Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương

Ngân sách xã (NSX) là cấp cuối cùng trong

phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước (NSNN).

NSX bao gồm toàn bộ các khoản thu, nhiệm vụ

chi được quy định trong dự toán một năm do Hội

đồng nhân dân (HĐND) xã quyết định và giao

cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã thực hiện

nhằm đảm bảo các chức năng nhiệm vụ của

chính quyền xã. NSX có vai trò rất quan trọng

trong đời sống của người dân, đặc biệt đối với

người dân nông thôn. Là một đơn vị hành chính

Nhà nước cấp cơ sở, chính quyền cấp xã trực

tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước

với nhân dân dựa trên các quy định của pháp

luật. Do vậy, NSX là công cụ tiên quyết cho

chính quyền xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của mình.

pdf 8 trang kimcuc 4620
Bạn đang xem tài liệu "Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương

Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
J. Sci. & Devel. 2014, Vol. 12, No. 6: 813-820 
Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 6: 813-820 
www.vnua.edu.vn 
813 
NGÂN SÁCH XÃ TRONG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: 
NGHIÊN CỨU TẠI XÃ HOÀNG DIỆU, HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG 
Nguyễn Hữu Khánh 
Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
Email: khanhhau1@gmail.com 
Ngày gửi bài: 18.06.2014 Ngày chấp nhận: 01.09.2014 
TÓM TẮT 
Xã Hoàng Diệu nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, được lựa chọn để phân tích ảnh hưởng của những 
thay đổi trong kinh tế - xã hội nông thôn tới ngân sách xã. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ từ 2008 đến 
2013, các khoản thu và chi của ngân sách xã biến động mạnh cả về số lượng và cơ cấu. Chi cho đầu tư phát triển 
trên địa bàn xã phụ thuộc phần lớn vào thu từ cấp quyền sử dụng đất. Chúng tôi kiến nghị (1) cần tăng cường minh 
bạch thông tin về ngân sách xã tới người dân, (2) nên thay đổi mức thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và (3) điều 
chỉnh phí sử dụng đất công ích là đất canh tác trên đồng ruộng cho phù hợp. 
Từ khóa: Đồng bằng sông Hồng, ngân sách xã, nông thôn, phân cấp quản lý ngân sách. 
Commune Budget in Fiscal Decentralization: A Case Study 
of Hoang Dieu Commune, Gia Loc District, Hai Duong Province 
ABSTRACT 
Hoang Dieu, a rural commune located at the center of the Red River delta, was selected as a case study to 
examine impacts of changes in socio-economic factors on its budget. The results reveal that, during period from 2008 
to 2013, the budget of the commune had considerably fluctuated not only in terms of budget amount but also in terms 
of budget structure. Expenditures for investment depended mostly on revenue from assigning use rights of residential 
land. We recommend that (1) declaration of commune budget to farmers should be promoted, (2) tax rate for non-
agricultural land should be modified, and (3) fee for using public cropland land should be adjusted. 
 Keywords: Commune budget, fiscal decentralization, rural, Red River delta. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ngân sách xã (NSX) là cấp cuối cùng trong 
phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước (NSNN). 
NSX bao gồm toàn bộ các khoản thu, nhiệm vụ 
chi được quy định trong dự toán một năm do Hội 
đồng nhân dân (HĐND) xã quyết định và giao 
cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã thực hiện 
nhằm đảm bảo các chức năng nhiệm vụ của 
chính quyền xã. NSX có vai trò rất quan trọng 
trong đời sống của người dân, đặc biệt đối với 
người dân nông thôn. Là một đơn vị hành chính 
Nhà nước cấp cơ sở, chính quyền cấp xã trực 
tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước 
với nhân dân dựa trên các quy định của pháp 
luật. Do vậy, NSX là công cụ tiên quyết cho 
chính quyền xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ 
của mình. 
Xu hướng phân cấp quản lý đã trở thành 
chủ đề tranh luận trên thế giới trong những 
thập niên gần đây. Xem xét vai trò của phân cấp 
tới phát triển địa phương, Stigler (1957) khẳng 
định “một chính phủ đại diện hoạt động tốt nhất 
khi nó ở gần dân” và “người dân phải có quyền 
bỏ phiếu cho loại hình và số lượng dịch vụ công 
mà họ cần”. Oates (1972) cho rằng “hàng hóa 
Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương 
814 
công nên do cấp chính quyền đại diện tốt nhất 
cho vùng hay địa phương hưởng lợi cung cấp”. Ở 
Việt Nam, phân cấp trong quản lý ngân sách đã 
được thực hiện nhiều năm trước, được luật hóa 
lần đầu trong Luạ ̂t Ngân sách Nhà nước 1996 
và được bổ sung hoàn thiẹ ̂n gần đây nhất trong 
Luạ ̂t Ngân sách 2002 (áp dụng từ năm 2004). 
Hiện nay, Luật Ngân sách mới đang được trình 
bản dự thảo lấy ý kiến cho việc sửa đổi. 
Hệ thống NSNN Việt Nam theo Luật Ngân 
sách 2002 bao gồm Ngân sách trung ương 
(NSTW) và Ngân sách địa phương (NSĐP). 
NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị hành 
chính các cấp có HĐND và UBND, gắn liền với 
mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước hiện 
nay1. NSĐP bao gồm: ngân sách tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách 
cấp tỉnh); ngân sách huyện, quận, thị xã, thành 
phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp 
huyện); và ngân sách xã, phường, thị trấn (gọi 
chung là ngân sách cấp xã hoặc ngân sách xã). 
Khi so sánh hệ thống phân cấp quản lý 
ngân sách ở Việt Nam với một số nước khác, có 
quan điểm cho rằng cách thiết kế hệ thống 
NSNN của Việt Nam đi ngược với xu hướng trên 
thế giới và bốn cấp ngân sách có thể là quá 
nhiều làm tăng chi phí hành chính (Martinez-
Vazquez, 2004). 
Trong mối quan hệ phân cấp quản lý ngân 
sách, cách thức phân phối ngân sách từ trung 
ương đến địa phương thông qua cấp tỉnh được 
nhiều học giả tranh luận. Rao (2000) cho rằng 
cách thức phân bổ ngân sách cho địa phương ở 
Việt Nam mang tính chủ quan và không có mối 
quan hệ với nhu cầu thực tiễn. Cùng quan điểm 
này, Vũ Sỹ Cường (2013) cũng chứng minh phân 
cấp chi ngân sách chưa gắn liền với viẹ ̂c cung 
cấp các dịch vụ công ở địa phương. Nguyễn Thị 
Hải Hà (2013) nhìn nhận ở góc độ thiếu kỷ luật 
tài khóa trong phân cấp quản lý ngân sách. 
Bằng chứng của việc này là tình trạng NSĐP 
vượt dự toán thường xuyên với mức độ lớn và có 
xu hướng tăng theo thời gian. 
1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ 
ban nhân dân năm 2003. 
Tuy nhiên, tranh luận về những khía cạnh 
ngân sách cấp huyện và xã ít được đề cập hơn. 
Bài viết này lựa chọn thảo luận ngân sách cấp 
xã vì ba lý do chính. Thứ nhất, trong ba cấp của 
NSĐP, chỉ có cấp xã đã bước đầu thực hiện 
Pháp lệnh dân chủ cấp cơ sở từ đầu năm 2007. 
Lý thuyết và thực tiễn cho thấy phân cấp phải 
được thực hiện cùng với nhiều điều kiện mới có 
thể đạt được mục tiêu hiệu quả và công bằng. 
Trong các điều kiện đó, có ít nhất hai điều kiện 
là thông tin minh bạch và tiếng nói của người 
dân (Shah, 2004). Do vậy, cấp xã là cấp khả thi 
nhất hiện nay có thể thử nghiệm về tính minh 
bạch thông tin. Thứ hai, trong khi tranh luận từ 
thử nghiệm bỏ HĐND cấp huyện đang diễn ra, 
chính quyền cấp xã lại đang được quan tâm tạo 
điều kiện nâng cao năng lực để có thể giải quyết 
công việc tại địa phương được nhiều hơn. Thứ 
ba, việc sử dụng các số liệu chung ở cấp tỉnh và 
huyện có thể không sát thực với những xu 
hướng đang thay đổi nhanh và mạnh trong kinh 
tế - xã hội ở cấp xã. 
Bài viết này phân tích những vấn đề đối với 
NSX trong phân cấp quản lý NSNN. Nội dung 
phân tích tập trung vào một số thay đổi kinh tế 
- xã hội nông thôn dẫn đến biến động khoản thu 
và nhiệm vụ chi của NSX. Bằng chứng cho 
những nội dung thảo luận của bài viết được thu 
thập từ một xã nằm ở trung tâm của vùng đồng 
bằng sông Hồng. 
2. ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Xã Hoàng Diệu ở phía đông nam huyện 
Gia Lộc, cách thị trấn Gia Lộc khoảng 4km và 
cách thành phố Hải Dương khoảng 10km về 
phía nam. Năm 2013, Hoàng Diệu có tổng diện 
tích đất tự nhiên 753,29ha, trong đó đất nông 
nghiệp chiếm 62,27%. Bình quân diện tích đất 
tự nhiên trên đầu người là 925,19m2. Dân số 
của xã là 8.142 người, phân bố không đồng đều 
ở 9 thôn, tập trung vào ba cụm dân cư, tốc độ 
tăng dân số là 0,82%. Kinh tế nông thôn xã 
Hoàng Diệu đang có chuyển biến theo hướng 
giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp và 
tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công 
nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ. Ngành 
Nguyễn Hữu Khánh 
815 
nông, lâm, thủy sản đạt giá trị sản xuất gần 47 
tỷ đồng và chỉ chiếm 33,1% tổng giá trị sản 
xuất trên địa bàn xã. 
Xã Hoàng Diệu được chọn làm địa điểm cho 
nghiên cứu này vì ba đặc điểm nổi bật. Thứ 
nhất, vị trí xã ở trung tâm đồng bằng sông 
Hồng, nơi đang diễn ra sự thay đổi nhanh trong 
cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang 
công nghiệp và dịch vụ. Thứ hai, hoạt động kinh 
tế trên địa bàn xã khá đa dạng. Ngoài ngành 
nông nghiệp và thủy sản như nhiều vùng nông 
thôn khác, bốn thôn Trúc Lâm, Văn Lâm, Phong 
Lâm và Nghĩa Hy của xã là những thôn có nghề 
truyền thống giày da nổi tiếng hơn 500 năm. 
Hiện nay, toàn xã có gần 600 hộ với hơn 1.000 
lao động làm nghề giày da mang lại thu nhập 
tương đối cao. Trên địa bàn xã, còn có các công 
ty nằm trong cụm công nghiệp Hoàng Diệu, nơi 
thu hút nhiều lao động trên địa bàn xã và các xã 
lân cận làm việc. Thứ ba, xu hướng chuyển dịch 
cơ cấu và đặc điểm văn hóa xã hội nông thôn có 
nhiều nét tương đồng với những xã lân cận và 
nhiều vùng nông thôn của đồng bằng sông 
Hồng. Ba đặc điểm này cho thấy Hoàng Diệu là 
“môi trường xã hội thực nghiệm” phù hợp cho 
việc phân tích NSX trong bối cảnh chuyển dịch 
của cơ cấu kinh tế nông thôn. 
Để phục vụ cho việc nghiên cứu NSX Hoàng 
Diệu, chúng tôi đã tiến hành thu thập các số 
liệu về tình hình cơ bản trên địa bàn nghiên 
cứu, số liệu thống kê phản ánh kết quả sản xuất 
kinh doanh, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 
của xã, báo cáo tình hình thu, chi NSX theo các 
kỳ họp HĐND giai đoạn từ 2008 đến 2013. 
Chúng tôi cũng đã sử dụng phương pháp phỏng 
vấn sâu trực tiếp cán bộ xã, thôn để bổ sung và 
kiểm chứng các thông tin thu thập được. Với 
mục đích hiểu được mối quan hệ của người dân 
với ngân sách, chúng tôi đã thiết kế bảng hỏi 
tập trung vào mối quan hệ của người dân và 
ngân sách bao gồm: hiểu biết, tham gia đóng 
góp, lợi ích nhận được và đánh giá của người 
dân về quản lý sử dụng NSX. Chúng tôi đã chọn 
phỏng vấn trực tiếp 80 chủ hộ. Trong đó, 60 chủ 
hộ là người dân được chọn ngẫu nhiên, 20 chủ 
hộ còn lại là cán bộ xã, thôn hoặc Đảng viên, với 
giả định có sự khác biệt về hiểu biết NSX trong 
hai nhóm chủ hộ. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Khái quát thực hiện thu, chi ngân sách xã 
NSX Hoàng Diệu biến động rất lớn trong 
thời kỳ nghiên cứu, được thể hiện qua bảng 1. 
Số liệu thể hiện bảng này cho thấy tổng thu, chi 
ngân sách của xã cao nhất năm 2012, đạt trên 
10 tỷ đồng, nhưng năm thấp nhất 2009 chỉ đạt 
dưới 1,38 tỷ đồng. Nguyên nhân này kéo theo 
chi ngân sách bình quân cho một người dân 
cũng biến động mạnh, cao nhất với 1,24 triệu 
đồng và thấp nhất chỉ 0,18 triệu đồng. Điều này 
minh chứng cho việc có thể có một lượng rất ít 
hàng hóa và dịch vụ công được cung cấp trên địa 
bàn xã vào những năm khó khăn như 2009. 
Đối với các khoản thu, thu bổ sung từ ngân 
sách cấp trên tăng lên liên tục, từ dưới 1 tỷ đồng 
năm 2008 lên gần 5 tỷ đồng năm 2013. Nguyên 
nhân của việc tăng lên liên tục này là do Nhà 
nước thay đổi mức lương tối thiểu và chi tiêu 
cho các chương trình mục tiêu quốc gia. Tuy 
nhiên, khoản thu xã được hưởng toàn bộ và thu 
phân chia theo tỷ lệ biến động bất thường, cao 
nhất trong năm 2012 và thấp nhất năm 2009. 
Lý do chính của biến động bất thường xuất phát 
từ những thay đổi của nguồn thu cấp quyền sử 
dụng đất. Về khía cạnh chi, chi đầu tư phát 
triển cũng biến động lớn, cao nhất năm 2012 với 
trên 6 tỷ đồng và thấp nhất năm 2009 chỉ có 35 
triệu đồng. Chi thường xuyên tăng dần từ 
khoảng 1,4 tỷ năm 2008 lên gần 4 tỷ năm 2013 
là do tăng mức lương tối thiểu và các khoản chi 
sự nghiệp. So sánh số liệu dự toán do HĐND xã 
lập và số thực hiện ở bảng 1 cho thấy, trong 
khoản thu, chỉ có ít khoản thu cấp xã có thể lên 
dự toán gần đúng với thực hiện như: thu bổ 
sung từ ngân sách cấp trên, thuế môn bài và 
thuế đất phi nông nghiệp. Trái ngược với khoản 
thu, phần lớn các khoản chi xã đều dự toán cao 
hơn so với thực hiện. 
Phần còn lại của nội dung thảo luận dưới 
đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích một số khía 
cạnh nổi bật của NSX Hoàng Diệu bao gồm: 
những vấn đề của nguồn thu, nhiệm vụ chi và 
mối quan hệ của người dân với NSX. 
Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương 
816 
Bảng 1. Tình hình thực hiện thu, chi ngân sách xã (ĐVT: triệu đồng) 
 2008 2009 2010 2011 2012 2013 
A. Tổng thu 4.916,0 1.372,9 7.101,4 6.608,6 10.002,7 7.569,6 
1. Khoản thu xã hưởng toàn bộ 493,5 197,5 674,0 453,3 1.492,0 830,5 
2. Khoản thu phân chia theo tỷ lệ 966,3 91,8 3.076,9 3.138,0 3.667,5 160,6 
3. Bổ sung từ ngân sách cấp trên 997,9 970,5 1.253,4 1.822,7 4.574,9 4.913,9 
4. Thu ngoài dự toán 2.458,3 113,0 2.097,1 1.194,6 268,2 1.664,5 
B. Tổng chi 4.925,1 1.385,9 7.101,4 6.337,4 10.002,7 7.569,6 
1. Chi đầu tư phát triển 1.030,8 35,0 3.300,1 3.172,2 6.352,2 1.960,0 
2. Chi thường xuyên 1.426,8 1.237,9 1.704,2 1.970,6 3.382,3 3.945,1 
3. Chi ngoài dự toán 2.467,5 113,0 2.097,1 1.194,6 268,2 1.664,5 
Dân số của xã (người) 7.577 7.659 7.741 7.901 8.076 8.142 
Chi ngân sách/người 0,650 0,181 0,917 0,802 1,239 0,930 
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo ngân sách của UBND xã Hoàng Diệu 
3.2. Nguồn thu trong dự toán 
Phân tích nguồn thu trong dự toán trên địa 
bàn cho thấy thu ít và phụ thuộc rất lớn vào 
nguồn thu từ các giao dịch liên quan đến đất 
đai. Trong các khoản thu xã hưởng toàn bộ, nếu 
không tính đến những khoản thu không ổn 
định, chỉ có hai khoản chính là phí, lệ phí và thu 
từ đất công ích. Thu từ đất công ích biến động 
mạnh là do diện tích đất công ích thay đổi và giá 
lúa được dùng để thu trên phần lớn đất công ích 
giao động theo mùa vụ tại thời điểm thu. Tuy 
nhiên, thu từ đất công ích chỉ chiếm chưa đến 
3% tổng thu trong dự toán của NSX trong 
những năm gần đây (Bảng 2). 
Thu cấp quyền sử dụng đất là nguồn thu 
đáng kể nhất trong khoản thu phân chia theo tỷ 
lệ, chiếm tới 55,4% tổng thu ngân sách trong dự 
toán năm 2011. Những năm không có thu cấp 
quyền sử dụng đất như năm 2013, phần lớn 
ngân sách phụ thuộc vào thu bổ sung ngân sách 
cấp trên, với 83,2% tổng thu trong dự toán. Điều 
này cho thấy chính quyền xã thiếu chủ động 
trong quản lý ngân sách vì phải phụ thuộc phần 
lớn vào nguồn thu liên quan đến đất đai và bổ 
sung từ ngân sách cấp trên. 
Bảng 2. Thực hiện thu trong dự toán của ngân sách xã 
2008 2011 2013 
(triệu đồng) (%) (triệu đồng) (%) (triệu đồng) (%) 
Tổng thu trong dự toán 2.458 100,0 5.414 100,0 5.905 100,0 
1. Khoản xã hưởng toàn bộ 493 20,1 453 8,4 831 14,1 
- Phí, lệ phí 7 0,3 8 0,1 11 0,2 
- Thu từ quỹ đất công ích 299 12,2 95 1,8 155 2,6 
2. Khoản thu phân chia theo tỷ lệ 966 39,3 3.138 58,0 161 2,7 
- Thuế môn bài 15 0,6 19 0,4 32 0,5 
- Thuế đất phi nông nghiệp 42 1,7 66 1,2 88 1,5 
- Lệ phí trước bạ nhà đất 22 0,9 30 0,6 41 0,7 
- Thu cấp quyền sử dụng đất 831 33,8 3.000 55,4 0 0,0 
3. Bổ sung từ ngân sách cấp trên 998 40,6 1.823 33,7 4.914 83,2 
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo ngân sách của UBND xã Hoàng Diệu 
Nguyễn Hữu Khánh 
817 
Mặc dù ngành nghề giày da truyền thống 
đang phát triển, nhưng thu cho NSX từ hoạt 
động sản xuất này nhỏ, chủ yếu thông qua hình 
thức thu thuế môn bài. Khoản thu này cao nhất 
năm 2013 với 32 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 
không đáng kể trong tổng thu dự toán. Nguyên 
nhân chính của việc thu được ít thuế từ hoạt 
động phi nông nghiệp là do sản xuất phần lớn 
vẫn ở quy mô hộ gia đình, không qua đăng ký 
kinh doanh. Cán bộ thuế khó có thông tin chi 
tiết về sản xuất và thu nhập của những hộ này 
3.3. Chi đầu tư phát triển 
Chi đầu tư phát triển và thu cấp quyền sử 
dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói 
cách khác, cơ sở hạ tầng được đầu tư trên địa 
bàn xã phụ thuộc rất lớn từ thu đấu giá quyền 
sử dụng đất. Mối quan hệ này được thể hiện 
trên hình 1. Nếu không kể đến một số cơ sở hạ 
tầng được cấp trên tài trợ trong năm 2012 và 
2013, chi đầu tư phát triển và thu cấp quyền sử 
dụng đất gần như tương đương nhau. Năm 
2009, nguồn thu này hoàn toàn không có và chi 
cho đầu tư phát triển cũng không đáng kể. 
Nguồn thu cấp quyền sử dụng đất có hai 
đặc điểm nổi bật: (1) đây là khoản thu một lần 
ngay khi giao quyền sử dụng đất; và (2) nó phụ 
thuộc rất lớn vào thị trường bất động sản. Tranh 
luận về khía cạnh này, các nhà kinh tế cho rằng 
phụ thuộc vào nguồn này quá lớn trong thời 
gian dài có thể mắc chứng “bệnh Hà Lan”2 (Vũ 
Sỹ Cường, 2013). Tuy nhiên, chính quyền cấp xã 
hiện nay không có nhiều sự lựa chọn vì thu khác 
ngoài đất đai trên địa bàn rất nhỏ, không đáp 
ứng nhu cầu chi đã phân tích ở trên. Hơn nữa, 
việc thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng theo 
Chương trình Nông thôn mới cần một lượng vốn 
đối ứng lớn từ xã do nguồn cấp trên sẽ chỉ đầu 
tư theo một tỷ lệ nhất định đã được cam kết. 
Điều này cho thấy trong ngắn hạn thu từ cấp 
quyền sử dụng đất vẫn là khoản mục quan 
trọng trong thu NSX của Hoàng Diệu. 
2Hình 1. Chi đầu tư phát triển và thu cấp quyền sử dụng đất 
2 Bệnh Hà Lan (Dutch Disease) đề cập đến nguy cơ kinh tế xảy ra khi phụ thuộc vào khai thác tài nguyên làm suy 
giảm các khu vực sản xuất khác. 
Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương 
818 
3.4. Chi thường xuyên 
Phần lớn chi thường xuyên của NSX được 
dùng cho chi tiền lương, phụ cấp và các khoản 
bảo hiểm của bộ máy hành chính xã. NSX phục 
vụ cho chi thường xuyên được phân bổ từ ngân 
sách cấp trên, với định mức gồm hai khoản 
chính: (1) chi quản lý hành chính Nhà nước, 
Đảng, đoàn thể, an ninh quốc phòng là 48 triệu 
đồng/người/năm và (2) chi sự nghiệp là 10 nghìn 
đồng/người dân/năm3. Chi sự nghiệp theo quy 
định bao gồm chi sự nghiệp kinh tế, giáo dục, y 
tế, văn hóa thông tin, truyền thanh, thể dục thể 
thao và chi sự nghiệp khác. 
Tình hình thực hiện chi thường xuyên và 
chi tiền lương, phụ cấp, các khoản bảo hiểm cho 
bộ máy hành chính xã được thể hiện trên hình 
2. Trước năm 2012, khoảng cách giữa hai khoản 
chi này là rất nhỏ, có nghĩa là chính quyền cấp 
xã không còn nhiều ngân sách chi cho các hoạt 
động sự nghiệp sau khi đã ưu tiên trả lương, 
phụ cấp và các khoản bảo hiểm cho cán bộ. Kinh 
phí cho hoạt động hạn hẹp bị ảnh hưởng bởi việc 
cố định hai khoản phân bổ ở trên trong thời kỳ 
ổn định ngân sách 2011-2015, trong khi giá cả 
các vật liệu và dịch vụ tăng trong kỳ. 
3.5. Sự quan tâm của người dân đối với 
ngân sách xã 
Kết quả điều tra cho thấy hiện nay người 
dân ít quan tâm đến NSX. Bảng 3 chứng minh 
người dân ít quan tâm đối với NSX. Theo kết 
quả này, có đến 70% số người dân có thể không 
biết và không quan tâm đến NSX, trong khi số 
cán bộ địa phương là 20%. Khi được hỏi về ý 
kiến cá nhân đối với chi ngân sách, 58,3% người 
dân trả lời họ không quan tâm chi ngân sách có 
hiệu quả hay không. Kết quả tương tự khi hỏi 
mức độ tin tưởng ngân sách đã được chi hợp lý, 
có đến 46,7% trả lời họ không rõ ngân sách đã 
được chi hợp lý hay chưa và 28,3% không quan 
tâm về sự hợp lý trong chi tiêu ngân sách. Điều 
này là trở ngại lớn cho NSX vì khi người dân 
không quan tâm, việc huy động đóng góp của 
người dân cho NSX có thể rất khó khăn hoặc 
không thực hiện được. 
3Hình 2. Chi tiền lương, phụ cấp và các khoản bảo hiểm trong chi thường xuyên 
3 Chương III, Điều 1 và Điều 2 trong Quyết định số 33/2010/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hải Dương. 
Nguyễn Hữu Khánh 
819 
Bảng 3. Sự quan tâm của người dân và cán bộ đối với ngân sách xã 
Số chủ hộ được phỏng vấn 
Người dân Cán bộ 
60 20 
A. Biết về ngân sách xã (%) 
Biết về ngân sách xã 30,0 80,0 
Hoàn toàn không biết 43,3 20,0 
Không quan tâm 26,7 0,0 
B. Đánh giá chi ngân sách (%) 
Hiệu quả 20,0 75,0 
Tương đối hiệu quả 20,0 10,0 
Không hiệu quả 1,7 0,0 
Không quan tâm 58,3 15,0 
C. Hợp lý trong chi ngân sách (%) 
Hợp lý 21,7 65,0 
Không hợp lý 3,3 0,0 
Không biết 46,7 35,0 
Không quan tâm 28,3 0,0 
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2014 
3.6. Đóng góp của người dân vào ngân sách xã 
Kết quả phân tích kinh tế hộ cho thấy một 
số khoản đóng góp trực tiếp từ hộ gia đình vào 
NSX không phù hợp. Trong những khoản này, 
có hai khoản không phù hợp với tình hình thực 
tiễn kinh tế địa phương. Thuế đất phi nông 
nghiệp (thực chất là thuế đất thổ cư và đất vườn 
nông thôn) tương đối thấp so với thu nhập hay 
chi tiêu của hộ. Năm 2013, bình quân mỗi hộ 
đóng 72 nghìn đồng, trong khi đó mức thu nhập 
là 95,5 triệu đồng/hộ và chi tiêu là 59,3 triệu 
đồng/hộ (Bảng 4). Hiện nay mức thuế được tính 
dựa vào Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 
năm 2010 (áp dụng từ năm 2012), thông tư 
hướng dẫn thu của Bộ Tài chính4 và giá đất 
được UBND tỉnh Hải Dương xây dựng5. Điều 
chỉnh mức thuế suất hợp lý cho loại thuế này có 
thể tăng thu ngân sách. 
Phí sử dụng đất công ích6 là đất canh tác 
trên đồng ruộng không còn phù hợp do hai tác 
4 Thông tư số 153/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính. 
5 Quyết định 25/2012/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hải 
Dương. 
6 Xã có ba loại đất công ích (công điền) chủ yếu: (1) 
đất mặt nước nuôi trồng thủy sản kết hợp hoặc không 
động. Một mặt, thu nhập từ trồng trọt trên loại 
đất này thấp vì đất công ích thường không 
thuận tiện canh tác, đây là phần đất còn lại sau 
khi giao đất lâu dài cho hộ theo Luật Đất đai 
1993. Mặt khác, xu hướng bỏ ruộng hoang đang 
gia tăng trong nông thôn. Trên địa bàn xã, có 
khoảng 4ha đất giao lâu dài cho hộ đang tạm 
thời bị bỏ hoang vào thời điểm điều tra, chủ yếu 
tại những thôn làm nghề giày da. Mức thuế đất 
phi nông nghiệp và phí sử dụng đất công ích 
được kiểm chứng qua ý kiến của người dân 
(Bảng 4). Khi được hỏi ý kiến cá nhân về thuế 
đất phi nông nghiệp, có 80% số người cho rằng 
mức thuế này là chấp nhận được và 12% trả lời 
mức thuế này là thấp. Ngược lại, tất cả những 
hộ đang sử dụng đất công ích cho rằng mức phí 
được áp dụng là cao. 
kết hợp trồng lúa; (2) đất phi nông nghiệp cho các hộ 
thuê kinh doanh dịch vụ; và (3) đất công ích trên đồng 
ruộng được thôn cho các hộ có nhân khẩu sinh sau năm 
1993 sử dụng. Toàn xã có khoảng 26ha loại đất thứ ba, 
được giao thầu cho các hộ gia đình với mức phí trung 
bình 25kg thóc/sào (360m2)/vụ. Loại đất thứ ba là đối 
tượng thảo luận trong bài viết này. 
Ngân sách xã trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương 
820 
Bảng 4. Một số khoản phải nộp, ý kiến về mức đóng, thu nhập và chi tiêu của hộ 
Số quan sát Giá trị trung bình 
Đánh giá của người dân (%) 
Cao Trung bình Thấp 
A. Một số khoản nộp* (nghìn đồng) 
- Thuế đất phi nông nghiệp/năm 75 72 8,0 80,0 12,0 
- Thuế môn bài/năm 23 637 78,3 26,1 0,0 
- Phí đất công ích/năm 13 1.723 100,0 0,0 0,0 
- Phí, lệ phí/năm 8 63 0,0 100,0 0,0 
- Thuế khoán** /năm 15 1.133 100,0 0,0 0,0 
- Phí trước bạ nhà đất/giao dịch 7 184 42,9 57,1 0,0 
- Phí cấp quyền sử dụng đất/giao dịch 6 232.333 50,0 50,0 0,0 
B. Thu nhập và chi tiêu (triệu đồng/năm) 
- Tổng thu nhập của hộ 80 95,6 - - - 
- Tổng chi tiêu của hộ 52 59,3 - - - 
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2014 
Ghi chú: * Tính bình quân cho hộ có giao dịch; ** Thuế áp dụng cho hộ sản xuất kinh doanh ngành nghề phi nông nghiệp có 
quy mô tương đối lớn. 
4. KẾT LUẬN 
Phân cấp quản lý NSNN tới cấp xã đã góp 
phần đưa cung - cầu hàng hóa và dịch vụ công 
xích lại gần nhau hơn. Thực tiễn, nghiên cứu 
trường hợp NSX Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, 
tỉnh Hải Dương cho thấy NSX biến động mạnh 
trong thời kỳ nghiên cứu do cả những yếu tố 
kinh tế - xã hội tại địa phương và những thay 
đổi trong chính sách của Đảng và Nhà nước. 
Nhìn chung, thu trên địa bàn xã chưa đáp ứng 
được nhiệm vụ chi và xu hướng phụ thuộc vào 
nguồn bổ sung từ ngân sách cấp trên ngày càng 
tăng. Bên cạnh đó, thu NSX phụ thuộc nhiều 
vào các giao dịch liên quan đến đất đai. Mặc dù, 
xã có làng nghề phát triển, nhưng thu từ hoạt 
động phi nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ. Chi 
đầu tư phát triển phụ thuộc chủ yếu vào thu cấp 
quyền sử dụng đất. Chi cho trả lương, phụ cấp 
và các khoản bảo hiểm của bộ máy hành chính 
xã chiếm phần lớn trong chi thường xuyên. 
Đa số người dân không biết hoặc không 
quan tâm đến NSX. Để đạt được mục tiêu hiệu 
quả và công bằng trong phân cấp quản lý ngân 
sách ở cấp xã, cần thiết phải có những biện pháp 
tăng cường hiểu biết của người dân về NSX. 
Trong các khoản thu từ hộ gia đình, thuế đất 
phi nông nghiệp và phí sử dụng đất công ích 
không phù hợp với thực tiễn. Thuế đất phi nông 
nghiệp tương đối thấp so với thu nhập hoặc chi 
tiêu của hộ. Thu từ đất công ích trên đồng ruộng 
không còn thích hợp. Chúng tôi kiến nghị nên 
thay đổi mức thu thuế đất phi nông nghiệp và 
điều chỉnh phí sử dụng đất công ích là đất canh 
tác trên đồng ruộng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Martinez-Vazquez, J. (2004). Making fiscal 
decentralization work in Vietnam. Available at 
epp/wp/ispwp0513.pdf 
Nguyễn Thị Hải Hà (2013). Nhận diện một số bất cập 
trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Tạp 
chí Tài chính, 5(583): 17-20. 
Oates, W. E. (1972). Fiscal federalism. New York: 
Harcourt Brace Jovanovich. 
Rao, M. G. (2000). Fiscal Decentralization in Vietnam: 
Emerging Issues. Hitotsubashi Journal of 
Economics, 41(2): 163-177. 
Shah, A. (2004). Fiscal Decentralization in Developing 
and Transition Economies: Progress, Problems, 
and the Promise: The World Bank. 
Stigler, G. J. (1957). The Tenable Range of Functions 
of Local Government Federal Expenditure Policy 
for Economic Growth and Stability, Washington 
DC, pp. 213-219. 
Vũ Sỹ Cường (2013). Thực trạng và một số gợi ý chính 
sách về phân cấp ngân sách tại Việt Nam. Tạp chí 
Tài chính, 5(583): 5-8. 

File đính kèm:

  • pdfngan_sach_xa_trong_phan_cap_quan_ly_ngan_sach_nha_nuoc_nghie.pdf