Nghiên cứu chương trình hiện hành môn Toán ở Trung học Phổ thông tại Việt Nam và một số nước trên thế giới
Chương trình giáo dục (CTGD) phổ thông có vai trò
quan trọng đối với nền giáo dục của một quốc gia. Trong
xu hướng đổi mới giáo dục, tiếp cận với những xu hướng
giáo dục mới phù hợp với xã hội hiện nay, việc cập nhật,
điều chỉnh CTGD phổ thông là việc làm rất cần thiết.
Bộ GD-ĐT Việt Nam đã công bố CTGD phổ thông
tổng thể, trong đó nêu rõ quan điểm xây dựng chương
trình, những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của HS,
định hướng về nội dung, phương pháp giáo dục và đánh
giá kết quả giáo dục cũng như kế hoạch, điều kiện thực
hiện CTGD phổ thông [1]. Bài viết nghiên cứu nội dung
môn Toán trong CTGD phổ thông hiện hành ở Việt Nam,
CTGD phổ thông mới và CTGD phổ thông ở một số nước
trên thế giới nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về xu
hướng giáo dục toán học cho các nhà nghiên cứu giáo dục
trong quá trình xây dựng chương trình sách giáo khoa mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu chương trình hiện hành môn Toán ở Trung học Phổ thông tại Việt Nam và một số nước trên thế giới
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 176-180; 248 176 NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH HIỆN HÀNH MÔN TOÁN Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Phạm Nguyễn Hồng Ngự - Trường Đại học Quảng Nam Ngày nhận bài: 08/02/2019; ngày sửa chữa: 20/02/2019; ngày duyệt đăng: 06/03/2019. Abstract: Educational innovation is an urgent need and a global trend to match the development of many aspects of the world. Most countries in the world conduct education innivation to ensure sustainable development. However, innovation and education reform in each country is different, depending on many factors such as political, economic and social factors, etc. The article analyzes and compares the content of current Maths curriculum in high school in Vietnam, new general education curriculum and the one of some countries in the world, which aims to provide an overview for educational researchers in the process of developing textbooks in the future. Keywords: Curriculum study, Mathematics, high school, students. 1. Mở đầu Chương trình giáo dục (CTGD) phổ thông có vai trò quan trọng đối với nền giáo dục của một quốc gia. Trong xu hướng đổi mới giáo dục, tiếp cận với những xu hướng giáo dục mới phù hợp với xã hội hiện nay, việc cập nhật, điều chỉnh CTGD phổ thông là việc làm rất cần thiết. Bộ GD-ĐT Việt Nam đã công bố CTGD phổ thông tổng thể, trong đó nêu rõ quan điểm xây dựng chương trình, những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của HS, định hướng về nội dung, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục cũng như kế hoạch, điều kiện thực hiện CTGD phổ thông [1]. Bài viết nghiên cứu nội dung môn Toán trong CTGD phổ thông hiện hành ở Việt Nam, CTGD phổ thông mới và CTGD phổ thông ở một số nước trên thế giới nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về xu hướng giáo dục toán học cho các nhà nghiên cứu giáo dục trong quá trình xây dựng chương trình sách giáo khoa mới. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Quan niệm về chương trình giáo dục và phát triển chương trình 2.1.1. Quan niệm về chương trình giáo dục CTGD là một thuật ngữ khoa học mà khi dùng trong các phiên bản quốc tế có tên là “Curriculum” hoặc “Program” hay “Syllabus”. Trong các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về “Chương trình”. Theo Nguyễn Thị Lan Phương định nghĩa: trong giáo dục chính quy, chương trình là một tập hợp các khóa học với các nội dung nhằm cung cấp cho nhà trường phổ thông hoặc đại học [2]. Chương trình là căn cứ, là cơ sở về những vấn đề chung với hướng dẫn về các đề tài cần tìm hiểu, các trình độ cần đạt được cho một lớp học cụ thể hoặc một trình độ nào đó. Nguyễn Hữu Châu thì cho rằng, có thể hiểu chương trình theo 3 cách khác nhau như sau: - Chương trình là tất cả các hoạt động mà người học thực hiện có hướng dẫn của nhà trường; - Chương trình là tất cả các môn học mà nhà trường cung cấp cho người học; - Chương trình là sự sắp đặt một cách hệ thống các môn học và hoạt động trong khuôn khổ một khóa học do nhà trường cung cấp [3]. Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt thì cho rằng: chương trình là văn kiện do nhà nước ban hành, trong đó, quy định một cách cụ thể mục đích, nhiệm vụ của môn học, phạm vi hệ thống nội dung môn học, số tiết dành cho môn học nói chung cũng như cho từng chương, từng phần, từng bài nói riêng [4]. Những quan niệm về chương trình ở trên được cấu tạo bởi 2 thành tố cơ bản là mục tiêu và nội dung dạy học. Theo chúng tôi, có thể hiểu: CTGD là một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, chứa đựng mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hoạt động kiểm tra, đánh giá để đạt được mục tiêu giáo dục. Theo quan điểm này, chương trình dạy học cần bao gồm các thành tố sau: - Mục tiêu học tập (năng lực hoặc trình độ sẽ phải đạt được); - Nội dung kiến thức; - Định hướng về phương pháp dạy học; - Định hướng về đánh giá (đánh giá kết quả đầu ra, đo lường kết quả dạy học và học tập nhờ các quy trình khách quan) [1]. Với quan điểm này, CTGD của nước ta hiện nay sẽ thay đổi từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận theo hướng phát triển năng lực học sinh (HS), phù hợp với quan điểm giáo dục trên thế giới. 2.1.2. Xu hướng phát triển chương trình hiện nay Theo [2], phát triển chương trình được hiểu là việc xem xét, phân tích, đánh giá để điều chỉnh và bổ sung cho chương trình hiện hành, làm cho CTGD luôn được cập nhật, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong bối cảnh mới và hội nhập xu thế quốc tế. Do tốc độ phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật (trong đó có khoa học giáo dục) và sự biến đổi của đời VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 176-180; 248 177 sống xã hội nên nhìn chung, các nước có xu hướng rút ngắn chu kì xem xét để thay đổi chương trình, đồng thời thực hiện phát triển chương trình ở nhiều mức độ khác nhau. Có thể chỉ là những điều chỉnh nhỏ, thay đổi một cấp hoặc điều chỉnh ở một số môn học, lớp học,... nhưng cũng có thể thay đổi căn bản, toàn diện quá trình phát triển chương trình, luôn coi trọng tính tổng thể nhất quán và xuyên suốt từ mầm non đến cấp trung học phổ thông. Nhiều quốc gia trên thế giới thường xuyên cập nhật, thay đổi nhằm phát triển chương trình. Cụ thể, ở Anh kể từ khi chương trình quốc gia được triển khai lần đầu tiên năm 1988, đã trải qua 2 lần đổi mới CTGD lớn là năm 2000 và năm 2014; ở Úc, CTGD phổ thông quốc gia được bắt đầu xây dựng từ năm 2009, cho đến năm 2016 đã phát triển qua các giai đoạn từ Version 1.0 đến Version 8.2. Năm 1990, sau khi thống nhất đất nước, Cộng hòa liên bang Đức tiến hành cải cách giáo dục, xây dựng lại hệ thống giáo dục, trong đó mô hình giáo dục ở Tây Đức (được xây dựng từ năm 1949) được áp dụng rộng rãi tại hầu hết các tiểu bang. Tuy nhiên, sau năm 2000, giáo dục ở Đức đã có rất nhiều sự thay đổi, đến năm 2015, Đức ban hành CTGD phổ thông mới và dành 2 năm chuẩn bị để thực hiện chương trình vào năm 2017,... CTGD quốc gia Hàn Quốc luôn được cập nhật, điều chỉnh linh hoạt. Từ năm 1955 đến năm 2016, quốc gia này đã thay đổi 9 lần CTGD quốc gia và nhiều lần điều chỉnh CTGD. Mặc dù mỗi quốc gia đều có một chu kì phát triển CTGD khác nhau, nhưng có một quy trình chung là Phát triển chương trình tổng thể rồi mới Phát triển chương trình các môn học. Mỗi quốc gia có các tiêu chí khác nhau để xây dựng, phát triển CTGD, tuy nhiên, đa phần cách thức xây dựng phát triển chương trình của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào mục tiêu giáo dục phổ thông của nước đó. Cụ thể: * Mục tiêu giáo dục ở Úc là: - HS đạt được thành công; - HS trở thành một cá nhân tự tin và sáng tạo; - HS trở thành những công dân có hiểu biết và tích cực [5]. * Mục tiêu giáo dục ở Anh là: - Chương trình cung cấp cơ hội cho tất cả HS học tập. Trong đó có đề cập đến cần trang bị cho người học các kĩ năng thiết yếu về đọc hiểu, tính toán, công nghệ thông tin và truyền thông, thúc đẩy tư duy với khả năng suy nghĩ một cách hợp lí; + Thúc đẩy tinh thần, đạo đức, phát triển văn hóa - xã hội cho HS [5]. * Mục tiêu giáo dục ở Đức nhằm tạo ra những con người có tri thức khoa học nền tảng, học vấn phổ thông vững chắc, phát triển toàn diện về thể chất và khả năng cảm thụ nghệ thuật (âm nhạc, mĩ thuật), phát huy tối đa tiềm năng cá nhân và tính sáng tạo; có khả năng làm việc độc lập, tự lập và tự tin, có khả năng ra quyết định; có trách nhiệm với bản thân, xã hội và nhân loại, có các năng lực chung như: phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo; năng lực hợp tác và làm việc trong môi trường đa văn hóa; có phương pháp học, tự học và học tập suốt đời; năng lực tính toán, năng lực quản lí; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; năng lực tư duy phê phán [5]. * Mục tiêu của CTGD phổ thông ở Việt Nam là: CTGD phổ thông cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phổ thông, giúp HS phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, trở thành người học tích cực, tự tin, có khả năng lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Nhìn chung, xu thế xây dựng phát triển chương trình của đa số các quốc gia đang thực hiện là xây dựng, phát triển chương trình theo định hướng phát triển năng lực người học. 2.2. Chương trình môn Toán ở một số nước trên thế giới Do khuôn khổ của bài báo, dưới đây chúng tôi chỉ đề cập đến nội dung, chương trình môn Toán ở các nước Canada, Singapore. 2.2.1. Chương trình môn Toán cấp trung học phổ thông ở một số bang tại Canada - Chương trình môn Toán cấp trung học phổ thông ở bang Alberta tại Canada. Chương trình nội dung môn Toán cấp trung học phổ thông của bang Alberta, Canada được rút ra từ chương trình chung về giảng dạy môn Toán ở trung học phổ thông do Hiệp hội Tây Bắc Canada thông qua vào tháng 1/2008; dựa trên sự phát triển chương trình của 7 bang (Alberta, British Columbia, Manitoba, Northwest Territories, Nunavut, Saskatchewan và Yukon Territory) trong nước và có sự tham gia của các GV, nhà quản lí giáo dục, phụ huynh HS, doanh nghiệp và những thành phần khác trong xã hội. Mục tiêu của chương trình này là giáo dục và trang bị cho HS các kĩ năng như: giải quyết vấn đề, giao tiếp và lập luận toán học; kết nối toán học với các ứng dụng của nó; hiểu biết toán học; hiểu rõ giá trị của toán học, đưa ra những quyết định sáng suốt, đóng góp cho xã hội. Học xong chương trình này, HS sẽ hiểu và đánh giá cao vai trò của toán học trong đời sống xã hội, thể hiện thái độ tích cực đối với việc học toán, tham gia và kiên trì khi giải quyết vấn đề toán học, tham gia vào các tranh luận toán học, chấp nhận sai lầm trong việc thực hiện các nhiệm vụ toán học, thể hiện sự say mê về toán học và các tình huống liên quan đến toán học. Mạch kiến thức trong nội dung môn Toán lớp 10, 11, 12 ở bang Alberta bao gồm: Đại số, Hình học, Lập luận logic, Dự án nghiên cứu Toán học, Đo lường, Số, Hoán VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 176-180; 248 178 vị, chỉnh hợp và định lí nhị thức, Xác suất, Quan hệ và hàm số, Thống kê, Lượng giác [6] [7]. Như vậy, cũng là hoàn thành chương trình môn Toán cấp trung học phổ thông nhưng HS ở bang Alberta, Canada có thể theo học một trong ba chuỗi khóa học, tùy thuộc vào trình độ toán học đạt được ở lớp 9 của bản thân. Điều này thể hiện việc phân hóa rõ nét trong giáo dục ở bang này. - Chương trình môn Toán trong chương trình giáo dục phổ thông ở bang Ontario, Canada. Từ tháng 9/2007, CTGD phổ thông ở bang Ontario bắt đầu áp dụng chương trình mới thay thế cho chương mình môn Toán phổ thông ở bang này năm 2000. Với mục tiêu của CTGD toán học phổ thông là trang bị cho HS các kiến thức nền tảng về toán học để thực hiện vai trò của những công dân tương lai. Trang bị, rèn luyện cho HS các năng lực cần thiết như: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực lập luận, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng hiệu quả công nghệ để xử lí một lượng lớn thông tin và quan trọng nhất là năng lực tự học suốt đời. CTGD phổ thông trung học ở bang Ontario có 2 năm gồm 2 lớp là lớp 11 và lớp 12. Chương trình trung học dựa trên nền tảng chuyển tiếp kiến thức từ cấp tiểu học lên cấp trung học cơ sở. HS chỉ học tốt khi có cơ hội nghiên cứu, tiếp cận với những khái niệm mới, dựa trên mối liên hệ với kiến thức trước đó. Trong chương trình cập nhật mới này, người ta quan tâm đến việc dạy và học toán dựa trên quá trình giải quyết các vấn đề thực tiễn, hay những vấn đề xuất hiện từ các môn học khác như: Khoa học, Vật lí, Sinh học,... Chương trình này có 4 khóa học, HS được lựa chọn khóa học tùy theo năng lực, sở thích và nhất là mục tiêu sau cấp trung học phổ thông: tiếp tục học dự bị đại học, học dự bị cao đẳng, chuẩn bị học đại học hay bước vào lĩnh vực nghề nghiệp. Các loại khóa học được định nghĩa như sau: - Các khóa học chuẩn bị đại học được thiết kế để trang bị cho sinh viên kiến thức và kĩ năng cần thiết, đáp ứng yêu cầu đầu vào trong các chương trình đào tạo đại học. - Các khóa học dự bị cao đẳng được thiết kế để trang bị cho sinh viên kiến thức và kĩ năng cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu đầu vào cho các chương trình cụ thể ở các trường cao đẳng. - Các khóa học dự bị đại học được thiết kế để trang bị cho sinh viên kiến thức và kĩ năng cần thiết, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu của các chương trình đại học, học nghề, hoặc các chương trình đào tạo khác. Ngoài ra, chương trình còn được xây dựng mềm dẻo và linh hoạt, giúp HS có thể học nửa khóa học một lần, hoàn thành xong 2 nửa khóa học sẽ được tính là hoàn thành 1 khóa học. HS sau khi xác định mục tiêu học tập của mình, sẽ lựa chọn khóa học và theo học các nội dung tương ứng trong chương trình lớp 11, 12 của khóa học đó. Trong chương trình giáo dục toán học cấp trung học phổ thông ở bang Ontario tại Canada, toán học đã được dạy theo hướng đầu ra của HS. Nếu HS có nhu cầu học lên đại học, cao đẳng hoặc hướng nghiệp sẽ được đào tạo theo các nội dung toán học khác nhau; thậm chí nếu theo học đại học thuộc các khối ngành đào tạo khác nhau thì cũng được học các chương trình toán cấp phổ thông khác nhau. 2.2.2. Chương trình môn Toán cấp trung học phổ thông ở Singapore Cùng với xu hướng đổi mới giáo dục trên thế giới, Singapore đã tiến hành đánh giá, xem xét và điều chỉnh nội dung CTGD nói chung, toán học nói riêng từ năm 2010 và áp dụng những điều chỉnh mới vào giáo dục từ năm 2013. Theo đó, HS ở Singapore bắt đầu học Toán xuyên suốt từ lớp 1-10 (kết thúc giai đoạn giáo dục phổ thông) và 2 năm dự bị đại học [6]. Với mục tiêu của chương trình giáo dục toán học là sẽ đảm bảo cho tất cả HS thành thạo toán học, sử dụng toán học phục vụ cho cuộc sống. Mục tiêu cụ thể trong giáo dục toán học ở Singapore là cho phép HS: - Tiếp thu và áp dụng các khái niệm và kĩ năng toán học; - Phát triển các kĩ năng nhận thức và siêu nhận thức thông qua cách tiếp cận toán học để giải quyết vấn đề; - Phát triển thái độ tích cực đối với toán học. Ở Singapore, từ lớp 7-10, HS trung học sẽ được chọn học theo cấp độ (O) hoặc cấp độ (N). Các chương trình toán học cấp (O) - cấp N (A) nhằm cho phép tất cả HS: - Có được các khái niệm và kĩ năng toán học để học toán một cách liên tục và hỗ trợ việc học các môn học khác; - Phát triển tư duy, lập luận, giao tiếp, ứng dụng và kĩ năng siêu nhận thức thông qua cách tiếp cận toán học để giải quyết vấn đề; - Kết nối các ý tưởng trong toán học và giữa toán học với các môn học khác; - Xây dựng sự tự tin và thúc đẩy sự quan tâm đến toán học. Các chương trình toán học bổ sung cấp (O) và N (A) nhằm cho phép HS có năng khiếu và hứng thú với toán học: - Có được các khái niệm và kĩ năng toán học cho các nghiên cứu về toán học, hỗ trợ quá trình học tập các môn học khác, đặc biệt là các ngành khoa học; - Phát triển tư duy, lập luận và kĩ năng siêu nhận thức thông qua cách tiếp cận toán học để giải quyết vấn đề ... r 176-180; 248 179 lập luận, giao tiếp, ứng dụng và kĩ năng siêu nhận thức thông qua cách tiếp cận với toán học để giải quyết vấn đề; - Tạo sự tự tin khi vận dụng toán học vào thực tiễn và đánh giá cao giá trị toán học trong việc đưa ra các quyết định trong thực tiễn. Điều khác biệt trong giáo dục ở Singapore là giai đoạn cấp trung học phổ thông chỉ có 2 năm và được gọi là giai đoạn dự bị đại học. Ở giai đoạn này, HS được học Toán và được lựa chọn cấp độ là (H1), (H2) hoặc (H3) để học. Chương trình Toán học H1 dành cho HS có nguyện vọng nghiên cứu các chương trình giáo dục đại học trong kinh doanh và khoa học xã hội để: - Có được các khái niệm và kĩ năng toán học hỗ trợ nghiên cứu trong kinh doanh và khoa học xã hội; - Phát triển kĩ năng tư duy, lập luận, giao tiếp và mô hình hóa thông qua cách tiếp cận toán học để giải quyết vấn đề; - Kết nối các ý tưởng trong toán học, giữa toán học và các môn học khác thông qua ứng dụng của toán học; - Đánh giá cao giá trị của toán học trong việc đưa ra quyết định trong cuộc sống. Chương trình toán học H2 dành cho những HS quan tâm đến việc nghiên cứu chương trình đại học về toán học, khoa học và kĩ thuật để: - Có được các khái niệm và kĩ năng toán học nhằm chuẩn bị cho các nghiên cứu về toán học, khoa học và kĩ thuật; - Phát triển các kĩ năng tư duy, lập luận, giao tiếp và mô hình hóa thông qua cách tiếp cận toán học khi giải quyết vấn đề và sử dụng ngôn ngữ toán học; - Kết nối các ý tưởng trong toán học, giữa toán học và các môn học khác thông qua các ứng dụng của toán học; - Đánh giá cao vẻ đẹp của toán học và vai trò của nó trong việc đưa ra các quyết định trong cuộc sống. Chương trình toán học H3 dành cho những HS có năng khiếu và đam mê về toán học: - Có được các khái niệm và kĩ năng toán học tiên tiến để hiểu sâu hơn về toán học, mở rộng phạm vi ứng dụng của toán học; - Phát triển các năng lực tư duy trí tuệ thông qua lập luận và chứng minh toán học, giải quyết vấn đề toán học, sử dụng các mô hình toán học; - Kết nối các ý tưởng trong toán học ở cấp độ cao hơn, giữa toán học và các chuyên ngành khác thông qua các ứng dụng của toán học; - Đánh giá cao vẻ đẹp, sự nghiêm túc và trừu tượng của toán học thông qua những ứng dụng của toán học. Như vậy, chương trình môn Toán ở Singapore có độ phân hóa rõ nét từ cấp tiểu học cho đến hết cấp trung học phổ thông, dự bị đại học. Chương trình Toán H3 là cao nhất, HS có thể học trực tiếp để đạt được chương trình này nếu thực sự có đam mê và năng khiếu; với những HS bị hạn chế về năng lực toán học cũng có thể đạt được trình độ Toán H3 thông qua các chương trình Toán bổ trợ để bổ sung dần những kiến thức cần đạt. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với chương trình môn Toán ở Việt Nam. 2.3. Chương trình giáo dục môn Toán cấp trung học phổ thông ở Việt Nam 2.3.1. Chương trình môn Toán cấp trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay Chương trình môn Toán trong chương trình sách giáo khoa hiện hành ở Việt Nam được viết theo quy định về CTGD phổ thông theo Quyết định số 16/2006/QĐ- BGDĐT, ngày 5/5/2006 của Bộ GD-ĐT. CTGD phổ thông hiện hành là kết quả của sự điều chỉnh, hoàn thiện, tổ chức lại các chương trình đã được ban hành trước đây. Theo đó, nội dung môn Toán trong chương trình phổ thông ở Việt Nam từ lớp 1 đến lớp 12 với 6 mạch kiến thức là: Số học; Đại lượng và đo Đại lượng; Đại số; Giải tích; Hình học; Thống kê, tổ hợp và xác suất [8]. Riêng nội dung môn Toán ở cấp trung học phổ thông gồm các kiến thức cơ bản về: - Số học và các phép tính trên tập hợp số thực, số phức; - Mệnh đề và tập hợp, các biểu thức đại số và lượng giác, phương trình (bậc nhất, bậc hai, quy về bậc hai); hệ phương trình (bậc nhất, bậc hai); bất phương trình (bậc nhất, bậc hai, quy về bậc hai) và hệ bất phương trình bậc nhất (1 ẩn, hai ẩn); - Hàm số, giới hạn, đạo hàm, nguyên hàm, tích phân và ứng dụng của chúng; - Các quan hệ hình học và một số hình thông dụng (điểm, đường thẳng, mặt phẳng, hình tam giác, hình tròn, elip, hình đa diện, hình tròn xoay), phép dời hình và phép đồng dạng, vectơ và tọa độ; - Một số kiến thức ban đầu về thống kê và xác suất. Trong chương trình này, Bộ GD-ĐT đã đưa ra chuẩn kiến thức kĩ năng cho từng môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Đồng thời Bộ GD-ĐT cũng đưa ra hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng cho từng môn học ở từng lớp học cụ thể. 2.3.2. Chương trình môn Toán trong chương trình giáo dục phổ thông mới đang xây dựng ở Việt Nam Tháng 8/2017, Bộ GD-ĐT đã công bố CTGD phổ thông tổng thể trong khuôn khổ đề án đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Theo đó, trong hệ thống giáo dục phổ thông mới ở Việt Nam sẽ phân chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và trung học cơ sở); giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (lớp 10, 11, 12). CTGD phổ thông tổng thể quy định: giáo dục toán học là hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình hóa toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện toán học; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội cho HS được trải nghiệm, áp dụng toán học vào thực tiễn. Giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 176-180; 248 180 giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn học khác và giữa toán học với thực tiễn. Trong CTGD phổ thông mới, nội dung môn Toán được phân chia theo 02 giai đoạn: - Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, môn Toán là môn học bắt buộc ở tiểu học và trung học cơ sở, giúp HS nắm được một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lí, quy tắc toán học làm nền tảng cho việc học tập ở các trình độ tiếp theo hoặc có thể sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chương trình môn Toán ở giai đoạn này là sự kết hợp giữa cấu trúc tuyến tính với cấu trúc đồng tâm xoắn ốc (đồng tâm, mở rộng và nâng cao dần), xoay quanh và tích hợp 03 mạch kiến thức: Số học và Đại số, Hình học và Đo lường, Thống kê và Xác suất. - Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, môn Toán là môn học bắt buộc, chương trình có cấu trúc tuyến tính với đồng tâm xoáy ốc, xoay quanh các mạch kiến thức như ở giai đoạn trước, nhưng giúp HS có cái nhìn tương đối tổng quát về toán học, hiểu được vai trò và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tiễn, những ngành nghề có liên quan đến toán học làm cơ sở định hướng nghề nghiệp sau này, cũng như có đủ năng lực tối thiểu để tự mình tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến toán học. Cụ thể, ở lớp 10, môn Toán giúp HS củng cố kiến thức toán học phổ thông cơ bản, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được hình thành trong giai đoạn trước, tạo điều kiện cho HS bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có được thái độ tích cực đối với quá trình học tập môn Toán. Ở lớp 11, 12, môn Toán phát triển dựa trên nội dung nền tảng đã được trang bị cho HS ở lớp 10, lựa chọn những vấn đề cần thiết nhất, mang tính ứng dụng cao đối với các định hướng nghề nghiệp sau giai đoạn phổ thông của HS. Dựa trên chương trình tổng thể này, ngày 26/12/2018, Bộ GD-ĐT đã ban hành nội dung CTGD phổ thông môn Toán cụ thể. Nội dung môn Toán được tích hợp xoay quanh 3 mạch kiến thức là Số học, Đại số và một số yếu tố Giải tích; Hình học và Đo lường; Thống kê và Xác suất. Cụ thể, trong chương trình giáo dục phổ thông môn Toán nêu rõ [8]: - Mạch kiến thức Số học, Đại số và một số yếu tố Giải tích là cơ sở cho tất cả các nghiên cứu sâu hơn về toán học, nhằm hình thành công cụ toán học để giải quyết các vấn đề của toán học và các môn học khác. Mạch này xuyên suốt từ lớp 1-12. - Hình học và đo lường là một trong những thành phần quan trọng của giáo dục toán học, rất cần thiết cho HS trong việc tiếp thu kiến thức về không gian và phát triển các kĩ năng cơ bản. Hình học và đo lường hình thành những công cụ nhằm mô tả các đối tượng, vật thể của thế giới xung quanh; cung cấp cho HS kiến thức, kĩ năng toán học cơ bản về Hình học. Đo lường (với các dụng cụ đo thông dụng) và tạo cho HS khả năng suy luận, kĩ năng thực hiện các chứng minh toán học, góp phần vào phát triển tư duy logic, khả năng sáng tạo toán học, trí tưởng tượng không gian và tính trực giác. Đồng thời, hình học còn góp phần giáo dục thẩm mĩ và nâng cao văn hóa toán học cho HS. Việc gắn kết đo lường và hình học sẽ tăng cường tính trực quan, thực tiễn của quá trình dạy học môn Toán. - Thống kê và xác suất là một thành phần bắt buộc của giáo dục toán học trong nhà trường, góp phần tăng cường tính ứng dụng và giá trị thiết thực của giáo dục toán học. Thống kê và xác suất tạo cho HS khả năng nhận thức và phân tích các thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, hiểu bản chất xác suất của sự phụ thuộc trong thực tế, biết áp dụng tư duy thống kê để phân tích dữ diệu. Từ đó, nâng cao sự hiểu biết và phương pháp nghiên cứu khoa học cho HS. Như vậy, so với chương trình đang hiện hành, CTGD phổ thông mới chỉ còn 3 mạch kiến thức (trước đây là 6), đã chú trọng nhiều hơn đến thống kê và xác suất (bắt đầu xuất hiện từ lớp 1), sự phân bổ thời lượng cho các mạch kiến thức ở các lớp 10, 11, 12 là đều nhau chứ không có sự khác biệt như chương trình cũ (ở mỗi lớp, thời lượng dành cho mạch Số học, Đại số và một số yếu tố giải tích là 44%; Hình học và đo lường là 35%; Thống kê và hình học là 14%). Trong chương trình mới, ở lớp 10, 11, 12 dành thời lượng 7% để tổ chức các hoạt động thực hành và trải nghiệm cho HS thông qua các chuyên đề học tập cụ thể; giúp HS vận dụng các kiến thức, kĩ năng, thái độ đã được tích lũy từ giáo dục toán học và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn một cách sáng tạo; phát triển cho HS năng lực tổ chức và quản lí hoạt động, năng lực tự nhận thức, định hướng và lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. CTGD phổ thông môn Toán theo chương trình mới đã chỉ rõ các năng lực cần đạt của HS, có sự kế thừa cấu trúc cũ và phát triển theo xu hướng mới, chú trọng đến giáo dục toán học theo hướng áp dụng kiến thức vào thực tiễn để giải quyết vấn đề thông qua hoạt động trải nghiệm hay các chuyên đề học tập. Có thể nói, chương trình mới đã tiếp cận được với chương trình của các quốc gia tiên tiến trên thế giới và xu hướng giáo dục nói chung, giáo dục toán học nói riêng. 3. Kết luận Đổi mới giáo dục là xu hướng tất yếu hiện nay. Việc ban hành chương trình tổng thể, cũng như chương trình cụ thể từng môn học ở từng cấp học của Bộ GD-ĐT là cơ sở để xây dựng nội dung chương trình sách giáo khoa mới ở nước ta hiện nay. (Xem tiếp trang 248) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248 248 nhất cho GV nâng cao trình độ và kiến thức chuyên ngành để đáp ứng nhu cầu giảng dạy một cách hiệu quả. - Đối với việc học: nhà trường cần phải thực hiện điều kiện tiên quyết một cách nghiêm ngặt để sàng lọc trình độ SV trước khi tham gia lớp học tiếng Anh chuyên ngành. Nghĩa là SV bắt buộc phải hoàn thành các học phần tiếng Anh tổng quát khi đó mới có đủ nền tảng kiến thức để tham gia vào lớp tiếng Anh chuyên ngành. Bên cạnh đó, nhà trường cần sắp xếp sĩ số lớp một cách hợp lí, khoa học và trang bị tốt các phương tiện hỗ trợ giúp GV phát huy tối đa hiệu quả phương pháp giảng dạy, giúp người học tiếp thu tốt nhất nội dung bài giảng. Tài liệu tham khảo [1] M.Samanth Reddy (2016). Importance of English language in today’s world. International Journal of Academic Research, Vol. 3, Issue-4(2), pp. 179-184. [2] Vũ Thị Phương Anh - Nguyễn Bích Hạnh (2005). Năng lực tiếng anh của sinh viên các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: thực trạng và những giải pháp. Báo cáo hội thảo khoa học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. [3] Bộ GD-ĐT (2012). Công văn số 7274 /BGDĐT- GDĐH về việc Hướng dẫn thực hiện kế hoạch triển khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 trong các cơ sở giáo dục đại học. [4] Hutchinson, T - Waters, A. (1987). English for specific purposes, A learningcentred approach. Cambridge: Cambridge Universiti Press. [5] Robinson, P (1991). ESP today: A practitioner’s guide. Hemel Hemstead: Prentice Hall. [6] Richards, Jack C. - Richard W. Schmidt (2010). Longman Dictionary of Language Teaching and Applied Linguistics, fourth edition. London: Longman (Pearson Education). [7] Huhta M. (2010). Language and communication for professional purposes. Needs analysis methods in industry and business and their yield to stakeholders. Yliopistopaino, Espoo. [8] Basturkmen, Helen (2010). Developing Courses for English for Specifc Purposes. New York: Pelgrave- Macmillan. [9] Lâm Quang Đông (2011). Tiếng Anh chuyên ngành - Một số vấn đề về nội dung giảng dạy. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11(193), tr 27-32. [10] Nguyễn Hoàng Tuấn (2007). Một vài suy nghĩ về việc dạy tiếng Anh chuyên ngành ở bậc đại học. Giảng dạy tiếng Anh bậc đại học ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr 19-31. [11] Harmer, J. (2015). The Practice of English Language Teaching Fifth Edition. Pearson Education Limited. [12] Nguyễn Quyết (2018). Ứng dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc phân tích kết quả học môn Tiếng Anh của sinh viên trường đại học ngoài công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục, số 444, tr 48-54. [13] Julie Pallant (2007). SPSS-Survival Manual. Open University Press. NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH HIỆN HÀNH... (Tiếp theo trang 180) Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi mới chỉ trình bày tóm lượt về quan niệm chương trình, phân tích nội dung chương trình môn Toán, nội dung CTGD môn Toán theo chương trình mới ở Việt Nam và nội dung chương trình môn Toán ở một số nước trên thế giới. Hi vọng từ đó có thể giúp cho các nhà quản lí, nghiên cứu giáo dục có những định hướng trong các nghiên cứu tiếp theo khi xây dựng nội dung chương trình sách giáo khoa mới nhằm phát triển năng lực cho người học, phát huy được khả năng, sở trường của từng em trong quá trình dạy học môn Toán ở trung học phổ thông. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thế. [2] Nguyễn Thị Lan Phương (chủ biên, 2016). Chương trình tiếp cận năng lực và đánh giá năng lực người học. NXB Giáo dục Việt Nam. [3] Nguyễn Hữu Châu (2005). Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục. [4] Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1987). Giáo dục học (tập 1). NXB Giáo dục [5] Trần Công Phong - Nguyễn Thị Hồng Vân (2016). Xu thế phát triển Chương trình giáo dục phổ thông trên thế giới. NXB Giáo dục Việt Nam. [6] Ministry of Education (2008). The Alberta Curriculum Grades 10-12. [7] Ministry of Education Singapore (2013). O - & N(A) - Level Mathematics Teaching and Learning Syllabus. [8] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán. [9] Bộ GD-ĐT (2006). Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán lớp 10, 11, 12.
File đính kèm:
- nghien_cuu_chuong_trinh_hien_hanh_mon_toan_o_trung_hoc_pho_t.pdf