Năng suất lao động của công ty thủy nông và đề xuất cách tính định biên
Năng suất lao động (NSLĐ) là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình độ
quản lý và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp. Do đặc thù riêng nên
mỗi ngành có NSLĐ đặc trưng. Trong nền kinh tế quốc dân, ngành nông lâm thủy sản có NSLĐ
thấp nhất. NSLĐ của các công ty thủy nông chỉ đạt ở mức trung bình và dưới trung bình so với toàn
nền kinh tế quốc dân, nhưng thuộc loại cao trong nhóm ngành nông lâm thủy sản. Trong mười năm
qua do cơ chế chính sách về cấp bù thủy lợi phí mang tính bao cấp nên NSLĐ của công ty thủy
nông chỉ ở mức thấp so với khả năng. Điều này thể hiện qua phân tích số liệu năm 2014-15 của 6
công ty thủy nông thuộc dự án VIAIP-WB7. Trong bài tác giả phân tích thực trạng, xác định cơ hội
và thách thức cho việc tăng NSLĐ ở các công ty thủy nông. Tiếp đến là đề xuất cách tính định biên
cho công ty thủy nông ở 3 vùng kinh tế cho đến năm 2025.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng suất lao động của công ty thủy nông và đề xuất cách tính định biên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 67
BÀI BÁO KHOA H
C
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY THỦY NÔNG
VÀ ĐỀ XUẤT CÁCH TÍNH ĐỊNH BIÊN
Nguyễn Trung Dũng1, 2
Tóm tắt: Năng suất lao động (NSLĐ) là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình độ
quản lý và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp. Do đặc thù riêng nên
mỗi ngành có NSLĐ đặc trưng. Trong nền kinh tế quốc dân, ngành nông lâm thủy sản có NSLĐ
thấp nhất. NSLĐ của các công ty thủy nông chỉ đạt ở mức trung bình và dưới trung bình so với toàn
nền kinh tế quốc dân, nhưng thuộc loại cao trong nhóm ngành nông lâm thủy sản. Trong mười năm
qua do cơ chế chính sách về cấp bù thủy lợi phí mang tính bao cấp nên NSLĐ của công ty thủy
nông chỉ ở mức thấp so với khả năng. Điều này thể hiện qua phân tích số liệu năm 2014-15 của 6
công ty thủy nông thuộc dự án VIAIP-WB7. Trong bài tác giả phân tích thực trạng, xác định cơ hội
và thách thức cho việc tăng NSLĐ ở các công ty thủy nông. Tiếp đến là đề xuất cách tính định biên
cho công ty thủy nông ở 3 vùng kinh tế cho đến năm 2025.
Từ khoá: Năng suất lao động, định biên lao động, công ty thủy nông, công ty QLKT CTTL.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng
nhất, thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của
một tổ chức, một đơn vị sản xuất hay của một
phương thức sản xuất. NSLĐ được quyết định
bởi nhiều nhân tố như mức độ thành thạo của
người lao động, trình độ phát triển khoa học và
công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản
xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu
sản xuất, các điều kiện tự nhiên. NSLĐ xã hội là
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đo tính hiệu quả sử dụng
lao động của nền kinh tế. Theo Báo cáo năng
suất Việt Nam 2015: "NSLĐ của Việt Nam còn
ở mức thấp so với các nước trong khu vực đang
là yếu tố cản trở đáng ngại đối với khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế,
đặc biệt khi tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC). Nếu không có những nỗ
lực đặc biệt trong nâng cao năng suất trong
thập kỷ này và thập kỷ tới, Việt Nam sẽ gặp rất
nhiều khó khăn cả về kinh tế và xã hội". Tăng
1
Khoa Kinh tế và Quản lý, Trường Đại học Thủy Lợi.
2 Đội tư vấn PIC thuộc dự án VIAIP-WB7 (Cải thiện nông
nghiệp có tưới của WB7).
NSLĐ là tăng thêm số lượng hay giá trị sản
phẩm làm ra từ một đơn vị lao động hao phí
hoặc giảm bớt số đơn vị lao động hao phí để
làm ra một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản
phẩm. Chỉ có tăng năng suất thì mới tăng được
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, có điều
kiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và
tăng cường hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn 2006-2011 Việt Nam có
NSLĐ khá thấp (Hình 1), theo báo cáo của
VNPI (2015): với mức 3.660 USD/người thì
NSLĐ của Việt Nam chỉ xấp xỉ bằng 5% của
Singapore, 20% của Malaysia, 35% của Thái
Lan, 50% của Philippines và Indonesia. Nếu so
sánh trong nền kinh tế quốc dân thì NSLĐ trong
các ngành nông lâm nghiệp và thủy sản có mức
thấp nhất so với công nghiệp & xây dựng và
dịch vụ (Hình 2).
Theo Hoàng Văn Thắng (2015) ngành thủy
lợi cả nước hiện có 96 tổ chức quản lý khai thác
công trình thủy lợi (QLKT CTTL) là doanh
nghiệp trực thuộc cấp tỉnh (gọi ngắn là công ty
thủy nông), 3 doanh nghiệp trực thuộc Bộ NN-
PTNT. Về quản lý các CTTL nhỏ và hệ thống
kênh mương nội đồng, cả nước có 16.238 tổ
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 68
chức dùng nước, bao gồm các loại hình Hợp tác
xã, Tổ chức hợp tác và Ban quản lý thủy nông.
Công tác quản lý khai thác CTTL đang từng
bước đi vào nền nếp, phục vụ tốt sản xuất, dân
sinh; tại một số địa phương đã chủ động đổi mới
mô hình tổ chức và cơ chế quản lý nhằm nâng
cao hiệu quả của các CTTL ... Bên cạnh những
thành tích cơ bản này theo Phi Hùng (2015) và
Kim Văn (2016): "Nhiều doanh nghiệp QLKT
CTTL hoạt động theo phương thức giao kế
hoạch, dẫn đến vừa thiếu công cụ giám sát cho
cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, vừa
hạn chế quyền hoạt động tự chủ của doanh
nghiệp. Do vậy, chất lượng quản trị của doanh
nghiệp yếu kém, bộ máy cồng kềnh, năng suất
lao động thấp, số lượng cán bộ, công nhân có
xu hướng ngày càng tăng; hệ thống công trình
thủy lợi xuống cấp nhanh, chất lượng cung cấp
dịch vụ thấp". Xuất phát từ thực tế này, tác
giả muốn phân tích thực trạng về NSLĐ trong
ngành thủy lợi được minh họa bằng các số liệu
của 6 công ty thủy nông thuộc dự án VIAIP-
WB7 (dự án WB7 về cải thiện nông nghiệp có
tưới). Từ đó đưa ra cơ hội và thách thức trong
tăng NSLĐ cũng như đề xuất tính định biên tạm
thời cho các công ty thủy nông.
Hình 1. Năng suất lao động và tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015
Hình 2. Năng suất lao động ở các khu vực kinh tế 2011-2015 tính theo giá thực tế
2. NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở MỘT SỐ
CÔNG TY THỦY NÔNG - THỰC TRẠNG,
YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC
2.1. Phân tích thực trạng
Về lý thuyết NSLĐ được tính theo công sau:
(1)
Trong đó:
W: Năng suất lao động
Q: Sản lượng làm ra trong thời gian T (lượng
sản phẩm hay giá trị sản xuất, doanh thu, lợi
nhuận)
T: Lượng lao động hao phí để hoàn thành sản
lượng Q (người hay ngày công, giờ công)
t: Hao phí lao động để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm (đặc biệt trong thủy lợi thì sản phẩm,
dịch vụ công ích thủy lợi rất đa dạng, có thể là
khối lượng nước hoặc diện tích tưới, tiêu).
Dựa vào số liệu hai năm 2014 và 2015 của 6
công ty thủy nông thuộc dự án VIAIP-WB7 để
tính toán ba chỉ tiêu cơ bản về NSLĐ tính trên
đầu nhân viên của công ty là: diện tích tưới ba
vụ DT3V, lượng cấp bù TLP và tổng thu nhập
của công ty từ ba nguồn chính TTN: cấp bù thủy
lợi phí, hỗ trợ của tỉnh và doanh thu do cung cấp
dịch vụ khác (cấp nước cho dân sinh và công
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 69
nghiệp, thủy điện, thủy sản, du lịch, ...). Cần lưu
ý là chỉ tiêu DT3V là chỉ tiêu khó tính nhất vì
diện tích tưới phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
thời tiết, loại cây trồng và chất lượng nước tưới.
Ở đây lấy diện tích tưới thực tế của năm 2014
và 2015 mà phần lớn tưới cho lúa, so với kế
hoạch đầu năm thì không thay đổi lớn. Điều đó
có nghĩa là hai năm đó thuộc vào năm trung
bình. Từ kết quả tính toán ở Bảng 1 và Hình 3
có mấy nhận xét sau:
Công ty Phú Thọ có NSLĐ thấp nhất (thấp
hơn NS trung bình toàn quốc) do có 488 hệ
thống thủy lợi nhỏ lẻ (gồm 64 hồ chứa, 304 đập
dâng và 120 trạm bơm) nằm rải rác ở vùng
trung du với địa hình bị chia cắt phức tạp và ở
nhiều cao độ khác nhau.
1) Công ty Hòa Bình có NSLĐ cao hơn
công ty Phú Thọ, ở mức trung bình.
2) Công ty Hà Tĩnh có TTN là 167,85 tr. đ/NV,
cao nhất trong 6 công ty vì ngoài cấp bù TLP còn
có thêm nguồn thu bổ sung đáng kể từ tỉnh và thu
do cấp nước công nghiệp và dân sinh (chiếm 30%
của TTN).
3) Công ty Quảng Trị cao hơn công ty Nam
Sông Mã (Thanh Hóa), đặc biệt có TTN khá cao
(133,70 tr. đồng/NV) vì có nguồn thu khác và từ
tỉnh chiếm đến 25% của TTN.
4) Công ty Quảng Nam có ít HTTL, đặc
biệt có hồ chứa Phú Ninh với dung tích lớn nên
DT3V là cao nhất (140,13 ha/NV). Tuy dựa
hoàn toàn vào nguồn cấp bù TLP nhưng TTN và
TLP tương đối cao trong nhóm so sánh (124 tr.
đồng/NV). Điều này cho thấy sản xuất và kinh
doanh của công ty khá tốt.
Hình 3. Năng suất lao động ở 6 công ty thủy
nông năm 2014 (riêng Công ty thủy nông Hòa
Bình với số liệu của 2015)
Bảng 1. Số liệu cơ bản của công ty thủy nông và các loại năng suất lao động
Công ty
thủy nông
Cơ sở hạ tầng cơ bản của công ty Năng suất lao động tính theo các loại
Số hồ
chứa
Số
đập/bai
Số trạm
bơm
Kênh
(km)
DT3V
(ha/NV)
TTN
(tr. đ/NV)
TLP
(tr. đ/NV)
Phú Thọ 64 304 120 847 51.47 85.61 65.20
Hòa Bình 123 760 74 1029 74.79 87.55 86.70
Thanh Hóa 1 2 61 172 98.90 111.24 97.35
Hà Tĩnh 28 6 0 469 121.20 167.85 118.67
Quảng Trị 14 2 19 1021 95.12 133.70 101.44
Quảng Nam 17 28 25 804 140.13 124.21 124.21
Trong phân tích tiếp theo là tính hệ số tương
quan giữa ba chỉ tiêu năng suất và cơ cấu chính
của hệ thống thủy lợi là số hồ chứa, đập/bai,
trạm bơm và chiều dài kênh mương. Kết quả
tính toán ở Bảng 2 cho thấy NSLĐ bị ảnh hưởng
quan trọng bởi biến "số trạm bơm"
(với hệ số tương quan Pearson Correlation giao
động từ -0,851 đến -0,921, kiểm định giả thiết
nhỏ hơn 0,01 với ** và nhỏ hơn 0,05 với *). Ở
mức quan hệ thấp hơn là "số đập/bai" và "số hồ
chứa". Điều này có nghĩa, nếu số lượng trạm
bơm tăng thì NSLĐ các loại giảm, điển hình là
công ty thủy nông Phú Thọ. Hình 4 thể hiện mối
quan hệ này. Công thức thực nghiệm (2) là hồi
quy tuyến tính đơn biến giữa DT và "số trạm
bơm" Tbom và công thức (3) cho hồi quy tuyến
tính đa biến giữa DT và "số hồ chứa" Hchua,
"số đập bai" Dap và Tbom.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 70
(2)
(3)
Bảng 2. Phân tích tương quan giữa năng suất và cơ cấu chính của hệ thống thủy lợi
Chỉ tiêu NS Số hồ chứa Số đập/bai Số trạm bơm Kênh (km)
DT3V
(ha/NV)
Pearson Correlation -.589 -.604 -.851* -.312
Sig. (2-tailed) .218 .204 .032 .548
TTN
(tr. đ/NV)
Pearson Correlation -.596 -.694 -.911* -.326
Sig. (2-tailed) .212 .126 .011 .528
TLP
(tr. đ/NV)
Pearson Correlation -.540 -.567 -.921** -.254
Sig. (2-tailed) .269 .240 .009 .627
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Bảng 3. Tổng hợp hệ số của hồi quy tuyến tính giữa năng suất và số trạm bơm
Mô
hình
Unstandardized
coefficients Std. coefficients t Sig.
B Std. Error Beta
DT3V (Constant) 127.450 12.119 10.516 .000
TBom -.612 .189 -.851 -3.234 .032
TTN (Constant) 150.302 9.274 16.207 .000
TBom -.641 .145 -.911 -4.424 .011
TLP (Constant) 121.413 6.116 19.850 .000
TBom -.451 .096 -.921
Bảng 4. Tổng hợp hệ số của hồi quy tuyến tính đa biến giữa năng suất và số hồ chứa,
đập dâng và trạm bơm
Mô
hình
Unstandardized Coefficients Std. coefficients
t Sig. B Std. Error Beta
1 (Constant) 136.214 26.5075 5.1387 0.035
Hồ chứa
(Hchua) -0.545 1.282254 -0.781 -0.424 0.712
Đập bai (Dap) 0.064 0.198247 0.6213 0.3244 0.776
Trạm bơm
(Tbom) -0.575 0.312178 -0.798 -1.842 0.206
a Biến phụ thuộc: Năng suất diện tích
2.2. Yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng và
giảm NSLĐ, cơ hội và thách thức tăng NSLĐ
ở công ty thủy nông trong giai đoạn 2018-
2025
Trong phỏng vấn sâu với các cán bộ chủ chốt
của một số công ty thủy nông (trong có cả công
ty thủy nông nằm ngoài dự án VIAIP-WB7) thì
các yếu tố làm tăng hoặc giảm NSLĐ ở công ty
thủy nông có thể được xếp theo thứ tự như sau:
(a) Thể chế trong quản lý khai thác công trình
thủy lợi thông qua Luật thủy lợi, các nghị định
và thông tư; (b) Chính sách về thủy lợi phí được
chuyển thành giá dịch vụ thủy lợi từ năm 2018;
(c) Chính sách miễn giảm và cấp bù thủy lợi phí
đối với nông nghiệp và các ngành cần ưu tiên;
(d) Điều kiện tự nhiên và đặc điểm của hệ thống
thủy lợi; (e) Kết quả chuyển giao công trình và
hệ thống công trình cho các tổ chức thủy nông
cơ sở WUO/WUA; (f) Kết quả của thuê mướn
bên ngoài (Outsourcing); (g) Tình trạng kỹ thuật
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 71
của trang thiết bị của hệ thống thủy lợi và việc
áp dụng khoa học công nghệ; (h) Trình độ tay
nghề của người lao động; (i) Động cơ và áp lực
của nội bộ công ty về thúc đẩy tăng NSLĐ và
cải thiện thu nhập của người lao động.
2.3. Cơ hội và thách thức tăng NSLĐ
Cơ hội: Có mấy cơ hội lớn cho việc tăng
NSLĐ trong ngành. Trước mắt theo tác giả là
các cơ sở pháp lý phải hướng tới việc "cởi trói"
cho các công ty thủy nông, cụ thể: (1) Quyết
định 784/QĐ-BNN-TCTL ngày 21.04.2014 ban
hành Đề án nâng cao hiệu quả quản lý khai thác
công trình thủy lợi hiện có; (2) Chủ chương lớn
của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp công ích và (3) Luật Thủy lợi
2017 sẽ tạo điều kiện pháp lý cho việc phát triển
thị trường nước và công ty thủy nông sẽ dần
được độc lập tự chủ hơn trong sản xuất và đặc
biệt được phép "kinh doanh" các dịch vụ cấp
nước với giá mà dựa vào việc bù đắp chi phí
theo nguyên tắc đúng, đủ và hợp lý ("người gây
ô nhiễm trả").
Hình 4. Đồ thị NSLĐ hiện tại (quan hệ giữa
DT3V và số lượng trạm bơm) và vai trò của
Tổng cục Thủy lợi trong gây áp lực tăng NSLĐ
Tiếp đến là các yếu tố khoa học và công nghệ
ví dụ như lắp đặt các hệ thống quan trắc tự động
SCADA, tin học hóa toàn bộ quá trình quản lý
kỹ thuật và kinh tế của công ty thủy nông, từng
bước hiện đại hóa HTTL, .
Thách thức: Trong 10 năm qua kể từ khi tiến
hành cấp bù TLP theo NĐ 115/2008/NĐ-CP thì
công ty thủy nông đã hoạt động theo cơ chế
"xin-cho" và "bao cấp", đã ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty vốn đã có
nề nếp từ lâu. Thách thức lớn hiện nay là giải
quyết những hậu quả tồn tại trong những năm
qua do cơ chế để lại, cụ thể: (1) Số CBNV tăng
lên, cơ cấu nghề nghiệp không tương xứng (vì
coi công ty thủy nông là "bầu sữa hưởng ngân
sách" nên đã tuyển dụng thông qua "quan hệ" và
"gửi gắm" quá nhiều người không được đào tạo
trong lĩnh vực thủy lợi; (2) Không dành đủ vốn
cho bảo dưỡng sửa chữa theo định kỳ các hệ
thống công trình nên công trình xuống cấp (thực
trạng là ở các công ty thủy nông do dành 50-
70% TTN cho chi trả lương nên chỉ còn tỷ lệ
không tương xứng cho bảo dưỡng sửa chữa hệ
thống công trình); (3) Người dân không có trách
nhiệm trong hỗ trợ tu sửa kênh mương, ... vì nhà
nước cấp bù TLP; (4) Việc chuyển giao quản lý
tưới cho cấp cơ sở còn thực hiện một cách hành
chính của Thông tư số 65/2009/TT-BNNPTNT
dẫn đến nhiều điều bất hợp lý; (5) Đầu tư trang
thiết bị sản xuất không tương xứng với giai
đoạn phát triển mới; (6) Còn nhiều vướng mắc
trong việc chuyển giao những công việc thuần
túy, chuyên môn hóa cao cho các doanh nghiệp
ngoài có chi phí thấp hơn theo hình thức
outsourcing. Ngoài ra các công ty thủy nông còn
phải đối mặt với tình hình tài nguyên nước ngày
càng cạn kiệt và biến đổi khí hậu diễn ra gay gắt
hơn cũng như chuyển đổi lớn trong ngành nông
nghiệp (như tăng trưởng tối thiểu trong trồng
trọt, chăn nuôi, thủy sản; tăng giá trị xuất khẩu;
tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp), công
nghiệp và du lịch.
3. ĐỀ XUẤT TÍNH ĐỊNH BIÊN CHO
CÔNG TY THỦY NÔNG
Việc định biên nhân sự được tuân theo một
số nguyên tắc: (1) Các nguyên tắc về tỷ lệ tương
quan (tỷ lệ tăng/giảm so với năm trước tương
ứng với tương quan tăng/giảm của mức doanh
thu; Tương quan giữa nhóm vị trí công tác trực
tiếp (kinh doanh, sản xuất) với gián tiếp; Tương
quan giữa ngân sách cho các nhóm quản lý và
nhân viên, gián tiếp và trực tiếp); (2) Các
nguyên tắc về định mức lao động; (3) Các
nguyên tắc về tần suất và thời lượng thực hiện
nhiệm vụ. Ví dụ vị trí sản xuất thì dựa vào các
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 72
thông số đầu vào như sản lượng, định mức lao
động của mỗi vị trí, các vị trí trong ca và số ca
trong sản xuất.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Thông
tư số 06/2005/TT-BLĐTBXH ngày 05.01.2005
hướng dẫn phương pháp xây dựng định mức lao
động trong công ty nhà nước theo Nghị định số
206/2004/NĐ-CP ngày 14.12.2004 của Chính
phủ, cụ thể là:
Ldb = Lch + Lpv + Lbs + Lql (4)
Trong đó: Ldb - lao động định biên của công ty
(đơn vị tính người); Lch - lao động chính định
biên; Lpv - lao động phụ trợ, phục vụ định biên;
Lbs - lao động bổ sung định biên để thực hiện chế
độ ngày, giờ nghỉ theo quy định của pháp luật lao
động đối với lao động chính và lao động phụ trợ,
phục vụ; Lql - lao động quản lý định biên. Các loại
lao động được tính trên cơ sở định mức lao động
của từng ngành và từng đơn vị.
Trong ngành thủy lợi, Thông tư số
65/2009/TT-BNNPTNT ngày 12.10.2009 hướng
dẫn tổ chức hoạt động và phân cấp QLKT
CTTL, cụ thể trong Điều 9 về nguồn kinh phí
hoạt động của các tổ chức QLKT CTTL có quy
định ở khoản 4: "Trên cơ sở định mức lao động
và đơn giá tiền lương được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, các DN QLKT CTTL được chủ động
trong việc bố trí lao động và phương thức chi trả
lương. Khuyến khích các DN QLKT CTTL
giảm định biên lao động để nâng cao thu nhập
cho cán bộ, công nhân viên; các tổ chức, cá
nhân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí, tiết kiệm
nước, tiết kiệm vật tư, nhiên liệu, năng lượng
nhằm nâng cao hiệu quả khai thác công trình
thủy lợi". Trong Quyết định số 2891/QĐ-BNN-
TL ngày 12.10.2009 hướng dẫn xây dựng định
mức kinh tế kỹ thuật trong công tác quản lý,
khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Báo cáo
của VIAIP-WB7 (2015) chỉ ra: (1) Các công ty
thủy nông không thể áp dụng bộ định mức kinh
tế - kỹ thuật hiện có vì không được cập nhật
thường xuyên và không thích hợp với những
chính sách mới ban hành. Chi phí cập nhật thì
quá lớn. Công ty có thể cập nhật nhưng không
được phép; (2) Cách tính định biên lao động dựa
vào định mức lao động chi tiết (tính từ mặt
ruộng tính lên) là không thuyết phục trong hoàn
cảnh hoạt động thủy nông đang diễn ra. Chính
vì vậy trong bài này tác giả đề xuất việc tính
định biên trên cơ sở NSLĐ thực tế kết hợp với
các biện pháp tích cực nhằm tạo động cơ thúc
đẩy nâng cao NSLĐ ở các công ty.
Dựa vào kết quả tính toán ở mục 2.1 nay tác
giả đề xuất cách tính định biên dựa vào cơ sở
định mức diện tích tưới tiêu 3 vụ cho công nhân
ở công ty thủy nông như trong Bảng 5.
Bảng 5. Năng suất lao động NS3V làm cơ sở
cho tính định biên cho vùng kinh tế A, B và D
Số trạm
bơm
Nhân công phụ trách bao nhiêu hecta tưới
tiêu (ha/NV)
Hiện
tại
+
10%
+
20%
Định hướng 2018-
2025
<5 124 137 149 140 200
10 121 133 146 135 150
20 115 127 138 125 135
30 109 120 131 120 130
40 103 113 124 115 120
50 97 107 116 105 115
60 91 100 109 100 110
70 85 93 102 95 100
80 78 86 94 85 95
90 72 80 87 80 85
100 66 73 80 75 80
110 60 66 72 70 75
120 54 59 65 60 70
130 48 53 57 50 60
140 42 46 50 45 50
150 36 39 43 40 50
Do định mức hiện tại quá thấp vì nhiều
nguyên nhân như đã phân tích ở trên, nên trước
hết đề nghị phải bắt nâng lên tối thiểu 10%.
Mức nâng tối thiểu này có được đề cập trong
bản kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm 2016-
2020 của 6 công ty thuộc dự án VIAIP-WB7.
Mục tiêu cần phải đạt được đến 2025 là tăng tối
thiểu 20-25% so với mức hiện tại. Cột cuối cùng
của bảng là định hướng đạt được vào năm 2025.
Để đạt được mục tiêu đó thì phải kết hợp nhiều
biện pháp kích thích như đã nêu ở mục 2.2 và
2.3, đặc biệt Tổng cục Thủy lợi phải đóng vai
trò rất quan trọng trong việc tạo áp lực buộc các
công ty phải tăng NSLĐ.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 73
Ở Việt Nam có phân làm bảy vùng kinh tế
tiêu biểu của cả nước: (A) Trung du và miền núi
Bắc Bộ, (B) Bắc Trung Bộ, (C) Đồng bằng sông
Hồng, (D) Duyên Hải Nam Trung Bộ, (E) Tây
Nguyên, (F) Đông Nam Bộ, (G) Đồng bằng
sông Cửu Long. Trong quá trình nghiên cứu ở
mục 2.1 thì chỉ dựa vào số liệu của 6 công ty
nằm trong vùng A, B và C nên việc tính đại diện
chưa cao. Do vậy tác giả đề xuất mở rộng
nghiên cứu tương tự có quy mô lớn để bao phủ
toàn bộ bảy vùng kinh tế.
Khi chọn mục tiêu về NS3V thì lưu ý: đối
với HTTL có hồ chứa lớn phục vụ tưới tự chảy
thì nên chọn giới hạn trên; nếu có nhiều trạm
bơm nhỏ các loại thì chọn giới hạn dưới và
ngược lại. Công thức tính định biên cơ bản là:
Số người của công ty = Diện tích tưới 3 vụ:
NS3V được chọn trong biểu 5 = Số người mà
công ty thủy nông được phép + số người quản lý
(ở mức cần thiết tối thiểu) (5)
Để kiểm chứng kết quả tính toán ở trên thì
tác giả có lấy ngẫu nhiên 2 công ty thủy nông
(một nằm trong và một nằm ngoài vùng nghiên
cứu). Kết quả tính toán đã xác nhận ý kiến nêu
trên (Bảng 6). Song cần lưu ý là các công ty
thủy nông trong tương lai khi hai từ "thủy nông"
được đặt trong ngoặc kép, điều đó có nghĩa là
doanh thu do mảng công tác thủy nông truyền
thống chỉ mang lại doanh thu thấp, còn chủ yếu
là do các dịch vụ khác như cấp nước cho dân
sinh và công nghiệp, dịch vụ du lịch, tạo cảnh
quan ... thì năng suất NS3V sẽ thay đổi cơ bản
mà bài này không đề cập đến.
Bảng 6. Kiểm định kết quả tính toán ở hai công ty thủy nông khác
Công ty thủy nông Nam Ninh, tỉnh Nam Định
Thuộc vùng kinh tế C
Công ty thủy nông sông Cầu, tỉnh Bắc Giang
Thuộc vùng kinh tế A
Hệ thống thủy lợi: 784 cống đập, 194 trạm bơm tưới tiêu
kết hợp, 573 km kênh mương. Do số lượng trạm bơm lớn
nên công ty khoán cho địa phương quản lý và vận hành
trạm bơm và cống đập trên kênh cấp 2 và 3. Nay chỉ còn
quản lý 49 trạm.
Diện tích tưới tiêu 3 vụ: 37.184 ha
Tổng CBCNV: 176 người.
Năng suất lao động DT3V: (a) theo tính toán 211 ha/NV
(37184/176); (b) theo Bảng 5: hiện tại 97 ha/NV, định
hướng 105 ... 120 ha/NV.
Kết luận: Chưa thích hợp do nằm ngoài vùng nghiên cứu
và cần có nghiên cứu riêng và mở rộng
2 đập tràn và 1 hồ chứa, 22 trạm bơm, 52 km kênh chính,
294 km kênh cấp I, II tưới, tiêu.
28.000 ha
295 người
(a) theo tính toán 103 ha/NV (28000/295); (b) theo Bảng
5: hiện tại 115 ha/NV, định hướng 125 ... 135 ha/NV.
Thích hợp, nhưng hiện tại còn thấp.
4. KẾT LUẬN
Xuất phát từ tầm quan trọng của NSLĐ và
việc tính định biên cho công ty thủy nông, dựa
vào số liệu năm 2014-15 của 6 công ty thủy
nông thuộc dự án VIAIP-WB7 tác giả đã phân
tích thực trạng và nguyên nhân về NSLĐ thấp
ở các công ty thủy nông. Trên nền của kết quả
tính toán thì xây dựng hàm xu thế và đề xuất
về tăng NSLĐ trong khoảng thời gian 2018-
2025. Kết quả phân tích và tính toán được
đánh giá tốt thông qua kiểm định ở hai công ty
thủy nông khác. Nếu nằm trong vùng nghiên
cứu thì kết quả được đánh giá tốt, còn nằm
ngoài vùng nghiên cứu thì cần phải có nghiên
cứu tiếp theo để phủ vùng này. Đây có thể
được coi một phương pháp thử nghiệm và mở
hướng cho việc tính định biên bằng phương
pháp linh hoạt (phân tích thống kê NSLĐ hiện
tại kết hợp với phân tích xu thế) thay vì
phương pháp tính toán lý thuyết mang tính
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 74
hàn lâm trước đây (tính định mức lao động chi
tiết, sau đó tổng hợp chung). Kết quả nghiên
cứu giúp cho Tổng cục Thủy lợi và các cơ
quan quản lý ở cấp Trung ương và tỉnh ban
hành những chính sách vĩ mô nhằm thúc đẩy
các công ty thủy nông phải nâng cao NSLĐ,
cải thiện chất lượng công tác và từng bước
nâng cao điều kiện thu nhập của người lao
động. Ngoài ra còn giúp cho công tác đấu thầu
đặt hàng được hiệu quả hơn. Trong năm 2018
khi Luật Thủy lợi có hiệu lực thì đổi mới
phương thức quản lý đối với công ty thủy
nông theo hướng tiết kiệm, hiệu quả và đạt
NSLĐ cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VNPI (2015): Báo cáo năng suất Việt Nam 2015, Viện Năng suất Việt Nam
GSO (2016): Báo cáo“Năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp nâng cao năng
suất lao động của Việt Nam, Tổng cục thống kê (có bổ sung và cập nhật số liệu tháng 3/2016)
Hoàng Văn Thắng (2015): Thành tựu và thách thức của ngành thủy lợi, nguồn:
Kim Văn (2016): Những thách thức lớn của Ngành Thủy lợi, nguồn:
Nguyễn Trung Dũng (2015): Chính sách thủy lợi phí ở Việt Nam – Bàn luận và phân tích dưới góc
độ của kinh tế học, Tạp chí Thủy lợi và môi trường 51/12.2015.
Phi Hùng (2015): Tư nhân hóa quản lý khai thác công trình thủy lợi: Tại sao không?, báo Pháp luật
Việt Nam, nguồn:
trinh-thuy-loi-tai-sao-khong-218797.html
VIAIP-WB7 (2015): Số liệu khảo sát của các công ty quản lý khai thác công trình thủy lợi, đội tư
vấn PIC thuộc dự án VIAIP-WB7
Abstract:
LABOR PRODUCTIVITY OF IRRIGATION MANAGEMENT COMPANY AND
SUGGESTION FOR CALCULATING THE STAFF NUMBER
Labor productivity is one of the important indicators for assessing the management level and
results of production and business activities of any enterprise. Due to the specific characteristics
each sector has own typical labor productivity. In the national economy, the sector of agriculture,
forestry and fishery has lowest labor productivity. The labor productivity of irrigation management
companies (IMCs) is only medium and below the national average one, but belongs to the high level
in the agricultural sector. In the past ten years, due to the policy mechanism on the irrigation
service fee waiver (subsidizing the irrigation fees) so that the labor productivity of IMCs is staying
low, but it has a big potential for increasing labor productivity. This is illustrated by the analysis of
2014-15 data of 6 IMCs of VIAIP-WB7 projects. In this paper the the status-quo has been analysed
by author, the opportunities and challenges for increasing labor productivity of IMCs identified. As
results is the suggestion for calculation for staff number of IMCs in three economic areas until
2025.
Keywords: Labor productivity, determination of staff number, Irrigation Management Company
Ngày nhận bài: 26/2/2018
Ngày chấp nhận đăng: 23/3/2018
File đính kèm:
nang_suat_lao_dong_cua_cong_ty_thuy_nong_va_de_xuat_cach_tin.pdf

