Nghiên cứu hạt nhân không bền trên máy gia tốc
Hiểu biết của chúng ta về cơ chế phản ứng hạt nhân và tính chất hạt nhân còn
nhiều hạn chế khi mà chúng ta chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu trên các hạt nhân bền.
Trong khi đó, nghiên cứu hạt nhân không bền không chỉ cung cấp cho chúng ta
những kiến thức mới khác xa so với những hiểu biết hiện tại đối với hạt nhân bền mà
còn giúp chúng ta nghiên cứu sâu hơn về vũ trụ thông qua các phản ứng tổng hợp
nguyên tố trên các sao. Để nghiên cứu hạt nhân không bền thì máy gia tốc và các hệ
phổ kế là những thiết bị không thể thiếu. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày
những kết quả nghiên cứu mới nhất về cấu trúc nhóm của các hạt nhân không bền
26Si và 11C cùng với suất phản ứng 7Be(α,γ)11C và 22Mg(,p)25Al thông qua việc đo
đạc thực nghiệm tán xạ 7Be+ và 22Mg+ được thực hiện trên máy gia tốc AVF và
hệ phổ kế CRIB của trung tâm hạt nhân CNS của Đại học Tokyo, Nhật Bản.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hạt nhân không bền trên máy gia tốc
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 59 NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN KHÔNG BỀN TRÊN MÁY GIA TỐC TS. Nguyễn Ngọc Duy1 ThS. Nguyễn Kim Uyên2 TÓM TẮT Hiểu biết của chúng ta về cơ chế phản ứng hạt nhân và tính chất hạt nhân còn nhiều hạn chế khi mà chúng ta chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu trên các hạt nhân bền. Trong khi đó, nghiên cứu hạt nhân không bền không chỉ cung cấp cho chúng ta những kiến thức mới khác xa so với những hiểu biết hiện tại đối với hạt nhân bền mà còn giúp chúng ta nghiên cứu sâu hơn về vũ trụ thông qua các phản ứng tổng hợp nguyên tố trên các sao. Để nghiên cứu hạt nhân không bền thì máy gia tốc và các hệ phổ kế là những thiết bị không thể thiếu. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày những kết quả nghiên cứu mới nhất về cấu trúc nhóm của các hạt nhân không bền 26 Si và 11 C cùng với suất phản ứng 7Be(α,γ)11C và 22Mg( ,p)25Al thông qua việc đo đạc thực nghiệm tán xạ 7Be+ và 22Mg+ được thực hiện trên máy gia tốc AVF và hệ phổ kế CRIB của trung tâm hạt nhân CNS của Đại học Tokyo, Nhật Bản. Từ khóa: CRIB, 26Si, 11C, cấu trúc nhóm alpha, hạt nhân không bền. 1. Giới thiệu Việc nghiên cứu chuyên sâu về tính chất hạt nhân và các cơ chế tương tác nucleon hay phản ứng hạt nhân có vai trò quan trọng trong vật lý hiện đại. Những thông tin thu được từ những nghiên cứu này không những cung cấp tri thức cho nền văn minh nhân loại mà còn góp phần cải biến thế giới với hàng loạt các ứng dụng trong nhiều lĩnh vực y học, năng lượng, nông nghiệp, công nghiệp, môi trường, khảo cổ, thiên văn, v.v.. Trong tự nhiên, số lượng hạt nhân bền chỉ có khoảng 300, trong khi hạt nhân không bền được lý thuyết dự đoán vào 6000 đồng vị, gấp 20 lần số lượng đồng vị bền. Vì vậy, có thể nói hiểu biết của con người về hạt nhân cho đến nay mới chỉ dừng lại ở một số rất ít các hạt nhân bền. Để nghiên cứu các hạt nhân không bền, chúng ta cần phải tạo ra chúng thông qua các phản ứng hạt nhân với chùm hạt có năng lượng đủ lớn và cường độ đủ mạnh bằng máy gia tốc. Với lý do đó, hàng loạt tổ hợp gia tốc hiện đại đã và đang được xây dựng trên thế giới như : RIKEN (Nhật Bản), Dubna (Nga), CERN (Châu Âu), MSU (Mỹ), Catania (Italia), Lanzhou (Trung quốc). Khá nhiều khám phá mới đã được phát hiện trong thời gian gần đây, ví dụ như hiện tượng Halo [1], cấu trúc nhóm [2] của các hạt nhân nhẹ nằm xa đường bền, hay sự biến mất và xuất hiện của các số Magic [3] đã làm đảo lộn quan niệm về cấu trúc hạt nhân và cơ chế phản ứng hạt 1Trường Đại học Đồng Nai. 2Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 60 nhân thông thường. Ngoài ra, với kỹ thuật máy gia tốc hiện đại, chúng ta có thể thực hiện đồng thời việc nghiên cứu các tính chất hạt nhân không bền và mô phỏng các quá trình tổng hợp nguyên tố trên các sao trong vũ trụ và giải thích các hiện tượng bất thường trong quan sát thiên văn. Trong số các hạt nhân không bền nhẹ, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các hạt 11C và 26Si vì nó liên quan đến vấn đề cấu trúc nhóm (alpha cluster) trong hạt nhân và thiên văn học. Về mặt cấu trúc hạt nhân, trạng thái 3/2- tại mức kích thích 8.11 MeV của 11C được dự đoán là có cấu trúc nhóm alpha, tương tự như đối với 12C [4], theo sự kết hợp + +3He dựa trên những kết quả nghiên cứu trên hạt nhân gương của nó là 11B thông qua phản ứng tán xạ 11B(d,d)11B. Đồng vị 11B có cấu trúc nhóm + +3H ở trạng thái kích thích mức năng lượng 8.56 MeV [5, 6]. Đối với hạt không bền, giàu proton 26Si, số liệu về hạt nhân này còn nhiều hạn chế, nhất là trong vùng năng lượng trên ngưỡng alpha (9.17 MeV). Mật độ mức cộng hưởng trên ngưỡng alpha của 26Si được dự đoán sẽ rất cao dựa trên những số liệu hạt nhân gương của nó, 26Mg, và có khoảng trên 152 mức kích thích [7]. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây của Matic và Thomas [8, 9] mới chỉ ghi nhận được một vài mức cộng hưởng với độ sai số tương đối lớn. Dựa vào quy luật nhóm alpha [10] và những kết quả tính toán tiết diện phản ứng theo mẫu phi thống kê của Briet-Wigner [11], một số mức cộng hưởng của 26Si được dự đoán có cấu trúc dạng nhóm alpha. Do đó, việc nghiên cứu các mức kích thích cộng hưởng trong vùng năng lượng trên ngưỡng alpha của các hạt không bền này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá mô hình lý thuyết về cấu trúc nhóm hiện nay. Ngoài ý nghĩa về cấu trúc hạt nhân, các mức cộng hưởng của 11C và 26Si cũng là chiếc chìa khóa làm sáng tỏ những vấn đề thiên văn mà các nhà khoa học trên thế giới đang quan tâm hiện nay. Thật vậy, diễn biến phản ứng bắt proton trong quá trình tổng hợp nguyên tố nặng hơn helium trên các sao trong vũ trụ trở nên phức tạp hơn ở nhiệt độ lớn hơn 0.2 GigaKelvin (T > 2 GK). Khi đó, chuỗi pp có thể bị bẻ gãy ra thành các chuỗi phản ứng khác nhau để tổng hợp các hạt C, N, O mà không cần thông qua phản ứng + + 12C (triple-alpha), đó là: 7Be(α,γ)11C(β+ν)11B(p,2α)4He, (a) 7Be(α,γ)11C(p,γ)12N(p,γ)13O(β+ν)13N(p,γ)14O, (b) 7Be(α,γ)11C(p,γ)12N(β+ν)12C(p,γ)13N(p,γ)14O, (c) 7Be(α,γ)11C(α,p)14N(p,γ)15O. (d) Trong đó, tốc độ phản ứng 7Be(α,γ)11C rất quan trọng cho diễn biến tiếp theo hình thành C, N, O. Các hạt nhân này là các hạt mầm cho sự tổng hợp các nguyên tố nặng trong các giai đoạn tiếp theo của sự hình thành các ngôi sao và phản ứng 7Be(α,γ)11C cho phép chúng ta giải thích được cơ chế về sự hình thành các ngôi sao nặng nghèo nguyên tố kim loại. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 61 Trong khi 11C liên quan đến sự tồn tại của các sao nặng có xu hướng trở thành sao lùn trắng CO thì 26Si lại liên quan đến việc xác định tốc độ của phản ứng 22Mg( ,p)25Al giúp làm sáng tỏ thế chờ của 22Mg trong quá trình tổng hợp nguyên tố trên các sao. Phản ứng này liên quan đến hàng loạt vấn đề thiên văn: sự quan sát tia gamma 1.275 MeV từ vũ trụ, độ phổ biến của 22Na và sự bất thường về tỉ số 20Ne/22Ne trong các thiên thể. Trong chu trình NeNa-MgAl của quá trình cháy hydrogen, vị trí 22Mg đóng vai trò là một điểm chờ. Tại vị trí này, sẽ có một tiến trình khác xảy ra theo cơ chế: 22Mg( ,p)(p,)26Si( ,p)(p,)30S( ,p)(p,)34Ar( ,p)(p,)38K Nếu tốc độ phản ứng của 22Mg( ,p)25Al và phản ứng 22Mg(p,γ)23Al chậm hơn so với quá trình quang rã sau khi bắt proton và phân rã bêta+ (+) thì diễn biến tổng hợp hạt nhân tại đây sẽ chờ theo thời gian sống của 22Mg để có phân rã +. Một khi 22Mg không phải là điểm chờ thì khả năng phân rã + tạo hạt 22Na sẽ suy giảm. Chính điều này tác động đến độ phổ biến của đồng vị 22Ne (tác động đến tỉ số 22Ne/20Ne) và việc quan sát tia gamma 1.275 MeV trong vũ trụ. Tia gamma này được phát ra từ 22Ne ở trạng thái kích thích khi 22Na phân rã +. Bức xạ này được dự đoán là tồn tại trong vũ trụ, cùng với tia 1.809 MeV. Các nhà khoa học thuộc cơ quan vũ trụ NASA đã thực hiện rất nhiều cuộc truy tìm bằng các vệ tinh. Tuy nhiên, đến năm 1983 mới chỉ quan sát được tia gamma 1.809 được phát ra từ hạt trạng thái kích thích của 26Mg và cho đến nay, chúng ta vẫn chưa dò được tia 1.275 MeV. Điều này có thể được giải thích dựa trên các số liệu thực nghiệm của các phản ứng hạt nhân và phân rã + tại điểm chờ 22Mg. Nhằm nghiên cứu cấu trúc nhóm (alpha cluster) của các hạt không bền nhẹ 11C, 26Si và các hạt nhân gương của chúng (11B, 26Mg) cũng như các vấn đề thiên văn vừa nêu, chúng tôi đã tiến hành đo đạc trực tiếp các phản ứng 7Be+ và 22Mg+ tại phòng nghiên cứu hạt nhân CRIB [12] của Đại học Tổng hợp Tokyo đặt tại Viện nghiên cứu liên hợp quốc tế RIKEN, Nhật Bản. Chúng tôi đã ghi nhận được 11 và 06 mức cộng hưởng trên ngưỡng alpha lần lượt đối với 11C và 26Si. Sử dụng các mức cộng hưởng này, chúng tôi đã đánh giá cấu trúc hạt nhân 11C và 26Si và xác định suất phản ứng của 7Be(α,γ)11C và 22Mg( ,p)25Al liên quan đến các vấn đề thiên văn trình được đề cập ở phần trên. 2. Thực nghiệm Các thực nghiệm đo phản ứng 7Be(α,γ)11C và 22Mg( ,p)25Al được thực hiện với kỹ thuật bia dày theo cơ chế động học ngược. Các chùm hạt được gia tốc từ máy gia tốc cyclotron AVF, trong tổ hợp máy gia tốc của viện nghiên cứu RIKEN. Cơ chế động học ngược (chùm hạt không bền nặng bắn vào bia nhẹ) được áp dụng cho các TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 62 nghiên cứu này. Đây là một kỹ thuật hiện đại nhất hiện nay cho phép chúng ta nghiên cứu các phản ứng với hạt nhân không bền bằng cách sử dụng máy gia tốc. Do hạt nhân không bền không tồn tại lâu, chỉ vài phần ngàn giây cho đến vài giây, dẫn đến một khó khăn rất lớn là chúng ta không thể dùng hạt nhân không bền làm bia vì chỉ sau thời gian sống ngắn (vài giây) thì bia đã “biến mất”. Trong khi vô số các hạt không bền và các phản ứng với hạt không bền luôn xảy ra liên tục trong vũ trụ. Vì vậy, để có thể nghiên cứu các phản ứng hạt nhân thiên văn, người ta cần tạo ra chùm hạt không bền, là những hạt nặng bắn vào bia khí nhẹ. Để tạo các chùm hạt không bền người ta phải sử dụng phản ứng sơ cấp, trong đó, chùm hạt đến và bia là những hạt nhân bền và tiến hành trên máy gia tốc. Vì vậy, việc chọn ra một phản ứng sơ cấp từ nhiều phản ứng khác nhau để tạo ra chùm hạt phóng xạ là một quá trình nghiên cứu, tính toán phức tạp (tiết diện phản ứng, công nghệ, thiết kế lọc lựa các kênh ra của phản ứng,). Trong những phép đo này, chúng tôi sử dụng phản ứng sơ cấp là 3He(20Ne,22Mg)n để tạo chùm hạt 22Mg và 7Li(p,7Be)n để tạo chùm 7Be có cường độ lớn và năng lượng cần thiết cho các phản ứng. Trong đó, chùm hạt tạo ra được ghi đo bởi hệ thống detector xác định vị trí và năng lượng hạt, PPAC [13] và MCP [14]. Hình 1 là sơ đồ cấu tạo hệ phổ kế CRIB được dùng để tạo ra các chùm hạt không bền có cường độ cao, chẳng hạn như 22Mg và 7Be. Hình 1. Hệ phổ kế CRIB với máy gia tốc AVF dùng để tạo các chùm hạt không bền. Chùm hạt không bền 7Be được tạo ra có năng lượng 14.7 MeV với cường độ 2 x 105 hạt/giây khi gia tốc chùm hạt sơ cấp 7Li tới năng lượng 5.0 MeV/u phản ứng với bia khí hydrogen có bề dày là 2.3 mg/cm2. Chùm hạt 22Mg có cường độ 1.2 x 103 hạt/giây với năng lượng 25.5 MeV được tạo ra khi gia tốc chùm hạt sơ cấp 20Ne đến năng lượng 6.2 MeV/u phản ứng với bia khí 3He có bề dày là 2.6 mg/cm2. Chi tiết tính toán, thiết kế và kết quả tạo chùm hạt 22Mg và 7Be đã được công bố tại [15,16]. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 63 Việc đo đạc tán xạ alpha với các chùm hạt không bền 22Mg và 7Be được ghi đo bởi hệ thống detector bố trí tại buồng F3 của hệ phổ kế. Bia khí 4He được bơm vào buồng tán xạ có áp suất tương ứng với độ dày bia sao cho chùm hạt tới dừng hoàn toàn ở cuối bia. Bia khí 4He có áp suất lần lượt là 140 torr và 815 torr trong phản ứng 22Mg+ và 7Be+α. Đối với phản ứng 22Mg( ,p)25Al, các hạt ra proton và alpha được đo đạc bởi hai hệ thống detector, GEM-MSTPC và các telescope gồm các detector bán dẫn silicon được ghép theo kỹ thuật E-E. Detector GEM-MSTPC [17] là một loại detector hiện đại, được chúng tôi thiết kế nhằm đo đồng thời cả những hạt nặng và hạt nhẹ. Trong đó, vùng có gain thấp sẽ cho phép xác định đường đi và độ mất năng lượng của các hạt trong chùm tới 22Mg giúp nhận dạng hạt; vùng có gain cao đo đường đi và độ mất năng lượng của alpha và proton. Nhờ đó, chúng ta xác định được năng lượng và góc tán xạ của phản ứng. Các hạt alpha khi ra khỏi GEM-MSTPC sẽ tiếp tục được đo bởi hệ thống detector E-E nhằm ghi nhận năng lượng và nhận biết alpha và proton. Cấu trúc phép đo 22Mg+ với các detector trong buồng F3 được trình bày trong hình 2. Hình 2. Sơ đồ bố trí thực nghiệm đo 22Mg+ . Đối với phản ứng 7Be(α,γ)11C, các tia gamma được ghi nhận bởi ma trận detector nhấp nháy NaI được bố trí dọc theo trục đường bay của chùm hạt tới 7Be. Các hạt alpha được ghi nhận bởi các telescope E-E. Hệ ghi đo phản ứng này được bố trí tại buồng F3 như chỉ ra trong hình 3. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 64 Hình 3. Sơ đồ bố trí thực nghiệm đo 7Be+ . Việc thu thập dữ liệu từ các detector được thực hiện thông qua hệ điện tử với 212 kênh số liệu, sử dụng ADC V185 và TDC V1190, cùng với các Flash ADC COPPER do nhóm nghiên cứu chế tạo cho GEM-MSTPC. Trigger của phép đo được thiết lập bởi PPACa với PPACb hoặc PPACa với MCP và các Silicon detector. Các số liệu được ghi vào ổ cứng máy tính với các file có dung lượng cỡ 1GB/file dưới dạng mã thập lục phân để xử lý offline. 3. Xử lý số liệu và kết quả 3.1. Phản ứng 22Mg+ Các file số liệu dưới dạng mã thập lục phân được giải mã bằng chương trình máy tính do nhóm tác giả báo cáo này và các cộng sự tự lập trình để tính toán. Việc chuẩn năng lượng cho detector được thực hiện bởi nguồn alpha và chùm hạt sơ cấp 20Ne với điện tích khác nhau. Nguồn alpha gồm các đồng vị 237Np, 241Am và 244Cm tương ứng với các mức năng lượng 4.788 MeV, 5.486 MeV và 5.795 MeV. Chùm hạt sơ cấp có năng lượng xác định (được kiểm tra với phương pháp B ) với các điện tích 10+, 9+, 8+, 7+ và 6+ được phát ra từ máy gia tốc. Việc phân tích số liệu thực nghiệm được thực hiện theo phương pháp sự kiện-sự kiện (event-by-event) nên chúng ta cần nhận dạng các hạt để biết được sự kiện phản ứng xảy ra mà chúng ta quan tâm (22Mg+ ). Chùm hạt không bền 22Mg bay vào bia lẫn một số hạt 20Ne và 21Na. Các hạt này được nhận biết bằng đường cong độ mất năng lượng được ghi nhận trực tiếp bởi detector GEM-MSTPC (hình 4a). Các hạt proton và alpha được nhận dạng theo phương pháp E-E (hình 4b). Trong đó, độ mất năng lượng E được đo bởi GEM-MSTPC và E được đo bởi Silicon detector. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 65 Hình 4a. Đường cong độ mất năng lượng của các hạt trong chùm hạt tới 22Mg được đo bởi detector GEM-MSTPC. Hình 4b. Nhận dạng hạt và proton theo phương pháp E-E. Dựa vào thông tin ghi nhận từ các detector, chúng ta xác định năng lượng phản ứng Ecm và góc tán xạ tương ứng với góc khối d của các hạt alpha. Từ đó, chúng ta thu được hàm tiết diện vi phân (d/ d) của phản ứng và xác định các đỉnh cộng hưởng. Kết quả các đỉnh cộng hưởng trong hàm tiết diện vi phân ứng với góc tán xạ lab = 5-10 độ được chỉ ra trong hình 5. Hình 5. Các đỉnh cộng hưởng trong hàm tiết diện vi phân của phản ứng 22Mg( , )22Mg. Sử dụng chương trình máy tính AZURE [18] để khớp hàm theo phương pháp R- matrix [19] với các thông số đầu vào (giá trị năng lượng và độ rộng đỉnh) từ các đỉnh cộng hưởng thu được trong hàm tiết diện vi phân. Chúng tôi đã xác định được 06 mức kích thích của hạt nhân hợp phần 26Si trên ngưỡng alpha trong phản ứng 22Mg+ , được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Các mức kích thích mới của 26Si trên ngưỡng alpha trong nghiên cứu 22Mg+ . TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 66 Các mức Er (MeV) (MeV) J 1 10.325 0.071 0.218 (2 + , 1 - ) 2 10.678 0.016 0.194 0 + 3 10.831 0.113 0.186 1 - 4 11.245 0.028 0.208 4 + 5 11.493 0.216 0.292 3 - 6 11.807 0.117 0.156 (0 + , 2 + ) Cấu trúc nhóm trong 26Si Việc khảo sát cấu trúc nhóm alpha trong các mức cộng hưởng này được thực hiện dựa trên quy luật nhóm alpha và kết quả so sánh các mức này với trạng thái cộng hưởng có cấu trúc nhóm alpha của các hạt nhân đã biết là 12C và 24Mg. Hai mức năng lượng 10.325 MeV và 10.831 MeV cao hơn nhiều so với ngưỡng phát 3 (7.265 MeV) và thấp hơn ngưỡng phát 4 (14.438 MeV) nên chúng có khả năng chứa nhóm alpha theo dạng (p+3 +3 +p). Thật vậy, các mức cộng hưởng 10.325 MeV và 10.831 MeV rất gần với các mức cộng hưởng của 12C (có trạng thái kết nhóm 3 ) [20] tương ứng lần lượt là 10.300 MeV (0+), 10.844 MeV (1-). Nếu coi lõi của 26Si gồm 3 +3 liên kết với hai proton hóa trị thì các mức cộng hưởng của 26Si bị gây ra bởi sự kích thích trong lõi 3 vì cấu trúc nhóm (p+3 +3 +p) thỏa mãn định luật bảo toàn spin và chẵn-lẻ (J ). Suất phản ứng 22Mg( ,p)25Al Suất phản ứng của phản ứng 22Mg( ,p)25Al được xác định dựa trên các mức kích thích cộng hưởng của các hạt nhân 26Si theo biểu thức sau: 3/29 6 6 11605 8.08 10 exp i A tot i i E N v T T [cm3.mol-1.s-1]. (1) Trong đó, Ei là năng lượng của các mức kích thích, là khối lượng rút gọn của hệ và T6 là MegaKelvin. Hàm lực cộng hưởng được xác định như sau: ,ba (2) Với , a, b và là thừa số spin thống kê, độ rộng kênh vào, độ rộng kênh ra và độ rộng toàn phần của trạng thái cộng hưởng. Kết quả tính toán suất phản ứng 22Mg( ,p)25Al theo những biểu thức trên được chỉ ra trong (hình 6) và được so sánh với phản ứng cạnh tranh với nó là phản ứng 22Mg(p,)23Al (hình 7) trong nghiên cứu [21]. Trong đó, độ rộng riêng phần kênh ra (p) được giả định chiếm 10% động rộng toàn phần . Kết quả chỉ ra rằng, với điều kiện nhiệt độ môi trường vũ trụ có giá trị trong khoảng 0.5 đến 3 GK, suất phản ứng bắt proton (p,) lớn hơn nhiều so với phản ứng ( ,p). Điều này có thể được giải thích dựa trên rào thế Coulomb của hai phản ứng. Chúng ta thấy rằng, quá trình bắt proton sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn so với bắt alpha vì điện tích của proton nhỏ hơn bốn lần so với điện tích alpha. Do đó, xác suất để phản ứng (p,) xảy ra cao hơn so với phản ứng TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 67 ( ,p). Hình 6. Suất phản ứng 22Mg( ,p). Hình 7. Suất phản ứng 22Mg(p,). Với kết quả suất phản ứng thu được như trên, chúng ta thấy rằng phản ứng (p,) chiếm ưu thế, do đó, việc chúng ta không thể quan sát được tia gamma 1.275 MeV chỉ có thể là do phản ứng (p,) mạnh hơn cơ chế phân rã +. Để xác định điều này, chúng ta cần tính toán tốc độ phản ứng của các phản ứng này và phân rã + theo biểu thức sau: ,p A p X R N v m (3) , p p A p p X R N v m (4) 1/2 ln 2 .R T (5) Với là mật độ vật chất của môi trường vũ trụ; X , Xp là độ phổ biến của alpha và proton trong vũ trụ; m , mp là khối lượng của alpha và proton; T1/2 thời gian bán rã của 22Mg. Kết quả tốc độ phản ứng được xác định theo các biểu thức (3), (4) và (5) được chỉ ra trong bảng 3. Bảng 3. Tốc độ phản ứng của 22Mg(p,)23Al, 22Mg( ,p)25Al và phân rã +. T9 (GK) Rp (reaction/s) R p (reaction/s) R+ (decay/s) 1.0 7.80E+03 2.99E-06 0.178881 1.5 2.47E+04 1.79E-04 0.178881 2.0 4.92E+04 1.26E-03 0.178881 2.5 7.80E+04 3.90E-03 0.178881 Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng tốc độ phản ứng (p,) là rất lớn so với hai quá trình còn lại. Chính vì điều này, nó bỏ qua quá trình phân rã bêta dẫn đến việc chúng ta không thể ghi nhận được tia gamma 1.275 MeV trong vũ trụ, hay nói cách khác tia gamma 1.275 không được ghi nhận cho đến nay là do cơ chế phản ứng bắt proton của 22Mg. Với tốc độ phản ứng nhanh gấp nhiều lần phân rã bêta nên 22Mg TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 68 không phải là một điểm chờ trong chuỗi rp-process của quá trình tổng hợp hợp hạt nhân trong vũ trụ. Phản ứng (p,) cũng gây ảnh hưởng đến tỉ số 22Ne/20Ne trong gió mặt trời và trong các thiên thể. 3.2. Phản ứng 7Be+α Việc chuẩn năng lượng cho detector được thực hiện bởi nguồn alpha và nguồn gamma 60Co. Nguồn alpha gồm các đồng vị 237Np, 241Am và 244Cm tương ứng với các mức năng lượng 4.788 MeV, 5.486 MeV và 5.795 MeV. Việc nhận biết hạt cũng được thực hiện tương tự như đối với phản ứng 22Mg+ . Kết quả phân biệt alpha và proton được chỉ ra trong hình 8. Hình 8. Kết quả phân biệt hạt alpha và proton trong phản ứng 7Be+ . Hình 9. Hàm tiết diện vi phân gồm các đỉnh cộng hưởng trong tán xạ 7Be( , )7Be. Năng lượng của phản ứng được xác định dựa vào độ mất năng lượng từ đầu bia đến vị trí xảy ra phản ứng. Vị trí của phản ứng và góc tán xạ được tính toán dựa trên đường bay của 7Be (được ghi nhận bởi PPAC, MCP) và đường bay của alpha, proton (được xác định các detector silicon). Từ đó, chúng ta xác định được hàm tiết diện vi phân của tán xạ đàn hồi 7Be( , 0) 7Be, tán xạ không đàn hồi 7Be( , ’)7Be* và 7Be( ,p)10B. Hình 9 là hàm tiết diện vi phân của tán xạ đàn hồi 7Be( , 0) 7Be thu được với đường cong được làm khớp bằng chương trình máy tính SAMMY8 [22] theo phương pháp R-matrix. Việc khớp hàm theo phương pháp R-matrix được thực hiện với các thông số đầu vào là các đỉnh cộng hưởng về giá trị năng lượng và độ rộng đỉnh thu được trong hàm tiết diện vi phân. Chúng tôi đã xác định được 11 mức kích thích của hạt nhân hợp phần 11C trên ngưỡng alpha trong phản ứng 7Be+ như chỉ ra trong bảng 2. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 69 Bảng 2. Các mức kích thích mới của 11C trên ngưỡng alpha trong nghiên cứu 7Be+ . Các mức Er (MeV) (keV) J 1 8.90 0.31 --- (3/2 + - 9/2 + ) 2 9.20 0.40 500 5/2 + 3 9.65 0.32 210 (3/2 - ) 4 9.78 0.08 240 (5/2 - ) 5 9.97 0.03 120 (7/2 - ) 6 10.08 0.50 230 7/2 + 7 10.68 0.32 200 9/2 + 8 11.03 0.40 300 (5/2 - , 7/2 - ) 9 11.44 0.40 360 (3/2 + - 7/2 - ) 10 12.40 0.25 1000-2000 9/2 + 11 12.65 0.10 360 (7/2 + ) Cấu trúc nhóm trong 11C Kết quả cộng hưởng mạnh của các mức có độ rộng alpha lớn trong tán xạ 7Be( , ) phản ánh cấu trúc nhóm của alpha trong hạt nhân hợp phần 11C. Do đó, các mức 9.78 MeV, 11.03 và 12.40 MeV có thể tồn tại cấu trúc nhóm theo quy luật nhóm alpha trong hạt nhân và theo tính toán dựa trên phương pháp động học phân tử phản đối xứng hóa AMD (antisymmetrized molecular dynamics) [23]. Trong đó, hạt 11C có cấu trúc lõi là 2 liên kết với 3He hình thành nên hệ tương tác giữa các nhóm với nhau theo mô hình (2 +3He). Lõi 2 tương đương với 8Be là hạt không bền có thời gian sống cực ngắn và gần như phân rã thành hai hạt alpha tức khắc ngay sau khi được hình thành. Vì vậy, sự cộng hưởng mạnh trong hạt nhân 11C cũng có thể bị gây ra bởi lõi 2 . Suất phản ứng 7Be(α,γ)11C Suất phản ứng của phản ứng 7Be(α,γ)11C được xác định dựa trên các mức kích thích 8.90 MeV, 9.20 MeV và 9.97 MeV, là các mức có độ rộng alpha nhỏ, theo công thức (1). Trong đó, hàm lực được xác định theo biểu thức (2). Kết quả thu được trong nghiên cứu này chỉ ra rằng, trong vùng nhiệt độ [0.2 – 10] GK thì suất phản ứng 7Be(α,γ)11C tương đối lớn, có giá trị nằm trong khoảng [10-3 – 103] cm3.mol-1.s-1, nhỏ hơn giá trị suất phản ứng tổng được ghi nhận trong nghiên cứu NACRE [24, 25], xem hình 10. Ngoài ra, tiết diện phản ứng tạo 11C ở trạng thái kích thích cộng hưởng 8.90 MeV chiếm ưu thế so với hai mức còn lại. Suất phản ứng này đủ lớn để các chuỗi phản ứng (a), (b), (c) và (d) xảy ra tạo số lượng đáng kể các hạt nhân mầm cho chu trình CNO và các quá trình tổng hợp các hạt nặng tiếp theo. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 70 Hình 10. Suất phản ứng 7Be(α,γ)11C. 3. Kết luận Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định được các mức kích thích cộng hưởng của các hạt nhân 11C (11 mức) và 26Si (06 mức) để bổ sung vào ngân hàng dữ liệu hạt nhân thế giới. Trong đó, các mức 9.78 MeV, 11.03 và 12.40 MeV của 11C có thể tồn tại cấu trúc nhóm dạng (2 +3He); các mức 10.325 MeV và 10.831 MeV của 26Si có cấu trúc nhóm gồm lõi 3 liên kết với hai proton hóa trị theo dạng (p+3 +3 +p). Bên cạnh đó, suất phản ứng của 7Be(α,γ)11C và 22Mg( ,p)25Al cũng được xác định. Kết quả chỉ ra rằng, suất phản ứng hạt nhân của 7Be(α,γ)11C tương đối lớn trong vùng nhiệt độ T > 0.2 GK, môi trường của siêu tân tinh. Điều này đảm bảo cho sự hình thành một lượng rất rất hạt nhân trong vùng C, N, O cho thấy phản ứng 7Be(α,γ)11C là một trong những phản ứng quan trọng để hình thành nên những ngôi sao nặng có độ giàu kim loại thấp mà sau này có xu hướng trở thành sao lùn trắng CO. Trong khi đó, phản ứng 22Mg( ,p)25Al và phân rã beta bị lấn át bởi 22Mg(p,)23Al tại vị trí 22Mg trong quá trình tổng hợp hạt nhân trên các sao. Do đó, những hiện tượng bất thường trong quan sát thiên văn liên quan đến 22Mg có thể được giải thích thỏa đáng dựa trên những nghiên cứu cơ chế phản ứng hạt nhân, như đã thực hiện trong nghiên cứu này. Với những kết quả đạt được, chúng ta có thể xác định được vấn đề Ne-E, sự biến mất của tia gamma 1.275 MeV và sự bất định độ phổ biến 22Na và 22Mg không phải là một điểm chờ vì quá trình tổng hợp hạt nhân vẫn diễn ra theo một quá trình xác định thông qua phản ứng 22Mg(p,)23Al. Lời cảm ơn Chúng tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Shigeru Kubono, GS.TS. Hidetoshi Yamaguchi, TS. David Miles Kahl và GS.TS. Lê Hồng Khiêm đã thảo luận và đưa ra những góp ý khoa học quý báu cho nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến đội ngũ kỹ sư máy gia tốc AVF tại RIKEN, các cộng tác viên nghiên cứu tại Đại học Tokyo đã tham gia tích cực giúp cho nghiên cứu thành TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 71 công tốt đẹp. Để có điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận được sự giúp đỡ quý báu của Đại học Đồng Nai. Cuối cùng, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Khoa học Công nghệ Nhật Bản và Đại học Tokyo đã hỗ trợ kinh phí cho những nghiên cứu của chúng tôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. P. G. Hansen, A. S. Jensen and B. Jonson (1995), Ann. Rev. of Nucl.Part. Sci.,45, 591-634. 2. J.-P. Ebran, E. Khan, T. Nikšić and D. Vretenar (2012), Nature 487, 341– 344. 3. D. Steppenbeck, S. Takeuchi, et al. (2007), Nature 502, 207–210. 4. A. Tohsaki, H. Horiuchi, P. Schuck, and G. R¨ opke (2001), Phys. Rev. Lett.87, 192501. 5. Y. Kanada-En’yo (2007), Phys.Rev.C75, 024302. 6. T. Kawabataet al. (2004), Phys.Rev.C70, 034318. 7. P. M. Endt and C. van der Leun (1978), Nuclear Physics A310, 164-171 8. A. Matic et al. (2011), Phys. Rev. C 84, 025801. 9. J. C. Thomas, L. Achouri, J. Aysto et al. (2004), European Phys. J. A 21, 419-435. 10. Y. Abe and N. Takigawa (1972), Prog. of Theory Phys. Suppl. 52, 228-281. 11. K. S. Krane (1987), “Introductory Nuclear Reactions”, John Wiley & Sons, p.428. 12. S. Kubono (2002), European Physical Journal A, Vol. 13, 217-220. 13. H. Kumagai et al. (2001), Nucl. Inst. and Meth. in Phys. Res. A 470, 562– 570. 14. Joseph Ladislas Wiza (1979), Nucl. Inst. and Meth. Vol.162, Is. 1–3, 587– 601 15. N. N. Duy, S. Kubono et al (2013), Nucl. Inst. and Meth. in Phys. Res. A, 723, 99-101. 16. H. Yamaguchi et al. (2008), Nucl. Inst. and Meth. in Phys. Res. A, 589, Is.2,150–156. 17. K. Yamaguchi, H. Ishiyama et al. (2010), Nucl. Inst. and Meth. in Phys. Res. A, 623, 135. 18. R. E. Azuma, E. Uberseder, E. C. Simpson et al. (2010), Phys. Rev. C81, 045805,1-7. 19. A. M. Lane et al. (1958), Reviews of Modern Physics 30, 257–353. 20. M. Chernykh, H. Feldmeier, T. Neff et al. (2007), Phys. Rev. Lett. 98, 032501, 1 - 4. 21. J. J. He, S. Kubono, T. Teranishi et al. (2007), Physical Review C 76, 055802, 1 - 11. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 72 23. Nancy M. Larson (2003), “Analysis of Nuclear Data using the R-Matrix Code SAMMY”, ORNL/TM-9179/R6, Oak Ridge National Laboratory, Oak Ridge, TN. 2.4 T. Suhara and Y. Kanada-En’yo (2012), Phys. Rev. C85, 054320. 25. C. Angulo et al. (1999), Nucl. Phys. A 656, 3. 26. Y. Xu, K. Takahashi, S. Goriely, and M. Arnould (2011), AIP Conf. Proc. 1377, 463. STUDY OF UNSTABLE NUCLEI BY USING ACCELERATORS ABSTRACT Our knowledge of nuclear structure and nuclear reaction mechanism has been very limited since most of data are obtained via studies of stable nuclei. However, unstable isotopes are believed to provide much more information which is important for nuclear structure as well as astrophysical aspects via stellar reactions. In order to investigate unstable nuclei, it is important to do researches by using accelerators. In this report, we present the newest data of cluster structure 26 Si and 11 C together with reaction rates of 7Be(α,γ)11C and 22Mg( ,p)25Al by measuring scatterings of 7Be+ and 22 Mg+ which were performed by using AVF cyclotron and CRIB spectrometer at Center of Nuclear Study of the University of Tokyo located in RIKEN, Japan. Keywords: CRIB, 26Si, 11C, alpha cluster, unstable isotopes, nucleosynthesis.
File đính kèm:
- nghien_cuu_hat_nhan_khong_ben_tren_may_gia_toc.pdf