Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị
Phát triển bền vững với tăng trưởng xanh đang trở thành xu hướng phát
triển chung của các quốc gia trên thế giới. Du lịch xanh là một khía cạnh
quan trọng của du lịch bền vững, tập trung vào việc bảo tồn các khu vực tài
nguyên, đất đai và động vật hoang dã. Hệ thống ngân hàng với vai trò cung
ứng vốn cho nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện tăng
trưởng xanh, góp phần bảo vệ môi trường, qua đó phát triển du lịch xanh.
Nghiên cứu phân tích khái niệm ngân hàng xanh, vai trò của ngân hàng
xanh với các chủ thể kinh tế, trong đó trọng tâm vào phân tích thực trạng
hoạt động của ngân hàng xanh hiện nay, một số khó khăn khi triển khai tín
dụng xanh của ngân hàng và đề xuất khuyến nghị để phát triển hoạt động
ngân hàng xanh trong thời gian tới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị
74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 211- Tháng 12. 2019 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị Nguyễn Vân Hà Học viện Ngân hàng Đỗ Ngọc Hà Trung tâm Thông tin Tín dụng Quốc gia Việt Nam Ngày nhận: 23/11/2019 Ngày nhận bản sửa: 11/12/2019 Ngày duyệt đăng: 20/12/2019 Phát triển bền vững với tăng trưởng xanh đang trở thành xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Du lịch xanh là một khía cạnh quan trọng của du lịch bền vững, tập trung vào việc bảo tồn các khu vực tài nguyên, đất đai và động vật hoang dã. Hệ thống ngân hàng với vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện tăng trưởng xanh, góp phần bảo vệ môi trường, qua đó phát triển du lịch xanh. Nghiên cứu phân tích khái niệm ngân hàng xanh, vai trò của ngân hàng xanh với các chủ thể kinh tế, trong đó trọng tâm vào phân tích thực trạng hoạt động của ngân hàng xanh hiện nay, một số khó khăn khi triển khai tín dụng xanh của ngân hàng và đề xuất khuyến nghị để phát triển hoạt động ngân hàng xanh trong thời gian tới. Từ khóa: ngân hàng xanh, tín dụng xanh, du lịch xanh. Sustainable Bank with Green Tourism in Vietnam: Situation and recommendations Abstract: Sustainable development is becoming a development trend all over the world. Green tourism is an important aspect of sustainable tourism, focusing on the conservation of natural resources, land and wildlife. Banking system plays a key role in providing capital to economy, implementing green growth, and contributing to environmental protection by Green credit. Research analyze concept of sustainable bank, the role of sustainable bank with economic entities. Morever, author focuses on analyzing bank operations affecting green tourism and difficulties when deploying green credit and proposing recommendations for sustainable bank Keywords: sustainable bank, green credit, green tourism Ha Van Nguyen, PhD. Email: hanv@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam Ha Ngoc Do, Bachelor Email: dongocha301284@gmail.com National Credit Information Center of Vietnam 1. Mở đầu Du lịch xanh là loại hình du lịch hướng tới bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, khắc phục hậu quả do biến đổi khí hậu; sử dụng năng lượng tái tạo và phát huy các di sản thiên nhiên, văn hóa, các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đối với ngành NGUYỄN VÂN HÀ - ĐỖ NGỌC HÀ Số 211- Tháng 12. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75 du lịch, các dự án phát triển du lịch xanh thường cần một lượng vốn lớn đầu tư dài hạn do phải đầu tư về cơ sở hạ tầng với thời gian hoàn vốn các dự án dài nên rất cần đến sự hỗ trợ về nguồn vốn từ các ngân hàng. Hoạt động ngân hàng xanh thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, cung cấp vốn cho các tổ chức, cá nhân; tham gia vào quá trình đánh giá và quản lý rủi ro các dự án đầu tư, trong đó gồm cả các rủi ro môi trường. Thứ hai, bản thân hoạt động của các ngân hàng cũng tác động trực tiếp tới môi trường, thông qua việc ứng dụng công nghệ để phi chứng từ hóa các phương tiện thanh toán, áp dụng ngân hàng điện tử, từ đó góp phần làm sạch môi trường, hỗ trợ du lịch phát triển. Để đánh giá thực trạng hoạt động của ngân hàng xanh, bài viết sẽ trình bày thực trạng, khó khăn của hoạt động ngân hàng xanh hiện nay và một số khuyến nghị để thúc đẩy hoạt động này. 2. Khái quát về ngân hàng xanh 2.1. Khái niệm ngân hàng xanh Có 2 cách hiểu phổ biến về ngân hàng xanh. Thứ nhất, hiểu theo nghĩa rộng, “Ngân hàng xanh chính là Ngân hàng bền vững” (Imeson M., & Sim A., 2010), trong đó nghiên cứu chỉ ra rằng một ngân hàng để phát triển bền vững thì các quyết định đầu tư cần nhìn vào bức tranh tổng thể và hành động một cách có lợi cho người tiêu dùng, kinh tế, xã hội và môi trường. Cách hiểu thứ hai, theo nghĩa hẹp, “Ngân hàng xanh” chỉ các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải cacbon (Trần Thị Thanh Tú & Trần Thị Hoàng Yến, 2016). Theo An Hà (2019), ngân hàng xanh có hai nhóm hoạt động chính là hoạt động tín dụng xanh và hoạt động nội bộ ngân hàng xanh. Tín dụng xanh là việc các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất “xanh”- bao gồm các hoạt động tiêu dùng, đầu tư, sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Hoạt động nội bộ xanh là các hoạt động vận hành bên trong ngân hàng, liên quan đến việc mở rộng mạng lưới, tự động hóa các công việc và những hoạt động hàng ngày khác. 2.2. Vai trò của ngân hàng xanh với du lịch xanh Hệ thống tài chính ngân hàng, với vai trò cung ứng vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế, có thể đáp ứng được một lượng vốn lớn đầu tư về dài hạn cho ngành du lịch xanh, tạo ra những tác động gián tiếp đến môi trường giúp cho ngành du lịch xanh, định hướng dòng vốn tín dụng của ngân hàng đầu tư vào các dự án xanh, thân thiện môi trường, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông hiện đại như dự án sân bay, cầu đường; dự án về thu gom xử lý rác thải, nạo vét sông ngòi, quy hoạch các khu sinh thái Khi ngân hàng tăng cường quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cho vay sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng sạch hơn. Như vậy, hoạt động ngân hàng xanh sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể trong nền kinh tế về các vấn đề môi trường, xã hội, thúc đẩy họ thực hiện các hoạt động kinh doanh thân thiện môi trường, hỗ trợ cộng đồng. Gìn giữ, bảo vệ môi trường sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch. Một lợi ích khác không thể phủ nhận của ngân hàng xanh đối với khách hàng chính là việc được hưởng các Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 211- Tháng 12. 201976 mức lãi suất ưu đãi trong thời gian được tài trợ vốn sẽ giúp các dự án xanh có cơ hội tiếp cận vốn với chi phí rẻ hơn, từ đó góp phần cho du lịch xanh phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng thực hiện xanh hóa tổ chức, thúc đẩy thanh toán điện tử, hướng tới xã hội không tiền mặt là xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này sẽ tạo ra tác động kép: Vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa hỗ trợ thực hiện chiến lược tài chính toàn diện thông qua phổ cập dịch vụ ngân hàng- tài chính. Trong đó, du lịch sẽ là một trong những lĩnh vực được hưởng lợi nhiều nhất. Với người tiêu dùng, trong đó có khách du lịch, thanh toán điện tử đem lại các tiện ích vượt trội, như tiết kiệm thời gian, chi phí và độ an toàn cao hơn dùng tiền mặt. Ngân hàng có các chính sách về môi trường và xã hội, xây dựng quy trình thẩm định tác động đến môi trường và xã hội, như vậy nhân viên tín dụng sẽ đánh giá phân loại rủi ro môi trường xã hội phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà ngân hàng dự định tài trợ để đưa ra quyết định cấp tín dụng, qua đó sẽ định hướng và quản lý được hoạt động của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp cẩn trọng hơn trong việc sản xuất có tác động đến môi trường hay không; duy trì, bảo tồn không làm ảnh hưởng đến thiên nhiên góp phần nâng cao chất lượng môi trường như vậy cũng giúp cho ngành du lịch phát triển. Ngành Ngân hàng cũng là một trong những ngành gây ra tác động xấu đến môi trường. Sự phát triển ồ ạt hệ thống đòi hỏi xây dựng thêm nhiều cơ sở vật chất, hệ thống máy móc nhiều hơn (máy điều hòa) làm gia tăng lượng các bon thải ra không khí, hệ thống văn bản giấy tờ nhiều hơn cũng tác động xấu đến môi trường, gây ra ảnh hưởng đến môi trường nói chung và ngành du lịch cũng chịu ảnh hưởng. Nếu ngân hàng đổi mới thực hiện xanh hóa nội bộ, xây dựng những trụ sở thân thiện với môi trường, tăng cường các hoạt động trực tuyến giảm tải giấy tờ, phát triển các loại thẻ, sử dụng hệ thống ATM dùng năng lượng mặt trời góp phần làm sạch môi trường như vậy cũng góp phần nâng cao chất lượng môi trường, thúc đẩy du lịch phát triển. Một ngân hàng địa phương có tính xanh sẽ là nguồn hỗ trợ lớn cho các sáng kiến xanh tại địa phương về xã hội, giáo dục, nhà ở, tạo ra lợi ích trực tiếp cho cộng đồng ở chính địa phương đó. Hỗ trợ cho du lịch phát triển theo hướng phát triển kinh tế địa phương giữ được nền văn hóa địa phương (Trần Thị Thanh Tú & Trần Thị Hoàng Yến, 2016). 3. Thực trạng hoạt động của ngân hàng xanh hỗ trợ phát triển du lịch xanh 3.1. Các chính sách hỗ trợ du lịch xanh Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về môi trường như biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong vòng hai thập kỷ tới không chỉ là tăng trưởng nhanh như các giai đoạn trước đây mà phải là tăng trưởng xanh và bền vững, hướng tới phát triển kinh tế xanh. Bản thân ngành Ngân hàng đang dần thực hiện kế hoạch giúp hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh để hỗ trợ cho xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê NGUYỄN VÂN HÀ - ĐỖ NGỌC HÀ Số 211- Tháng 12. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 77 duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch hành động thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh của ngành Ngân hàng. Năm 2014, Quyết định số 403/ QĐ-TTg được Thủ tướng ban hành phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014- 2020. NHNN được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực hoạt động tài chính- tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) phục vụ tăng trưởng xanh”. Với vai trò cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN những năm qua đã có những bước khởi đầu trong việc xây dựng chính sách triển khai ngân hàng xanh. Năm 2015, NHNN ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường- xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, cho thấy NHNN đang thúc đẩy tỷ trọng tín dụng xanh trong hệ thống ngân hàng. Cùng với đó, NHNN đã ra Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 06/8/2015 ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. NHNN cũng đã hợp tác với Tổ chức Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation- IFC) xây dựng bộ hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường và xã hội cho các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đặc biệt, NHNN đã ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam (Đề án 1064) nhằm tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng đối với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; phấn đấu đến năm 2025, 100% ngân hàng xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; 100% các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường cho các dự án được ngân hàng cấp vốn vay; kết hợp đánh giá rủi ro môi trường như một phần trong đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng; ít nhất 10-12 ngân hàng có đơn vị/ bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội; 60% ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn xanh và triển khai cho vay các dự án tín dụng xanh. 3.2. Sự tham gia của các ngân hàng để hỗ trợ du lịch xanh Ngay sau khi có Chỉ thị từ Thủ tướng Chính phủ và NHNN được đưa ra, các ngân hàng lập tức “vào cuộc” triển khai. Các NHTM đã xây dựng quy trình thẩm định rủi ro môi trường và xã hội trong các quy định nội bộ, đồng thời lồng ghép hoạt động về tín dụng xanh trong chiến lược phát triển của mình. Ngoài ra, một số NHTM chủ động tham gia các dự án có vốn tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế về bảo vệ môi trường. Sự tham gia của các ngân hàng xanh đứng trên giác độ hỗ trợ du lịch xanh thể hiện trên các khía cạnh sau: Thứ nhất, phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh thân thiện môi trường, giúp phát Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 211- Tháng 12. 201978 triển du lịch xanh, như dịch vụ trực tuyến: Trả hóa đơn trực tuyến, nộp tiền vào tài khoản, chuyển khoản trực tuyến, sao kê giao dịch ngân hàng và tiết kiệm trực tuyến. Đây là loại hình ngân hàng giúp cắt giảm được lượng giấy, năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong quá trình sử dụng. Các hóa đơn như điện thoại, truyền hình cáp, dịch vụ, thẻ tín dụng đều có thể thực hiện từ xa thông qua kết nối Internet từ máy vi tính hoặc điện thoại thông minh. Sử dụng các tài khoản kiểm tra xanh: Khách hàng có thể kiểm tra tài khoản của mình trên máy ATM hoặc thông qua màn hình chuyên dụng đặt tại ngân hàng. Đây chính là các tài khoản kiểm tra xanh, thân thiện với môi trường mà ngân hàng có thể cung cấp, khuyến khích khách hàng sử dụng bằng cách đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn hoặc miễn (giảm) phí sử dụng. Theo Nguyễn Minh Loan (2019), hiện có 65 NHTM cung ứng dịch vụ internet banking, 35 ngân hàng cung ứng dịch vụ mobile banking và nhiều tổ chức trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán điện tử, đem lại nhiều tiện ích cho khách du lịch, tiết kiệm thời gian, chi phí và độ an toàn cao hơn dùng tiền mặt. Tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 34/QĐ-NHNN ngày 07/01/2019 đã đặt mục tiêu đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS. Đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở dưới 10%, đến cuối năm 2025 con số này giảm xuống còn 8%. Chính vì vậy, các ngân hàng cần phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo cơ sở nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho mọi người dân và tổ chức Đặc biệt, xu hướng “ngân hàng không giấy” sẽ trở nên phổ biến, dẫn đến giảm dần vai trò của các chi nhánh ngân hàng. Với CMCN 4.0, chi nhánh ngân hàng không phải là kênh phân phối mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong tương lai. Nằm trong xu hướng ngân hàng 4.0, ứng dụng mCard do Sacombank phát hành có thể xem như là một dạng ví thẻ tạo ra những trải nghiệm mới mẻ về sự tiện ích, hiện đại và an toàn bảo mật trong giao dịch thanh toán, giúp người dùng tiết kiệm thời gian và góp phần giảm thiểu những thủ tục giấy tờ truyền thống. Thứ hai, thực hiện nội bộ xanh giúp cải thiện môi trường, hỗ trợ phát triển du lịch xanh, bằng cách các ngân hàng bắt đầu triển khai xây dựng trụ sở xanh, giúp nâng cao nhận thức của khách hàng về hoạt động ngân hàng xanh. Như ngân hàng Vietcombank, nỗ lực trở thành biểu tượng về “một ngân hàn ... tỷ đồng, chiếm 77%, cho vay ngắn hạn 54.000 tỷ đồng. Theo kết quả khảo sát của NHNN đối với các TCTD về lĩnh vực tăng trưởng xanh, tín dụng xanh thực hiện vào tháng 3/2019 cho thấy, sự hiểu biết của các TCTD về tín dụng xanh đã được cải thiện đáng kể. Cụ thể, đã có 19 TCTD đã xây dựng chiến lược quản lý rủi ro môi trường và xã hội; 13 TCTD tích hợp nội dung quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong quy trình thẩm định tín dụng xanh; 10 TCTD đã xây dựng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho các ngành/ lĩnh vực xanh và đã quan tâm dành nguồn vốn huy động của ngân hàng để cấp tín dụng cho các lĩnh vực này với kỳ hạn chủ yếu là trung, dài hạn và có sự ưu đãi về lãi suất cho các dự án xanh Thống kê của NHNN cũng cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế trong triển khai tín dụng xanh tại các NHTM, hiện mới có 24% dự án xanh được các ngân hàng xây dựng quy trình thẩm định tín dụng, trong đó chủ yếu được thực hiện tại hội sở chính và chi nhánh của một số ngân hàng như BIDV, VietinBank, Vietcombank, Agribank, SHB, Viet A Bank, OCB, HSBC Mặc dù ngành Ngân hàng đã có những bước đi cụ thể để góp phần tăng trưởng xanh, hỗ trợ du lịch xanh phát triển nhưng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn như: Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, các dự án đầu tư xây Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 211- Tháng 12. 201982 dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển du lịch xanh tại Việt Nam hiện nay thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay. Trong khi nguồn vốn huy động của các TCTD thường là ngắn hạn, huy động theo chi phí vốn thương mại trên thị trường. Thêm vào đó, hiện chưa có quy định, định nghĩa, tiêu chuẩn về các danh mục các ngành/ lĩnh vực xanh để có thể áp dụng chung, thống nhất cho cả hệ thống dẫn tới việc thiếu cơ sở để các TCTD căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Doanh nghiệp thì không dễ dàng để chứng minh yếu tố xanh trong dự án, còn ngân hàng thì chuyên viên đủ trình độ để thẩm định các dự án xanh còn hạn chế. Mặt khác tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo làm công tác quản lý cũng là trở lực khá lớn, xuất phát từ quan niệm cho rằng hoạt động ngân hàng nhằm thu lợi nhuận tối đa, trong khi những lợi ích đầu tư cho môi trường chưa được nhận thức đầy đủ, mang tính dài hạn, đòi hỏi lãnh đạo ngân hàng phải có tầm nhìn chiến lược. Bên cạnh đó, khung pháp lý hỗ trợ thực hiện tín dụng xanh, ngân hàng xanh còn thiếu và chưa đồng bộ, các cơ quan liên quan như NHNN, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch... còn thiếu gắn kết khi làm việc với các tổ chức quốc tế. Đồng thời khi triển khai tín dụng xanh, các ngân hàng của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các ngân hàng trong khu vực, mà trong đó rất nhiều ngân hàng đã đi theo các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội quốc tế từ trước. 4. Một số kiến nghị để ngành Ngân hàng hỗ trợ du lịch xanh phát triển 4.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước NHNN cần tiếp tục thực thi các chính sách tín dụng nhằm thúc đẩy hoạt động của ngành Ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh; xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hướng dẫn thực hiện tín dụng xanh cho các TCTD, trong đó đưa ra các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, danh mục các ngành, lĩnh vực xanh để áp dụng chung, thống nhất, tạo cơ sở để các TCTD lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện Sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường- xã hội cho 11 ngành kinh tế chưa có hướng dẫn trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD. Như vậy các TCTD mới có đầy đủ cơ sở để lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Để hướng tới xã hội không dùng tiền mặt, hiện NHNN cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, trong đó tập trung vào ngân hàng số, thanh toán số. 4.2. Đối với các ngân hàng thương mại NHTM cần thực hiện chuyển đổi hoạt động sang sử dụng nền tảng công nghệ hiện đại. Áp dụng công nghệ trong việc quản lý dữ liệu thông tin giúp hạn chế nguồn nhân lực và đầu tư cơ sở hạ tầng. Việc khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ NH điện tử giúp loại bỏ lãng phí giấy, tiết kiệm nhiên liệu, giảm chi phí in ấn, giảm phát thải carbon. Triển khai xây dựng trụ sở xanh giúp nâng cao nhận thức của khách hàng về hoạt động NH xanh, bên cạnh đó, giúp nâng cao hình ảnh thương hiệu của NH, tăng lợi thế cạnh tranh. Hướng tới cung cấp thẻ tín dụng NGUYỄN VÂN HÀ - ĐỖ NGỌC HÀ Số 211- Tháng 12. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 83 xanh là loại thẻ có thể tự phân hủy sau một số năm trong một số môi trường nhất định và có thể tiêu hủy công nghiệp và tái chế. Thực hiện xây dựng các kênh thanh toán xanh, khách hàng có thể trực tiếp đi đến quầy ATM, sử dụng thẻ nộp tiền để gửi tiền và rút tiền cùng một lúc mà khách hàng không cần phải điền vào các phiếu rút tiền và tiền gửi. Cung cấp các sản phẩm tài chính ưu đãi cho các dự án, khoản vay mua nhà, xe thân thiện môi trường. Hỗ trợ về mặt lãi suất để các dự án phát triển du lịch xanh có cơ hội tiếp cận nguồn vốn và đơn giản hóa các thủ tục cho vay. Ngoài ra trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, NHTM thúc đẩy hướng tới xã hội không tiền mặt, phát triển thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động, giao dịch tài chính qua kênh Internet nhờ đó người tiêu dùng, trong đó có khách du lịch thực hiện thanh toán điện tử với các tiện ích vượt trội, như: tiết kiệm thời gian, chi phí và độ an toàn cao hơn; mua bán vé máy bay, làm thủ tục trước chuyến may, mua bán tour online, thanh toán các loại dịch vụ trực tuyến dễ dàng Tăng cường lắp đặt hệ thống ATM, POS tại các cơ sở, chuỗi phân phối, bán lẻ, khách sạn lớn, các đơn vị cung cấp dịch vụ công (công viên, khu du lịch, cơ sở y tế,) để hỗ trợ khách du lịch. Và quan trọng hơn là phải đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. Mặt khác các ngân hàng sẽ phải đầu tư cho hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội, đào tạo chuyên môn, nâng cao năng lực cho nhân viên trong lĩnh vực tín dụng xanh. Phát triển theo mô hình ngân hàng xanh và hướng đến bền vững, NHTM cần xây dựng được hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội, tích hợp rủi ro về môi trường và xã hội nhằm đánh giá, phân loại các dự án trước khi ra quyết định tín dụng. Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội, tác giả đề xuất lộ trình gồm ba giai đoạn: Giai đoạn (1), xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động nội bộ: Thực hiện các biện pháp sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên trong nội bộ ngân hàng, kết hợp rủi ro môi trường trong quản lý quan hệ khách hàng, nâng cao nhận thức về môi trường và năng lượng cho nhân viên, khởi tạo quản lý môi trường trong hoạt động của ngân hàng, lựa chọn và trang bị khóa huấn luyện cho nhân viên về vấn đề môi trường và năng lượng. Thực hiện các biện pháp truyền thông nhằm cung cấp cho nhân viên những thông tin về môi trường liên quan, tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định về môi trường. Giai đoạn (2), quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay: Lập các chi nhánh, văn phòng xanh, tiết kiệm năng lượng, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường và xã hội, đánh giá và giám sát rủi ro môi trường từ các hoạt động kinh doanh của khách hàng, lọc và loại bỏ các đề nghị vay vốn có hại cho môi trường, khuyến khích khách hàng giảm những tác động không có lợi cho môi trường trong hoạt động kinh doanh. Giai đoạn (3), ngân hàng tiến tới cung cấp các sản phẩm tài chính xanh và bền vững, có các giải pháp cụ thể hỗ trợ các khách hàng đầu tư vào cải thiện môi trường và công nghệ sạch, giám sát việc tuân thủ về vấn đề môi trường, xã hội của dự án vay vốn. Ngân hàng xanh với du lịch xanh: Thực trạng và một số khuyến nghị Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 211- Tháng 12. 201984 NHTM cần chủ động tìm hiểu những quy định của các nước phát triển về thiết kế và cung cấp các sản phẩm tài chính xanh, tiếp cận kinh nghiệm của các nước này trong việc thẩm định, đánh giá và giám sát những tác động đến môi trường và xã hội của các khách hàng vay vốn, xây dựng các tiêu chuẩn về môi trường trong xét duyệt cho vay. Các NHTM cần xác định các rào cản đối với sản phẩm tài chính xanh và sự tiếp nhận dịch vụ của khách hàng. Những rào cản này có thể bao gồm thiếu thông tin sản phẩm và nhận thức của các bên liên quan, sự không linh hoạt trong thiết kế sản phẩm, hoặc sự không chắc chắn về chi phí so với lợi nhuận. Tiến hành nghiên cứu thị trường và các phân tích liên quan đến môi trường và mong muốn của từng phân khúc khách hàng, nhằm xác định và phân loại nhu cầu về tài chính xanh của họ, từ đó có những thiết kế các sản phẩm phù hợp với từng nhóm khách hàng. Đối với những khách hàng chưa nhận thức cao về vấn đề môi trường, các NHTM cần có những biện pháp kích thích nhu cầu của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ tài chính xanh thông qua các chiến dịch tiếp thị, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức của khách hàng. Các sản phẩm ngân hàng bền vững không chỉ là cấp tín dụng, hỗ trợ vốn cho các dự án xanh, tác động tích cực đến môi trường mà nó còn mở rộng sang các sản phẩm tiết kiệm, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn về các vấn đề môi trường và xã hội, thành lập và vận hành các quỹ đầu tư xanh, huy động vốn từ trái phiếu xanh 5. Kết luận Nghiên cứu đã đưa ra khái niệm, vai trò của ngân hàng xanh đối với chủ thể: doanh nghiệp, xã hội, khách hàng và bản thân ngân hàng. Ngân hàng xanh có hai nhóm hoạt động chính là hoạt động tín dụng xanh và hoạt động nội bộ ngân hàng xanh. Tài liệu tham khảo 1. An Hà (2019), Ngân hàng tích cực xanh hóa tín dụng: https://tinnhanhchungkhoan.vn/chuyen-dong-doanh-nghiep/ ngan-hang-tich-cuc-xanh-hoa-tin-dung-301260.html 2. Đăng Gi/tinnhanhchungkhoan.vn/chuyen-dong-doanh-nghiep/ngan-hang-tich-cuc-xanh; https://baotintuc.vn/du- lich/agribank-gop-phan-phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-20170928142030488.htm 3. Imeson, M. and Sim, A (2010). Sustainable Banking: Why Helping Communities and Saving the Planet is Good for Business? SAS White Paper. Issued by SAS Institute Inc. World Headquarters. 4. Minh Tú (2018), Nam A Bank và GCPF hợp tác triển khai chương trình “ Tín dụng xanh”, nam-a-bank-va-gcpf-hop-tac-trien-khai-chuong-trinh-tin-dung-xanh-20181219230837995.htm 5. Nguyễn Minh Loan (2019), Phát triển ngân hàng xanh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: http:// tapchitaichinh.vn/ngan-hang/phat-trien-ngan-hang-xanh-trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40-309473.html 6. Phương Linh (2019). Tín dụng ngân hàng với mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh, <https://sbv.gov.vn/ webcenter/portal/m/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocN ame=SBV401058&rightWidth=0%25¢erWidth=100%25&_afrLoop=28103899880901095#%40%3F_afrLoop%3 D28103899880901095%26centerWidth%3D100%2525%26dDocName%3DSBV401058%26leftWidth%3D0%2525%2 6rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dpdlqcsypn_51 7. Trần Thị Thanh Tú & Trần Thị Hoàng Yến (2016), Đánh giá thực tiễn ngân hàng xanh ở Việt Nam theo thông lệ quốc tế, Tạp chí Ngân hàng số 16. 8. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. 9. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 403/QĐ-TTg được Thủ tướng ban hành phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014- 2020. 10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Quyết định số 1604/QĐ-NHNN về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. xem tiếp trang 73 TRẦN MẠNH HÀ - NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ - NGUYỄN THỊ THU TRANG 73Số 211- Tháng 12. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Available at: 2. Chính phủ (2018). Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 11/3/2018. 3. Farole, T. and Akinci, G. (eds.). (2011). Special Economic Zones Progress, Emerging Challenges, and Future Directions. The World Bank, Washington D.C. 4. Harvie, C. (2010). SMES and Regional Production Networks. In Integrating Small and Medium Enterprises into More Integrating East Asia. ERIA Research Report 2009 No. 8, edited by V. T. Tranh, D. Narjoko, and S. Oum. Jakarta: Economic Research Institute for ASEAN and East Asia. 5. Stone, S. and Shepherd, B. (2013). Global Production Networks and Employment: a Developing Country Perspective. OECD Trade Policy Paper No. 154 TAD/TC/WP(2012)29/FINAL, 18-4- 2013. OECD, Paris. 6. Scott, Linda (2017). Private Sector Engagement with Women’s Economic Empowerment: Lessons learned from years of practice, Saïd Business School, University of Oxford, 2017. 7. McKinsey, Delivering through Diversity, (2018). Available at: https://www.mckinsey.com/~/media/McKinsey/ Business%20Functions/Organization/Our%20Insights/Delivering%20through%20diversity/Delivering-through- diversity_full-report.ashx (accessed 24 August 2018). 8. Stone, S. and Shepherd, B. (2013). Global Production Networks and Employment: a Developing Country Perspective. OECD Trade Policy Paper No. 154 TAD/TC/WP(2012)29/FINAL, 18-4- 2013. OECD, Paris. 9. Tan Khee Giap, Eduardo Pedrosa and Sansidaran Gopanlan (2019). APEC’s post Agenda: Rising protectionism, Economic rebalancing and diversified growth”. PECC Singapore conference 10. UNIDO (2018). Global value chains and industrial development: lessons from china, south-east and south asia. United Nations Industrial Development Organization’s book. 11. Vidavong, C., V. Thipphavong, and S. Souvannaphakdy (2017). The Impact of Global Value Chain on Lao PDR’s SME Development, Lao Trade Research Digest Vol. 6, March 2017. 12. Wignaraja, G. (2012): Engaging small and medium enterprises in production networks: Firm-level analysis of five ASEAN economies, ADBI Working Paper, No.361, Asian Development Bank Institute (ADBI), Tokyo. 13. World Bank, World Development Report 2012: Gender Equality and Development, 2012. 14. Zhao Zhongxiu (2019) Global value chain and industry development, Lessons from China, South-East and South Asia. Pacific Economic Cooperation Council. Trong khuôn khổ nghiên cứu, tác giả đã phân tích thực trạng ngân hàng xanh hỗ trợ du lịch xanh tại các ngân hàng trên cả hai phương diện trên. Tuy nhiên hoạt động này vẫn tồn tại nhiều rủi ro trong các qui trình thẩm định tín dụng, từ đó tác giả đưa ra các đề xuất đối với cấp quản lý và các NHTM nhằm thúc đẩy hoạt động ngân hàng xanh trong thời gian tới ■ tiếp theo trang 84
File đính kèm:
- ngan_hang_xanh_voi_du_lich_xanh_thuc_trang_va_mot_so_khuyen.pdf