
mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức 
chiến đấu của Đảng. 
Đây cũng chính là những phương hướng 
lớn để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo. 
Quan niệm duy vật biện chứng về lịch 
sử đã chỉ ra rằng, thực tiễn lịch sử luôn vận 
động, biến đổi và phát triển không ngừng 
theo những quy luật tất yếu, khách quan. Lý 
luận chủ nghĩa xã hội khoa học cũng khẳng 
định sự cần thiết phải bổ sung, phát triển và 
hoàn thiện những đặc trưng mang tính bản 
chất của chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối 
cảnh chủ nghĩa xã hội là một hình thái kinh 
tế - xã hội mới lần đầu tiên xuất hiện trong 
lịch sử phát triển của nhân loại. Từ đó, chúng 
ta có thể nhận thấy một tất yếu mang tính 
quy luật rằng, sự nghiệp đổi mới toàn diện 
và xây dựng đất nước theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa với tính cách một cuộc cách 
mạng ngày càng phát triển và đi vào chiều 
sâu thì sẽ càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và 
thực tiễn mới liên quan đến quan niệm về 
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi 
hỏi phải được nhận thức, giải quyết một cách 
kịp thời và thấu đáo. Có như vậy, lý luận 
mới làm tốt vai trò soi đường, hướng dẫn 
hoạt động thực tiễn; đồng thời, thực tiễn 
thường xuyên được tổng kết, đúc rút sẽ góp 
phần bổ sung, phát triển lý luận khoa học, đó 
là biện chứng trong mối quan hệ giữa lý luận 
và thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
3. KẾT LUẬN 
Theo chúng tôi, vấn đề mô hình chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam cần được tiếp tục 
tìm hiểu và làm sáng tỏ về mặt lý luận và 
thực tiễn. Đây là một điều hết sức bình 
thường, bởi nhận thức là một quá trình. 
Chính việc phát hiện những vấn đề mới nảy 
sinh và tìm cách giải quyết chúng một cách 
thỏa đáng sẽ góp phần quan trọng vào việc 
định hình ngày càng chính xác mô hình chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó định hướng 
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội 
của chúng ta đi tới thành công. Xây dựng và 
hoàn thiện quan niệm về mô hình chủ nghĩa 
xã hội ở Việt Nam không chỉ là định hình rõ 
ràng, đúng đắn và đầy đủ mục tiêu hướng tới, 
mà còn là căn cứ để xác định các biện pháp, 
phương thức để hiện thực hóa những mục 
tiêu đó một cách vững chắc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn 
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 
2. Tập Cận Bình, Báo cáo tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 18-10-2017, 
Ngày nhận bài: 07-12-2018. Ngày biên tập xong: 15-12-2018. Duyệt đăng: 21-01-2019 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_mo_hinh_chu_nghia_xa_hoi_o_viet_nam_mot_so_van_de.pdf