Nghiên cứu khả năng thích nghi cho các dịch vụ trong mạng NGN tại Việt Nam

Việc xác định các loại hình dịch vụ mà Mạng thế hệ tiếp theo (NGN - Next Generation Network)

có khả năng cung cấp trong thời gian tới là rất khó, hơn nữa là tại Việt Nam hạ tầng mạng NGN

còn chưa được đồng bộ và phát triển. Các nhà cung cấp dịch vụ không những phải triển khai cơ sở

hạ tầng cung cấp dịch vụ dựa trên một mạng lưới chung mà còn phải xây dựng và củng cố mạng để

tạo ra các dịch vụ mới. Các dịch vụ này phải là mới lạ, độc đáo, có giá cả phải chăng, và đáp ứng yêu

cầu của khách hàng ở một mức độ cao. Bài báo trình bày các phân tích và đánh giá tóm tắt về đặc điểm

chính của một số loại hình dịch vụ trong mạng NGN để các nhà mạng có thể lựa chọn và triển khai hiệu

quả trên môi trường hạ tầng mạng NGN còn tương đối mới mẻ trong nước hiện nay.

pdf 7 trang kimcuc 14860
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khả năng thích nghi cho các dịch vụ trong mạng NGN tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khả năng thích nghi cho các dịch vụ trong mạng NGN tại Việt Nam

Nghiên cứu khả năng thích nghi cho các dịch vụ trong mạng NGN tại Việt Nam
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
119 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THÍCH NGHI 
CHO CÁC DỊCH VỤ TRONG MẠNG NGN TẠI VIỆT NAM 
Lê Hoàng Hiệp* 
Trường Đại học Công nghệ thông tin & Truyền thông – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Việc xác định các loại hình dịch vụ mà Mạng thế hệ tiếp theo (NGN - Next Generation Network) 
có khả năng cung cấp trong thời gian tới là rất khó, hơn nữa là tại Việt Nam hạ tầng mạng NGN 
còn chưa được đồng bộ và phát triển. Các nhà cung cấp dịch vụ không những phải triển khai cơ sở 
hạ tầng cung cấp dịch vụ dựa trên một mạng lưới chung mà còn phải xây dựng và củng cố mạng để 
tạo ra các dịch vụ mới. Các dịch vụ này phải là mới lạ, độc đáo, có giá cả phải chăng, và đáp ứng yêu 
cầu của khách hàng ở một mức độ cao. Bài báo trình bày các phân tích và đánh giá tóm tắt về đặc điểm 
chính của một số loại hình dịch vụ trong mạng NGN để các nhà mạng có thể lựa chọn và triển khai hiệu 
quả trên môi trường hạ tầng mạng NGN còn tương đối mới mẻ trong nước hiện nay. 
Từ khóa: Dịch vụ mạng NGN, Dịch vụ truyền thống, Dịch vụ thích nghi, Dịch vụ tương thích, 
Dịch vụ đa phương tiện 
GIỚI THIỆU* 
Mục tiêu chính của các nhà mạng khi triển 
khai các dịch vụ trên hạ tầng mạng NGN 
không nằm ngoài hai yếu tố: thứ nhất đó là 
việc làm sao các dịch vụ này có thể chạy ổn 
định, trơn chu, đạt được hiệu quả tốt nhất như 
mong muốn; thứ hai đó là đáp ứng được tối 
đa các yêu cầu của khách hàng với chi phí 
thấp nhất mà khách hàng có thể trả cho nhà 
mạng, có khả năng cạnh tranh được với các 
nhà cung cấp dịch vụ khác, đồng thời vẫn thu 
về được doanh thu ổn định nhất. 
Tuy nhiên, trên thực tế khi triển khai các loại 
hình dịch vụ mạng NGN, hầu hết khó khăn 
không mong muốn gặp phải đó là việc các 
dịch vụ mới này không thể “thích nghi” được 
ngay với hạ tầng mạng chưa đồng bộ, chưa 
đạt chuẩn, hay nói cách khác đó là tính ổn 
định chưa cao, chi phí đầu tư tốn kém và khả 
năng vận hành, duy trì phức tạp, có rủi ro với 
nhà mạng. 
Do đó, nội dung trong bài báo này nhằm đưa 
ra các phân tích và đánh giá về đặc trưng, cấu 
trúc, xu thế phát triển, cũng như tiềm năng, 
khả năng triển khai dịch vụ trong môi trường 
hạ tầng mạng NGN mới tinh hoặc cơ sở hạ 
tầng có tận dụng các thiết bị, chính sách sẵn 
* Tel: 0984 666500; Email: lhhiep@ictu.edu.vn 
có đang tồn tại của hệ thống mạng truyền 
thống để từ đó các nhà mạng có thể có 
phương pháp tiếp cận, thực thi các loại hình 
dịch vụ mạng NGN được hiệu quả. 
PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG & KIẾN TRÚC 
DỊCH VỤ MẠNG NGN 
Dựa trên đặc trưng & kiến trúc dịch vụ của 
từng loại dịch vụ dưới đây [1], [2] mà ta sẽ có 
các nhận xét/đề xuất về tính tương thích của 
dịch vụ đó trong mục tiếp theo bên dưới khi 
triển khai áp dụng trên môi trường thực tế cụ 
thể tại một thành phố nào đó: 
Dịch vụ thoại (Voice Telephony): NGN vẫn 
cung cấp các dịch vụ thoại khác nhau đang 
tồn tại như chờ cuộc gọi, chuyển cuộc gọi, gọi 
ba bên, các thuộc tính AIN khác nhau, 
Centrex, Class, Tuy nhiên cần lưu ý là 
NGN không cố gắng lặp lại các dịch vụ thoại 
truyền thống hiện đang cung cấp; dịch vụ thì 
vẫn đảm bảo nhưng công nghệ thì thay đổi. 
Dịch vụ dữ liệu ( Data Service):Cho phép 
thiết lập kết nối thời gian thực giữa các đầu 
cuối, cùng với các đặc tả giá trị gia tăng như 
băng thông theo yêu cầu, tính tin cậy và phục 
hồi nhanh kết nối, các kết nối chuyển mạch ảo 
(SVC- Switched Virtual Connection), và quản 
lý dải tần, điều khiển cuộc gọi, Tóm lại các 
dịch vụ dữ liệu có khả năng thiết lập kết nối 
theo băng thông và chất lượng dịch vụ QoS 
theo yêu cầu. 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
120 
Dịch vụ đa phương tiện (Multimedia Service): 
Cho phép nhiều người tham gia tương tác với 
nhau qua thoại, video, dữ liệu. Các dịch vụ 
này cho phép khách hàng vừa nói chuyện, vừa 
hiển thị thông tin. Ngoài ra, các máy tính còn 
có thể cộng tác với nhau. 
Dịch vụ sử dụng mạng riêng ảo (VPN): Thoại 
qua mạng riêng ảo cải thiện khả năng mạng, 
cho phép các tổ chức phân tán về mặt địa lý, 
mở rộng hơn và có thể phối hợp các mạng 
riêng đang tồn tại với các phần tử của mạng 
PSTN. Dữ liệu VPN cung cấp thêm khả năng 
bảo mật và các thuộc tính khác mạng của mạng 
cho phép khách hàng chia sẻ mạng Internet như 
một mạng riêng ảo, hay nói cách khác, sử dụng 
địa chỉ IP chia sẻ như một VPN. 
Bên cạnh việc nắm bắt rõ được đặc trưng của 
các dịch vụ mạng NGN, thì sự hiểu biết về 
cấu trúc dịch vụ mạng thế hệ mới sẽ giúp làm 
sáng tỏ các yêu cầu đối với mỗi phát hành, 
triển khai về công nghệ NGN. 
Hình 1. Cấu trúc mạng đa dịch vụ 
Mỗi một thành phần trong cấu trúc dịch vụ 
của NGN sẽ có sự ảnh hưởng và tác động 
nhất định tới mỗi loại dịch vụ có liên quan. 
Khai thác hết được toàn bộ các ưu điểm của 
mỗi thành phần cấu trúc đó sẽ giúp phát huy 
được hiệu năng sử dụng dịch vụ của nhà 
mạng tới một mức cao nhất có thể. 
PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CẦN QUAN 
TÂM TRONG DỊCH VỤ MẠNG NGN 
Đối với các nhà cung cấp dịch vụ vấn đề mấu 
chốt là việc tích hợp một cách thông minh 
giữa cơ sở hạ tầng của mạng mới với mạng 
hiện có mà vẫn đảm bảo việc khai thác được 
dễ dàng. Việc tích hợp của hệ thống thiết bị 
cũ với mới không bao giờ dễ dàng và nó sẽ là 
một trở ngại lớn cho việc cung cấp dịch vụ. 
Chính vì thế, khi triển khai các dịch vụ mạng 
NGN trên thực tế, có rất nhiều vấn đề mà các 
nhà mạng cần phải biết và quan tâm, nắm rõ 
được các yếu tố này sẽ giúp họ xây dựng 
được các giải pháp thích hợp nhất đối với hạ 
tầng mạng hiện tại của họ. 
Vấn đề bảo mật:Một nhà cung cấp mạng hay 
dịch vụ sẽ quyết định giới hạn thực hiện bảo 
mật dựa vào kết quả của phân tích nguy cơ và 
đánh giá rủi ro. Sau đó nhà cung cấp sẽ tạo ra 
một “chiến lược bảo mật”. Hình sau mô tả sự 
tương tác của các khối liên quan đến bảo mật. 
Hình 2. Mô hình bảo mật 
Một thách thức quan trọng đối với hệ thống 
mạng NGN trên nền IP là thực hiện các bảo 
mật trong các dạng ứng dụng khác nhau. Từ 
khi bắt đầu, cấu trúc NGN đã được phát triển 
với sự quan tâm đến các vấn đề bảo mật, dựa 
vào các phân tích nguy cơ và chế độ IPSec từ 
IETF. Sự linh hoạt đảm bảo tính bảo mật có 
thể đạt được yêu cầu của môi trường thực tế. 
Sử dụng NGN trong mạng dựa trên nền 
PacketCable đã được kiểm định các giải pháp 
bảo mật. Công việc còn lại là tiếp tục bảo vệ 
mạng chống lại các cuộc tấn công trong tương 
lai từ các nguồn chưa biết trước. 
Chất lượng dịch vụ QoS:Chất lượng dịch vụ 
QoS chính là yếu tố thúc đẩy MPLS [3]. So 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
121 
sánh với các yếu tố khác, như quản lý lưu 
lượng và hỗ trợ VPN thì QoS không phải là lý 
do quan trọng nhất để triển khai MPLS. Như 
chúng ta đã biết, hầu hết các công việc được 
thực hiện trong MPLS tập trung vào việc hỗ 
trợ các đặc tính của IP QoS trong mạng. Nói 
cách khác, mục tiêu là thiết lập điểm tương 
đồng giữa các đặc tính QoS của IP và MPLS, 
chứ không phải là làm cho MPLS QoS có 
chất lượng cao hơn IP QoS. 
Hình 3. Các kỹ thuật QoS trong mạng IP 
Mạng lưới phải đảm bảo được các yêu cầu về 
chất lượng dịch vụ khác nhau đến tận khách 
hàng, phải đảm bảo các yêu cầu riêng và các 
yêu cầu như đã cam kết với từng khách hàng. 
Tại cùng một thời điểm, các dịch vụ cần phải 
đủ lớn để đáp ứng một số lượng tăng lên của 
số lượng khách hàng và cũng phải đủ nhỏ để 
đáp ứng các yêu cầu của khách hàng nhỏ hơn, 
điều mà trước đây các nhà cung cấp dịch vụ 
thường không quan tâm đến. 
Vấn đề quản lý: Khi được triển khai ở quy mô 
lớn, việc quản lý sẽ trở nên phức tạp hơn 
nhiều, do đó cần có cơ chế, kế hoạch quản lý 
ngay từ giai đoạn thiết kế để thuận lợi cho 
quá trình vận hành sau này. 
Vấn đề chuyển tiếp: Đó là vấn đề làm sao 
chuyển tiếp thành công từ mạng truyền thống 
sang mạng NGN. Trở ngại chính ở đây chính 
là tính tương thích giữa mạng mới và mạng 
đã triển khai, đang tồn tại. 
Vấn đề về chi phí: Triển khai mạng NGN phát 
sinh thách thức về mặt chi phí đối với nhà 
cung cấp dịch vụ do sự giảm giá liên tục của 
băng thông mạng, do yêu cầu của người dùng 
muốn được sử dụng miễn phí khi mà mạng 
mới triển khai đã trở nên phổ biến. 
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TRIỂN KHAI 
DỊCH VỤ MẠNG NGN TẠI THỊ TRƯỜNG 
VIỆT NAM 
Tại Việt Nam, không nằm ngoài xu hướng 
phát triển chung của thế giới, Việt Nam đã có 
những bước phát triển hạ tầng mạng NGN của 
riêng mình. Các doanh nghiệp điển hình được 
cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông trên 
hạ tầng mạng NGN như VNPT, Viettel, VP 
Telecom, 
Ở một mức độ nào đó, sự đầu tư xây dựng và 
phát triển hạ tầng dịch vụ mạng NGN của 
VNPT được đánh giá là toàn diện nhất, mặc 
dù khi triển khai và đưa vào sử dụng gặp 
không ít khó khăn. Khó khăn trước tiên mà 
một nhà cung cấp dịch vụ truyền thống như 
VNPT gặp phải trong quá trình triển khai 
mạng NGN đó là việc hệ thống mạng của họ 
chỉ tập trung cung cấp dịch vụ thuê kênh 
riêng hay thoại. Vì vậy việc tích hợp những 
bộ phận của mạng lưới này trong mạng NGN 
gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, những nhà 
mạng mới khai thác, khi xây dựng mạng 
NGN ngay từ đầu có thể tiết kiệm được chi 
phí, đồng thời có thể đến đích trước VNPT. 
Bên cạnh đó, mạng NGN sẽ làm thay đổi cách 
thức tổ chức con người và mô hình kinh 
doanh. Điều này bắt buộc VNPT phải chuyển 
đổi mô hình kinh doanh để phù hợp với tính 
năng của mạng NGN. 
Sau gần 3 năm định hướng và lựa chọn, đến 
tháng 12/2003 VNPT đã lắp đặt xong giai 
đoạn 1 mạng NGN, sử dụng giải pháp 
SURPASS của Siemens, đã đi vào vận hành 
thành công. Đây là mạng có hạ tầng thông tin 
duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói 
được VNPT lựa chọn để thay thế cho mạng 
chuyển mạch kênh truyền thống. Với ưu thế 
cấu trúc phân lớp theo chức năng và sử dụng 
rộng rãi các giao diện ở API để kiến tạo dịch 
vụ mà không phụ thuộc nhiều vào các nhà 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
122 
cung cấp thiết bị và khai thác mạng, công 
nghệ NGN đã đáp ứng được yêu cầu kinh 
doanh trong tình hình mới là dịch vụ đa dạng, 
giá thành thấp, đầu tư hiệu quả và tạo được 
nguồn doanh thu mới. Đây là mạng sử dụng 
công nghệ chuyển mạch gói với đặc tính linh 
hoạt, ứng dụng những tiến bộ của công nghệ 
thông tin và công nghệ truyền dẫn quang băng 
thông rộng nên tích hợp được dịch vụ thoại và 
dịch vụ truyền số liệu. 
Cho đến thời điểm hiện nay, nhờ sự kế thừa 
và học hỏi kinh nghiệm từ việc triển khai 
NGN tại các nước tiên tiến, VNPT đã luôn đi 
tắt và đón đầu các công nghệ NGN nói chung 
và đạt được kết quả cao trong các cuộc phát 
hành các dịch vụ mới cho người sử dụng. 
Hơn nữa [4], để xác định được các dịch vụ 
trong mạng thế hệ sau cũng như chiến lược 
đầu tư của các nhà mạng khác ở trong nước, 
xu hướng phát triển các dịch vụ trong tương 
lai là vấn đề rất cần xem xét: 
Trước hết, chúng ta cần quan tâm đến xu 
hướng của dịch vụ thoại. Đây là dịch vụ phổ 
biến, lâu đời và thu nhiều lợi nhuận nhất từ 
những ngày đầu cho đến nay. Do đó, dịch vụ 
thoại truyền thống sẽ tiếp tục tồn tại trong 
thời gian dài. Sau đó, một phần dịch vụ truyền 
thống này chuyển sang thông tin di động và 
thoại qua IP. 
Đối với dịch vụ truyền thông đa phương tiện, 
hiện nay H.323 đã là môi trường cho giải 
pháp thoại qua giao thức IP và các dịch vụ đa 
phương tiện tương đối đơn giản. Tuy nhiên, 
sau đó SIP sẽ thay thế cho H.232 do SIP có 
nhiều ưu điểm hơn và thích hợp với các dịch 
vụ truyền thông đa phương tiện phức tạp. 
Trong tương lai, tính cước dịch vụ theo nội 
dung và chất lượng, không theo thời gian sẽ 
chiếm ưu thế. 
Nhiều dịch vụ và truy nhập ứng dụng thông 
qua các nhà cung cấp dịch vụ và truy nhập 
ứng dụng sẽ phát triển mạnh. Các dịch vụ 
leased line, ATM, Frame Relay hiện nay sẽ 
tiếp tục tồn tại thêm một thời gian nữa do các 
tổ chức kinh doanh không muốn thay đổi thiết 
bị chỉ vì thay đổi dịch vụ kết nối. Dịch vụ IP-
VPN sẽ trở thành một lựa chọn hấp dẫn. 
Cuối cùng, phương thức truy nhập mạng, ra 
lệnh, nhận thông tin, bằng lời nói (voice 
portal) sẽ là một chọn lựa trong tương lai. Hiện 
nay, kỹ thuật chuyển đổi từ lời nói sang file văn 
bản và ngược lại đang phát triển mạnh. 
Theo quan sát của các chuyên gia về lĩnh vực 
mạng viễn thông, trong thời gian tới tại thị 
trường Việt Nam sẽ là một thị trường tiểm 
năng và sẽ có rất nhiều sự đột phá trong việc 
triển khai hạ tầng cũng như rất nhiều các dịch 
vụ tiên tiến nhất của NGN tới khách hàng của 
các nhà mạng khác nhau. 
Chính các ưu điểm của NGN so với mạng 
truyền thống sẽ thúc đẩy sự phát hành các 
dịch vụ mới. Tuy nhiên, các nhà mạng cần 
thận trọng và cần có sự điều tra, phân tích 
tình hình triển khai dịch vụ NGN nói chung ở 
trong nước, để từ đó có các kế hoạch phù hợp 
và hiệu quả khi áp dụng, triển khai trên cơ sở 
hạ tầng mạng của mình. 
TÍNH THỰC THI VÀ GIẢI PHÁP TĂNG 
KHẢ NĂNG THÍCH NGHI DỊCH VỤ 
MẠNG NGN 
Sự thành công của một dịch vụ cụ thể được 
đo bằng tỉ lệ khách hàng sử dụng dịch vụ đó. 
Tỷ lệ sử dụng có thể bị tác động bởi các nhân 
tố như: chất lượng dịch vụ, tính khả dụng, và 
tính dễ sử dụng với người dùng. Đưa dịch 
vụ cung cấp trong mạng NGN vào một chế 
độ danh định, nhằm xác định được lớp cấu 
trúc mạng, công nghệ thích hợp cung cấp 
dịch vụ đó. 
Trên thực tế khi triển khai dịch vụ mạng 
NGN, người ta không phân loại chi tiết hoặc 
không triển khai riêng biệt một dịch vụ trên 
hạ tầng mạng tại một thời điểm, mà là kết hợp 
triển khai đa loại hình dịch vụ trên cùng một 
hạ tầng thiết bị, hệ thống mạng để nâng cao 
hiệu quả khai thác và tăng tính cạnh tranh về 
khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. 
Do đó, ở đây tác giả chỉ đưa ra các đóng góp, 
nhận xét, phân tích tổng thể cho các loại hình 
dịch vụ mạng NGN để các nhà mạng và độc 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
123 
giả có cái nhìn tổng quan và có cách tiếp cận, 
triển khai phù hợp các loại hình dịch vụ với 
một môi trường, hạ tầng mạng NGN cụ thể. 
Dưới đây là một số quan điểm đề xuất về tính 
“thích nghi” khi triển khai các loại hình dịch vụ 
mạng NGN tại một số nhà mạng trong nước: 
Thích nghi với hạ tầng mạng 
Ở đây, có hai vấn đề cần đặt ra [5]. Thứ nhất 
đó là triển khai các loại hình dịch vụ trên cơ 
sở hạ tầng mạng sẵn có. Ưu điểm của loại 
hình này đó là giá thành đầu tư ban đầu thấp, 
có khả năng cung cấp dịch vụ mới, dịch vụ 
truy cập băng thông rộng, bảo vệ tối đa nguồn 
vốn đã đầu tư trên mạng hiện tại. Nhược điểm 
đó là việc nâng cấp các chuyển mạch hiện có 
từ TDM sang IP/ATM chỉ là bước đệm mà 
không thay đổi được về cơ bản công nghệ 
chuyển mạch phục vụ cho các dịch vụ mới, 
chi phí vận hành và khai thác sẽ cao hơn so 
với mạng hiện tại do không có sự quản lý 
thống nhất trong toàn mạng, khả năng cạnh 
tranh kém khi xuất hiện các nhà khai thác thế 
hệ mới với hạ tầng mạng NGN mới tinh; Thứ 
hai, đó là triển khai trên hạ tầng mạng NGN 
hoàn toàn mới. Ưu điểm đó là thay đổi hoàn 
toàn cấu trúc mạng, tăng khả năng cạnh tranh, 
hoàn toàn sẵn sàng cung cấp dịch vụ mới, 
dịch vụ truy nhập băng rộng, thời gian triển 
khai nhanh chóng, độ tương thích cao, quản 
lý thống nhất, tập trung. Nhược điểm đó là, 
giá thành đầu tư ban đầu cao, rủi ro do dự 
báo nhu cầu vượt ngưỡng dẫn đến hậu quả 
đầu tư thấp, thời gian hoàn vốn lâu, tăng chi 
phí do phải tăng cường lực lượng lao động 
kỹ thuật mới. 
Thích nghi khả năng bảo mật và chất lượng 
dịch vụ 
Như đã nói ở trên, hệ thống các loại hình dịch 
vụ có tốt đến đâu, có khả năng đáp ứng, thỏa 
mãn các nhu cầu khách hàng hiệu quả tới mức 
nào mà không đảm bảo được yếu tố về tính 
năng bảo mật và QoS của chính loại hình dịch 
vụ đang triển khai, hoạt động thì sẽ không 
được bền vững, dễ dàng bị cạnh tranh bởi các 
nhà mạng có đầu tư, tính toán trước khả năng 
bị xâm phạm về quyền riêng tư, tính ổn định 
và chất lượng dịch vụ. Tóm lại, với một loại 
hình dịch vụ khi triển khai cần phải có được 
hoặc đáp ứng được yêu cầu này. 
Thích nghi về tính sẵn sàng và hiệu quả 
dịch vụ 
Cung cấp dịch vụ mạng IPVPN là một ví dụ, 
với các mức độ thoả thuận dịch vụ khác nhau 
và việc quản lý thiết bị đặt tại nhà khách 
hàng, cùng với việc cung cấp các dịch vụ 
mạng sẽ đòi hỏi nhà cung cấp dịch vụ phải 
quản lý một số lượng lớn các phần tử mạng 
khác nhau. Thứ nhất, họ cần phải đảm bảo 
chất lượng dịch vụ như đã thoả thuận với từng 
khách hàng; Thứ hai, lưu lượng có thể đi ra 
ngoài vùng mạng IP thuần tuý tới lớp thoại; 
và thứ ba, họ cần phải đáp ứng các nhu cầu 
khác nhau về băng thông cho các loại khách 
hàng khác nhau cũng như chất lượng dịch vụ 
tới tận khách hàng tại cùng một thời điểm [5]. 
Và trên hết, các nhà cung cấp dịch vụ mong 
muốn đưa ra các tính năng khác nhau của hệ 
thống như bảo mật, tốc độ linh hoạt, lựa chọn 
kết nối, kế hoạch định giá linh hoạt, cung cấp 
dịch vụ, quản lý thiết bị và các dịch vụ đặc 
biệt như là một phần của dịch vụ IP VPN. 
Do đó, tính sẵn sàng chính là có thể đáp ứng 
được cho khách hàng ở mọi nơi, mọi lúc, 
giá thành phù hợp nhưng vẫn có hiệu quả về 
hiệu suất đường truyền, khả năng truyền tải, 
khả năng hỗ trợ và giải đáp thắc mắc cho 
khách hàng. 
Thích nghi về tính cạnh tranh và lợi nhuận 
Nhà cung cấp có thể tồn tại với phương thức 
cũ, tuy nhiên chắc chắn họ sẽ không thành 
công. Các nhà cung cấp đang bắt buộc cạnh 
tranh về giá để đảm bảo thu nhập. Trong lúc 
đó, các đối thủ cạnh tranh đưa ra các dịch vụ 
hấp dẫn để được các khách hàng “béo bở” 
nhất. Do đó nếu nhà cung cấp dịch vụ muốn 
thành công trong thời đại mới, họ buộc phải 
thêm giá trị vào các dịch vụ truyền thống của 
mình. NGN hỗ trợ các dịch vụ mới tiên tiến 
nên cho phép họ giữ được các khách hàng 
quan trọng và mở rộng thị trường trong nhiều 
khu vực mới [5]. 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
124 
NGN sẽ cho phép các nhà khai thác cung cấp 
với chi phí hiệu quả của các dịch vụ mới phức 
tạp hơn bằng cách xây dựng một lõi liên hệ 
với các dịch vụ truyền tải truyền thống [6]. 
Thêm vào đó, việc hợp nhất các ứng dụng 
NGN làm giảm chi phí bằng cách loại bỏ các 
nhược điểm của các dịch vụ riêng lẻ hiện nay. 
NGN còn giảm thời gian thương mại hóa và 
xoay vòng vốn nhanh hơn khi cung cấp các dịch 
vụ mới. Và sau cùng, NGN mở rộng các dịch 
vụ tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh và mở 
rộng khả năng thâm nhập thị trường của họ. 
Thích nghi về tính ổn định và xu hướng 
phát triển 
Tính ổn định, bền vững của một loại hình 
dịch vụ chính là thời gian tồn tại cũng như 
khả năng dễ vận hành, triển khai, dễ dàng 
thay đổi và cập nhật các tiêu chí mới của dịch 
vụ đó nhằm giảm chi phí cho việc liên tục 
thay đổi các dịch vụ này trên cùng một cơ sở 
hạ tầng mạng NGN. 
Một dịch vụ mới khi được triển khai, nhà 
mạng cần chú ý tới khả năng phát triển mở 
rộng sau này, đặc biệt là các dịch vụ khả 
dụng, có tiềm năng. Nhà cung cấp dịch vụ 
không những phải triển khai cơ sở hạ tầng 
cung cấp dịch vụ dựa trên một mạng lưới 
chung mà còn phải xây dựng và củng cố 
mạng để tạo ra các dịch vụ mới. Các dịch vụ 
này phải là mới lạ, độc đáo, có giá cả phải 
chăng, và đáp ứng yêu cầu của khách hàng ở 
một mức cao. Trong một môi trường mà việc 
cung cấp nhanh một dịch vụ mới là một yếu 
tố cạnh tranh, thì mạng lưới cũng cần phải tối 
ưu hoá để có thể đưa ra được nhiều loại hình 
dịch vụ tạo ra nhiều lợi nhuận. 
KẾT LUẬN 
Có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm đáp 
ứng nhu cầu của các nhà khai thác muốn 
chuyển từ mạng truyền thống sang mạng thế 
hệ sau. Tùy vào hiện trạng mạng, quan điểm 
của chính nhà khai thác mà giải pháp thích 
hợp được lựa chọn. Và việc xây dựng mạng 
phải dựa vào nhu cầu mới của khách hàng để 
thu hút và giữ khách hàng. Điều này cũng có 
nghĩa là các nhà khai thác sẽ triển khai mạng 
NGN theo hướng để đáp ứng cho nhu cầu 
phát triển dịch vụ của khách hàng. 
Qua hàng loạt các phân tích, nhận xét và đánh 
giá ở trên, tác giả đã đưa ra một số tiêu chí 
giúp các loại hình dịch vụ mạng NGN có thể 
“tương thích” – hay chính là khả năng triển 
khai được hiệu quả, dễ vận hành, bảo trì, đáp 
ứng được các yêu cầu của khách hàng, đồng 
thời thu được lợi nhuận cao nhưng giá thành 
vẫn cạnh tranh được với dịch vụ của các nhà 
mạng khác. 
Mạng NGN là một cuộc thách đấu đối với các 
nhà cung cấp thiết bị để đưa vào công nghệ 
mới và để các nhà cung cấp đường truyền 
thâm nhập vào các các dịch vụ mới. Và các 
nhà cung cấp dịch vụ nào dám đương đầu với 
thử thách sẽ là những người đầu tiên thu về 
lợi nhuận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. TS. Nguyễn Quý Minh Hiền, Mạng viễn thông 
thế hệ sau, Viện khoa học kỹ thuật bưu điện. 
2. Johnson I Agbinya, 2010, IP Communications 
and Services for NGN. 
3. Azhar Sayeed, Monique J. Morrow, 2007, 
MPLS and Next-Generation Networks: 
Foundations for NGN and Enterprise 
Virtualization. 
4. Neill Wilkinson, Next Generation Service – 
Technologies and Strategies,2002, John Wiley & 
Sons Ltd. 
5. Ms. Aruelie, Mr. Jan H. Guettler, Dr. Ken 
Leeson, Regulatory implication of the introduction 
of nextgeneration network and other new 
developments in electronic communications, 2003, 
Devoteam Siticom & Cullen International. 
6. Sammeer Padhye, Next Generation Network 
“Complementing the Internet for Converged 
Service”, 2003, Cisco System. 
Lê Hoàng Hiệp Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 119 - 125 
125 
SUMMARY 
RESEARCH FOR SERVICE ADAPTATION 
IN NEXT GENERATION NETWORKS 
Le Hoang Hiep* 
 College of Information and Communication Technology - TNU 
The determination the type of NGN’s services that is capable of providing in the future is very 
difficult. Moreover, in Vietnam with infrastructure NGN is not yet sync and development, the 
service providers have to not only deploy the infrastructure service based on a common network, 
but also to build and strengthen networks to create new services. These services must be strange 
but unique , affordable priced, and meet to customer’s requirements at a high level. This paper 
presents the analysis and evaluation summarizes about the main characteristics of NGN’s 
services, to helping the ISP can select and deploy effectively on NGN infrastructure environment 
which is relatively new in Viet nam. 
Keywords: NGN services, Traditional services, Adaptive services, Services compatible, 
Multimedia Service 
Ngày nhận bài:15/7/2014; Ngày phản biện:30/7/2014; Ngày duyệt đăng: 25/11/2014 
Phản biện khoa học: TS. Phùng Trung Nghĩa – Trường Đại học Công nghệ Thông tin & Truyền thông - ĐHTN
* Tel: 0984 666500; Email: lhhiep@ictu.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_kha_nang_thich_nghi_cho_cac_dich_vu_trong_mang_ng.pdf