Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và kết quả điều trị dọa sẩy thai tại bệnh viện phụ sản nhi Đà Nẵng

Tỷ lệ sẩy thai lâm sàng chiếm 15-20% thai kỳ và hầu hết diễn ra

ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm cận lâm

sàng và kết quả điều trị dọa sẩy tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng.

Đối tượng nghiên cứu là 117 thai phụ đến khám, điều trị dọa sẩy thai

nội trú tại khoa Phụ Sản Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng từ tháng

05/2013 đến tháng 05/2014, thực hiện theo phương pháp mô tả cắt

ngang, tiến cứu.

Kết quả nghiên cứu dọa sẩy thai gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi mẹ

từ 25-29 chiếm tỷ lệ 42,7%. Trung bình số lần tăng βhCG trong 48 giờ

cao nhất ở tuổi thai ≤ 6 tuần, giảm dần theo các nhóm tuổi thai. Nồng

độ trung bình progesterone theo các nhóm tuổi thai từ 27,60- 40,04 ng/

ml. Kết quả điều trị: Thành công: 83,8%, thất bại: 16,2%. Thai phụ ≥

35 tuổi có nguy cơ điều trị thất bại gấp 2,25 lần so với thai phụ <>

tuổi.Mức tăng trung bình nồng độ βhCG huyết thanh ở nhóm điều trị

thành công là 1,30 lần/48 giờ, nhóm điều trị thất bại là 1,09 lần / 48 giờ.

Progesterone kết hợp với mức tăng trung bình βhCG, có giá trị chẩn

đoán và có giá trị tiên đoán tốt kết quả thai kỳ.

pdf 6 trang kimcuc 2680
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và kết quả điều trị dọa sẩy thai tại bệnh viện phụ sản nhi Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và kết quả điều trị dọa sẩy thai tại bệnh viện phụ sản nhi Đà Nẵng

Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và kết quả điều trị dọa sẩy thai tại bệnh viện phụ sản nhi Đà Nẵng
VÕ THỊ VY LỘC, LÊ LAM HƯƠNG
22
Tậ
p 
14
, s
ố 
04
Th
án
g 
02
-2
01
7
SẢ
N
 K
H
O
A
 –
 S
Ơ
 S
IN
H
Võ Thị Vy Lộc (1), Lê Lam Hương(,2) 
(1) Bệnh viện Phụ Sản nhi Đà Nẵng, (2) Trường Đại học Y Dược Huế
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỌA SẨY THAI
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN NHI ĐÀ NẴNG
Tác giả liên hệ (Corresponding author): 
Lê Lam Hương,
email: lelamhuong19@yahoo.com 
Ngày nhận bài (received): 19/10/2016
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 
23/10/2016
Ngày bài báo được chấp nhận đăng 
(accepted): 30/12/2016
Từ khóa: Sẩy thai, thai phụ, 
cận lâm sàng.
Keywords: Abortion, pregnant 
women.
Tóm tắt
Tỷ lệ sẩy thai lâm sàng chiếm 15-20% thai kỳ và hầu hết diễn ra 
ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm cận lâm 
sàng và kết quả điều trị dọa sẩy tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng. 
Đối tượng nghiên cứu là 117 thai phụ đến khám, điều trị dọa sẩy thai 
nội trú tại khoa Phụ Sản Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng từ tháng 
05/2013 đến tháng 05/2014, thực hiện theo phương pháp mô tả cắt 
ngang, tiến cứu.
Kết quả nghiên cứu dọa sẩy thai gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi mẹ 
từ 25-29 chiếm tỷ lệ 42,7%. Trung bình số lần tăng βhCG trong 48 giờ 
cao nhất ở tuổi thai ≤ 6 tuần, giảm dần theo các nhóm tuổi thai. Nồng 
độ trung bình progesterone theo các nhóm tuổi thai từ 27,60- 40,04 ng/
ml. Kết quả điều trị: Thành công: 83,8%, thất bại: 16,2%. Thai phụ ≥ 
35 tuổi có nguy cơ điều trị thất bại gấp 2,25 lần so với thai phụ < 35 
tuổi.Mức tăng trung bình nồng độ βhCG huyết thanh ở nhóm điều trị 
thành công là 1,30 lần/48 giờ, nhóm điều trị thất bại là 1,09 lần / 48 giờ. 
Progesterone kết hợp với mức tăng trung bình βhCG, có giá trị chẩn 
đoán và có giá trị tiên đoán tốt kết quả thai kỳ.
Từ khóa: Sẩy thai, thai phụ, cận lâm sàng.
Abstract 
THE CLINICAL FEATURES AND MANAGEMENT 
OF THREATENED ABORTION AT DANANG 
MATERNITY AND PEDIATRIC HOSPITAL
The abortion accounts for 15-20% in all of pregnancies and almost 
occurs in the first trimester of pregnancy. Objective: to research the 
clinical features and management of threatened abortion at Danang 
Maternity and Pediatric Hospital. Methodology: The cross – sectional 
and prospective study include 117 threatened abortion pregnant 
women who was treated at Danang Maternity and Pediatric Hospital 
from 05/2013 to 05/2014. Results: The “25 – 29” group of maternal 
Chẩn đoán và điều trị không kịp thời, dọa sẩy thai 
sẽ tiến triển thành sẩy thai thực sự.Tỷ lệ sẩy thai 
lâm sàng chiếm 15-20% thai kỳ và hầu hết diễn 
ra ở 3 tháng đầu của thai kỳ .Hơn 80% sẩy thai 
diễn ra trước tuần thứ 12 và tỷ lệ này giảm nhanh 
chóng ở những tuần tuổi thai sau [9].Hậu quả của 
dọa sẩy thai là giảm sút sức khỏe người mẹ, ảnh 
hưởng tới nguồn lao động của gia đình và xã hội, 
thậm chí nguy hiểm đến tính mạng người mẹ do 
băng huyết, nhiễm trùng, gây tình trạng vô sinh thứ 
phát, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và chất 
lượng dân số.
Xét nghiệm nội tiết như định lượng βhCG máu, 
progesterone,estradiol là những xét nghiệm có giá 
trị chẩn đoán, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị 
dọa sẩy thai [9]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng và 
kết quả điều trị dọa sẩy thai tại Bệnh viện Phụ Sản 
Nhi Đà Nẵng” với mục tiêu sau: Nghiên cứu đặc 
điểm cận lâm sàng và kết quả điều trị dọa sẩy thai 
tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng.
2. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu:117 thai phụ 
đến khám, điều trị dọa sẩy thai nội trú tại khoa 
Phụ Sản bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng từ tháng 
05/2013 đến tháng 05/2014, có tiêu chuẩn sau: 
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Thai phụ được chẩn đoán là dọa sẩy thai với 
ít nhất một trong các triệu chứng: ra máu âm đạo, 
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
 SẢ
N
 - 14(04), 22 - 27, 2017
23
age got the highest rate with 42,7%. the most increasing of betahCG during 48 hours was ≤ 
6 weeks gestational age, and decrease based on gestational age. The average concentration 
of progesterone according to gestational age groups from 27,60 to 40,04 ng/ml. Management: 
Success: 83,8%, failure: 16,2%. Pregnant women ≥ 35 years of age has 2,25 times as risk of 
treatment failure as <35 years group. The average increasing group of serum bhCG concentrations 
in successful treatment group was 1,30 times/48 hours, the failure group was 1,09 times/48 hours. 
Progesterone combined with average increasing betahCG is a significant diagnostic and good 
predictive method for pregnancy outcomes.
Keywords: abortion, pregnant women.
1. Đặt vấn đề 
Dọa sẩy thai là hiện tượng thai có nguy cơ bị 
tống ra khỏi buồng tử cung trước tuần lễ thứ 22 
của thai kỳ. Dọa sẩy thai là bệnh lý sản phụ khoa 
thường gặp, tần suất ngày càng tăng. Triệu chứng 
thông thường của dọa sẩy thai là chảy máu âm 
đạo kèm đau bụng trong khi cổ tử cung còn đóng. 
Dọa sẩy thai diễn ra khoảng 20-25% thai kỳ và 
dự đoán có kết quả không mong muốn trong giai 
đoạn muộn hơn của thai kỳ như ối vỡ non, ối vỡ 
sớm, thai kém phát triển trong tử cung, sinh non, sơ 
sinh trọng lượng thấp [1,3].
Hiện nay y học vẫn đang gặp khó khăn trong 
chẩn đoán nguyên nhân và điều trị. Để chẩn đoán 
nguyên nhân dọa sẩy thai, ngoài thăm khám lâm 
sàng kỹ lưỡng, người thầy thuốc phải kết hợp làm 
xét nghiệm và tiến hành các thăm dò cận lâm sàng 
khác. Ở Việt Nam, một số xét nghiệm cận lâm sàng 
tìm nguyên nhân chưa thực hiện được, sự cộng tác 
của người bệnh hạn chế nên điều trị dọa sẩy thai 
còn khó khăn và xác định nguyên nhân dọa sẩy 
thai thì khó hơn nhiều. Một khó khăn nữa cho điều 
trị dọa sẩy thai là có tới 20-30% dọa sẩy thai chưa 
rõ nguyên nhân [1,2].
Đối với những người đang mong muốn có con, 
dọa sẩy thai thực sự là sang chấn về thể chất và 
tinh thần, gây ra cảm giác bàng hoàng, lo lắng, 
rối loạn giấc ngủ và thất vọng cho bà mẹ. Ở giai 
đoạn dọa sẩy thai, trứng còn sống, chưa bị bong 
khỏi niêm mạc tử cung. Chẩn đoán và điều trị sớm 
tiên lượng sẽ tốt, có khả năng giữ được thai [1].
Tập 14, số 04
Tháng 02-2017
VÕ THỊ VY LỘC, LÊ LAM HƯƠNG
24
Tậ
p 
14
, s
ố 
04
Th
án
g 
02
-2
01
7
SẢ
N
 K
H
O
A
 –
 S
Ơ
 S
IN
H
đau bụng, hoặc siêu âm có hiện tượng bóc tách 
màng đệm.
- Tuổi thai ≤ 12 tuần đang phát triển trong 
buồng tử cung,. Tuổi thai được tính dựa vào KCC 
kết hợp tham khảo kết quả siêu âm. 
- Thai phụ đồng ý hợp tác nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Các trường hợp không đủ tiêu chuẩn chọn 
lựa trên. 
- Các trường hợp thai ≤ 12 tuần đang sẩy thai
- Các trường hợp có thai ra máu vì các nguyên 
nhân khác: Thai chết lưu, Chửa trứng, Chửa ngoài 
tử cung, Ra máu có nguồn gốc âm đạo hoặc cổ tử 
cung...Ung thư cổ tử cung, polyp cổ tử cung.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu:Thực hiện theo phương 
pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu. 
Cỡ mẫu nghiên cứu:Toàn bộ thai phụ đủ tiêu 
chuẩn chọn bệnh nhập viện điều trị trong thời gian 
nghiên cứu từ tháng 05/2013 đến tháng 05/2014 
tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng.
Các bước tiến hành nghiên cứu: Các thai phụ 
được giải thích và đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ 
tiến hành điều tra và thực hiện các bước nghiên cứu. 
Các thai phụ được thăm khám lâm sàng kỹ 
lưỡng, làm các xét nghiệm: xét nghiệm máu thường 
quy (công thức máu, nhóm máu, tỷ prothombin, 
fibrinogen), siêu âm, định lượng nồng độ 
progesterone, βhCG và estradiol huyết thanh, được 
phỏng vấn theo phiếu điều tra. Định lượng nồng độ 
βhCG huyết thanh của thai phụ: bằng cách lấy 2 
ml máu gởi khoa xét nghiệm, sau khi có kết quả so 
sánh với giá trị βhCG bình thường theo bảng sau
Theo dõi quá trình điều trị:
Tất cả 117 thai phụ trong nghiên cứu được 
điều trị theo phác đồ 7 ngày, sau đó đánh giá tiến 
triển điều trị. Dấu hiệu lâm sàng: còn hoặc hết đau 
bụng, còn hoặc hết ra máu âm đạo. 
Thay đổi nồng độ progesterone và estradiol 
huyết thanh tại thời điểm ngày thứ 1, ngày thứ 7 
trong quá trình điều trị.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả điều trị:
- Thành công:
Đối với thai phụ lúc vào viện có dấu hiệu dọa 
sẩy, được điều trị dọa sẩy thai: trước lúc ra viện 
3-4 ngày hết đau bụng, hết ramáu, thai phát triển 
bình thường.
- Thất bại:
Những thai phụ bị sẩy thai trong quá trình điều 
trị, thai chết trong buồng tử cung. Những thai phụ 
này chuyển sang phương pháp điều trị khác như 
làm sẩy thai nội khoa hoặc nạo hút buồng tử cung 
trong các trường hợp sẩy thai không hoàn toàn. 
Bệnh phẩm được gởi giải phẫu bệnh lý phục vụ cho 
các nghiên cứu sau.
2.3 Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống 
kê y học Medcalc 12.0.1.Giá trị p: được sử dụng 
khi mong đợi giả thuyết có đúng không. Sự khác 
biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
Tính độ nhạy (Se: Sensitive), độ đặc hiệu (Sp: 
Specificity) của phương pháp nghiên cứu.
Bảng hai hai
Đường cong ROC: Mỗi điểm trên đường cong 
ROC là tọa độ tương ứng với độ nhạy và độ đặc 
hiệu. Độ chính xác được đo lường bằng diện tích 
dưới đường cong (AUC)
2.4 Đạo đức trong nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đã đươc thông báo, giải 
thích về tình hình bệnh tật, phương pháp điều trị 
và tiến triển bệnh. Thai phụ và gia đình tự nguyện 
tham gia nghiên cứu. Các phương pháp điều trị 
được lãnh đạo khoa Phụ Sản phê duyệt.
3. Kết quả nghiên cứu
Sau khi chọn lựa đối tượng nghiên cứu và tiến 
hành nghiên cứu, xử lý số liệu, chúng tôi đưa ra các 
kết quả nghiên cứu sau.
Nhóm tuổi 25-29 chiếm tỉ lệ cao nhất 42,7%. 
Nhóm tuổi <20 chiếm 3,4%; nhóm tuổi ≥ 35 
chiếm 7,7%.
Kết quả xét nghiệm Có bệnh Không bệnh
Dương tính a (dương tính thật) b (dương tính giả)
Âm tính c (âm tính giả) d (âm tính thật)
Tuổi n Tỷ lệ (%)
< 20 4 3,4
20-24 27 23,1
25-29 50 42,7
30-34 27 23,1
35-39 5 4,3
≥ 40 4 3,4
Tổng 117 100,0
Bảng 1: Tỷ lệ dọa sẩy thai theo tuổi mẹ
Pr ở tuổi thai >10-12 tuần là 27,62 ng/ml, sau 1 
tuần theo dõi.
Nồng độ trung bình Estradiol huyết thanh tăng 
dần theo tuổi thai. Nồng độ trung bình Estradiol 
huyết thanh ngày thứ 7 cao hơn so với ngày 1 ở tất 
cả các nhóm tuổi thai.
Có 98 trường hợp điều trị thành công chiếm 
83,8% và 19 trường hợp điều trị thất bại chiếm tỷ 
lệ 16,2%.
Nồng độ progesterone huyết thanh trước điều 
trị, tuổi mẹ ≥ 35 tuổi hoặc < 35 tuổi có liên quan 
đến kết quả điều trị. Mức tăng βhCG huyết thanh 
sau 48 giờ không có liên quan đến kết quả điều trị.
4. Bàn luận
Dọa sẩy thai là một bệnh lý sản phụ khoa 
thường gặp, tần suất ngày càng tăng. Dọa sẩy thai 
do nhiều nguyên nhân gây nên, hậu quả là thai có 
nguy cơ bị tống xuất khỏi buồng tử cung trước 22 
tuần tuổi thai. 
Theo bảng 1thì thai phụ bị dọa sẩy thai có độ 
tuổi 25-35 chiếm tỷ lệ cao nhất 65,8%. Nhóm thai 
phụ <25 tuổi chiếm tỷ lệ 27,5%. Nhóm thai phụ 
tuổi ≥ 35 chiếm tỷ lệ thấp nhất 7,7%. Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu của Ngô Thị Thanh Thảo 
(2007) thai phụ từ 25-35 tuổi chiếm tỷ lệ 67,7%, 
Nguyễn Thị Thu Hà (2009) có tỷ lệ 70,5%. Mẫu 
nghiên cứu của chúng tôi nhỏ và tuổi 25-35 là độ 
tuổi sinh đẻ dẫn đến tỷ lệ dọa sẩy thai cao ở nhóm 
này. Dọa sẩy thai có thể gặp ở bất kỳ tuổi thai 
nào và nguy cơ dọa sẩy thai sẽ tăng sau 35 tuổi 
[4]. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên 
cứu của M.H. O mar và cộng sự (2005), tuổi mẹ 
bị dọa sẩy thai từ 26-30 chiếm tỷ lệ cao nhất [10]. 
Giá trị trung bình βhCG ở các tuần tuổi thai. Sự 
khác biệt nồng độ βhCG ở các tuần tuổi thai khác 
nhau có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Giá trị trung bình mức tăng βhCG huyết thanh 
trong 48 giờ ở các nhóm tuổi thai, giảm dần từ nhóm 
tuổi thai ≤ 6 tuần là 1,53 đến 1,17 ở nhóm >6-8 
tuần, 1,03 ở nhóm >8-10 tuần, cuối cùng là 0,97 ở 
nhóm thai >10-12 tuần. Sự khác biệt mức tăng βhCG 
huyết thanh trung bình trong 48 giờ ở các nhóm tuổi 
thai khác nhau có ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Nồng độ progesterone huyết thanh trung bình 
(Pr) ở tuổi thai ≤ 6 tuần là 28,70 ng/ml, sau 1 
tuần theo dõi và điều trị là 34,87ng/ml.Nồng độ 
Pr ở tuổi thai >6-8 tuần là 27,60 ng/ml, sau 1 
tuần theo dõi và điều trị là 37,52 ng/ml.Nồng độ 
Pr ở tuổi thai >8-10 tuần là 40,04 ng/ml, sau 1 
tuần theo dõi và điều trị là 52,18 ng/ml.Nồng độ 
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
 SẢ
N
 - 14(04), 22 - 27, 2017
25
Yếu tố OR 95% CI P
Nồng độ progesterone huyết thanh lúc vào viện 1,34 1,09 – 1,64 p < 0,05
Mức tăng βhCG huyết thanh sau 48 giờ 8,56 0,25 –291,75 p > 0,05
Tuổi mẹ ≥ 35 tuổi hoặc < 35 tuổi 0,05 0,00 – 0,94 p < 0,05
Bảng 6: Một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
Tuổi thai
Progesterone (ng/ml)
Ngày thứ nhất Ngày thứ 7
≤ 6 tuần 28,70 34,87
>6-8 tuần 27,60 37,52
>8-10 tuần 40,04 52,18
>10-12 tuần 27,62 35,50
Bảng 4: Thay đổi nồng độ trung bình progesterone huyết thanh theo tuổi thai
Tuổi thai
Estradiol (pg/ml)
Ngày thứ nhất Ngày thứ 7
≤ 6 tuần 661,36 762,08
>6-8 tuần 1160,87 1336,93
>8-10 tuần 1796,78 1915,37
>10-12 tuần 1792,37 2098,87
Bảng 5: Thay đổi nồng độ trung bình estradiol huyết thanh theo tuổi thai
Tuần thai n Giá trị βhCG trung bình (mIU/ml) Độ lệch chuẩn
95% khoảng 
tin cậy p
≤ 6 tuần 43 28219,00 35969,89 17149,11- 39288,90
p < 0,05
>6-8 tuần 44 87335,91 51704,12 71616,42-103055,39
>8-10 tuần 22 107827,77 51275,17 85093,63-130561,91
>10-12 tuần 8 146937,87 49946,04 105181,93-188693,81
Bảng 2: Giá trị trung bình βhCG huyết thanh theo tuổi thai
Tuần thai n Số lần tăng βhCG trung bình/48 giờ Độ lệch chuẩn
95% khoảng 
tin cậy p
≤ 6 tuần 43 1,53 0,64 1,33-1,73
p < 0,05
>6-8 tuần 44 1,17 0,26 1,09-1,25
>8-10 tuần 22 1,03 0,12 0,97-1,08
>10-12 tuần 8 0,97 0,12 0,86-1,08
Bảng 3: Giá trị trung bình mức tăng βhCG huyết thanh trong 48 giờ
Biểu đồ 1: Kết quả điều trị chung
Tập 14, số 04
Tháng 02-2017
Theo nghiên cứu của Jemma Johns và cộng sự 
(2007), 122 phụ nữ chảy máu 3 tháng đầu và thai 
kỳ đang tiến triển, nhóm so sánh là 33 phụ nữ bị 
sẩy thai, nồng độ nội tiết thai phụ bị sẩy thai 3 
tháng đầu trung bình estradiol 1470 pg/ml và 
progesterone trung bình là 35,5 ng/ml [7].
Theo biểu đồ 1 thì trong 117 trường hợp tham 
gia nghiên cứu, có 98/117 trường hợp điều trị 
thành công chiếm 83,8%, 19/117 trường hợp điều 
trị thất bại chiếm 16,2%.So sánh kết quả điều trị 
với các tác giả khác [4].
Bảng 6 cho thấy nồng độ progesterone huyết 
thanh có liên quan đến kết quả điều trị (OR 1,34 
, 95% CI (1,09-1,64). Tuổi mẹ <35 hoặc ≥35, 
có liên quan đến kết quả nghiên cứu với OR lần 
lượt là 0,05 và 29,23. Theo nghiên cứu của Karin 
Lautmann và cộng sự (2011), 400 thai phụ có 
thai tự nhiên, đường kính trung bình túi thai < 20 
mm, không thấy phôi thai trên siêu âm đường âm 
đạo có 199 thai kỳ tiến triển (49,8%), 201 thai kỳ 
không tiến triển (50,2%). Những thai phụ có thai 
kỳ tiến triển thường trẻ tuổi hơn, tình trạng ra máu 
âm đạo ít hơn. 
Có sự cao hơn đáng kể nồng độ βhCG huyết 
thanh và nồng độ trung bình progesterone huyết 
thanh cao gấp hai lần so với thai kỳ không tiến 
triển. Nồng độ βhCG huyết thanh và nồng độ 
trung bình progesterone huyết thanh ở hai nhóm 
thai kỳ tiến triển và không tiến triển tương ứng là 
3879 mIU/ml và 2930 mIU/ml; 70,5 ng/ml và 
29 ng/ml. Tuổi mẹ, đường kính túi thai và nồng 
độ progesterone huyết thanh được sử dụng để dự 
đoán khả năng thai kỳ tiến triển [8].
5. Kết luận
Qua nghiên cứu 117 trường hợp dọa sẩy thai 3 
tháng đầu tại Bệnh viện Phụsản Nhi Đà Nẵng với 
các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, rút ra các 
kết luận.
Dọa sẩy thai gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi mẹ từ 
25-29 chiếm tỷ lệ 42,7%.
Trung bình số lần tăng βhCG trong 48 giờ cao 
nhất ở tuổi thai ≤ 6 tuần, giảm dần theo các nhóm 
VÕ THỊ VY LỘC, LÊ LAM HƯƠNG
26
Tậ
p 
14
, s
ố 
04
Th
án
g 
02
-2
01
7
SẢ
N
 K
H
O
A
 –
 S
Ơ
 S
IN
H
βhCG được tiết từ tế bào lá nuôi nên hàm lượng 
của nó phản ánh chức năng hoạt động của lá nuôi 
trong giai đoạn sớm của thai kỳ. Định lượng βhCG 
huyết thanh có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi 
sự phát triển của thai, nó có độ nhạy và độ đặc 
hiệu cao. 
So sánh nồng độ βhCG huyết thanh của nghiên 
cứu này với một số nghiên cứu khác [4,5].
Bảng 3 cho ta thấy, mức tăng βhCG huyết 
thanh sau 48 giờ cao nhất là 1,53 lần ở tuổi thai 
≤ 6 tuần tuổi, tuổi thai càng lớn mức tăng càng 
giảm. Thai 12 tuần βhCG huyết thanh bắt đầu 
giảm (mức tăng 0,97). Khi quá trình thụ thai xảy 
ra, progesterone tăng dần từ 1-2 ng/ml kể từ 
ngày phóng noãn và nhanh chóng đạt đến nồng 
độ 10-35 ng/ml sau 7 ngày. 
Hàm lượng này giữ ổn định trong vòng 10 tuần 
đầu của thai nghén. Sau 10 tuần đầu, nồng độ của 
progesterone tiếp tục tăng đến khi thai đủ tháng, 
đạt nồng độ cực đại 100-300 ng/ml. Ở 3 tháng 
đầu thai kỳ, nồng độ progesterone thấp phản ánh 
một tình trạng thai nghén không hoàn hảo. Nồng 
độ progesterone huyết thanh trung bình ở tuổi thai 
< 10 tuần là 28-40 ng/ml và bằng 27,62 ng/ml ở 
tuổi thai > 10 tuần. 
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với tác 
giả Ibrahim A Abdelazim (2012), nồng độ 
progesterone huyết thanh trung bình ở tuổi thai < 
10 tuần và > 10 tuần lần lượt là 26,45± 3,9ng/ ml 
và 16,27± 4,7 ng/ ml [6]. Nồng độ progesterone 
sau 10 tuần tuổi thai giảm vì giai đoạn từ 7-10 
tuần là giai đoạn chuyển tiếp giữa hoàng thể và 
nhau thai nên quá trình tổng hợp progesterone 
giảm nhẹ.
Nồng độ progesterone tăng dần theo tuổi thai, 
nghiên cứu của chúng tôi tính giá trị trung bình 
của progesterone theo tuổi thai tại thời điểm vào 
viện và sau khi điều trị một tuần. Nồng độ trung 
bình estradiol huyết thanh thấp nhất ở tuổi thai ≤ 6 
tuần là 661,36 pg/ml, tăng dần đến 11-12 tuần 
1792,37 pg/ml. 
Tuổi thai
Nồng độ βhCG huyết thanh của các nghiên cứu
Trần Thị Sơn Trà Nguyễn Thị Thu Hà (nghiên cứu này)
≤ 6 tuần 16.631,2 ± 1.025,3 19.164,2 ± 16.727,9 28.219,0 ± 35.969,9
>6-8 tuần 39523,1± 14097,3 69.866,3 ± 47.204,9 87.355,9 ± 51.704,1
>8-10 tuần 115.954,4 ± 88.012,9 108.708,2 ± 75.739,1 107.827,8 ± 51.275,2
>10-12 tuần 101.216,8 ± 77.912,8 112.106,2 ± 24.354,0 146.937,9 ± 49.946,0
Tác giả Năm n Đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ điều trị thành công
Ngô Thị Thanh Thảo 2007 62 Dọa sẩy thai 85,5%
Võ Thị Vy Lộc 2014 117 Dọa sẩy thai 83,8%
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
 SẢ
N
 - 14(04), 22 - 27, 2017
27
tuổi thai. Nồng độ trung bình progesterone theo 
các nhóm tuổi thai từ 27,60- 40,04 ng/ml.Kết quả 
điều trị : Thành công: 83,8%, thất bại: 16,2%. Thai 
phụ ≥ 35 tuổi có nguy cơ điều trị thất bại gấp 2,25 
lần so với thai phụ < 35 tuổi.Mức tăng trung bình 
nồng độ βhCG huyết thanh ở nhóm điều trị thành 
công là 1,30 lần/48 giờ, nhóm điều trị thất bại là 
1,09 lần / 48 giờ.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Y Tế (2009),“Chảy máu trong nửa đầu thai kỳ”,Hướng dẫn quốc 
gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tr. 97-101.
2. Phan Trường Duyệt (2000), “Thăm dò nội tiết trong máu và trong 
nước tiểu”,Hướng dẫn thực hành thăm dò về sản khoa, Nhà xuất bản 
Y học Hà Nội, tr. 229-245.
3. Nguyễn Đức Hinh (2012), “Thai chết lưu trong tử cung”, Bài giảng 
Sản Phụ khoa, Bộ môn Phụ Sản Trường Đại học Y Hà Nội, Nhà xuất 
bản Y học Hà Nội, tr. 43-52.
4. Ngô Thị Thanh Thảo (2007),Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị dọa sẩy thai 3 tháng đầu bằng 
progesterone, Luận văn thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược Huế. 
5. Trần Thị Sơn Trà (2010),Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, tế bào 
âm đạo nội tiết, progesterone,hCG và siêu âm ở bệnh nhân dọa sẩy 
thai 3 tháng đầu tại BVPSTW từ tháng 1/2010 đến 6/2010, Luận văn 
thạc sĩ Y học, Hà Nội .
6. Abdelazim Ibrahim A, Elezz Amro Abo and Elsherbiny Mohamed 
(2012),Relation between single serum progesterone assay and viability of 
the first trimester pregnancy.SpringerPlus, vol. 1.
7. Johns Jemma, Muttukrishna S, Lygnos M et al (2007),Maternal serum 
hormone concentrations for prediction of adverse outcome in threatened 
miscarriage,Reproductive BioMedicine Online, vol. 15(4), pp. 413-421.
8. Lautmann Karin, Cordina Mark, Elson Janine et al (2011),Clinical use 
of a model to predict the viability of early intrauterine pregnancies when 
no embryo is visible on ultrasound, Human Reproduction, vol. 26(11), pp. 
2957-2963.
9. Maged Ahmed M. and Mostafa Walaa AI (2013),Biochemical and 
ultrasonographic predictors of outcome in threatened abortion,Middle East 
Fertility Society Journal, vol. 18, pp. 177-181.
10. Omar M. H., Mashita M. K. (2005),Dydrogesterone in threatened 
abortion: pregnancy outcome, Journal of Steroid Biochemistry & Molecular 
Biology, vol. 97, pp. 421-425.
Tập 14, số 04
Tháng 02-2017

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_can_lam_sang_va_ket_qua_dieu_tri_doa_say.pdf