Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học

Tư duy lý luận (TDLL) có vai trò rất quan trọng trong chỉ đạo hoạt

động thực tiễn của con người. Nếu không có TDLL thì hoạt động của con

người là mù quáng. Triết học là thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt

động nhận thức và thực tiễn của con người. Vì vậy, giáo dục triết học có ý

nghĩa quan trọng để góp phần hình thành TDLL cho con người nói chung và

cho sinh viên nói riêng. Trong những năm qua, việc giảng dạy triết học trong

các trường đại học ở nước ta tuy đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng

vẫn còn có nhiều bất cập về nội dung và phương pháp giảng dạy. Đã có nhiều

phương án đổi mới giáo dục triết học, nhưng cho đến nay vẫn chưa có phương

án thật sự hợp lý. Điều này không khó nhận ra nếu căn cứ vào suy nghĩ thật của

sinh viên khi học xong triết học. Vì vậy, đổi mới nội dung và phương pháp

giảng dạy triết học vẫn là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách để nâng cao trình

độ TDLL cho sinh viên.

pdf 8 trang kimcuc 5580
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học

Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học
Nâng cao trình độ tư duy lý luận... 
 27 
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY LÝ LUẬN CHO SINH VIÊN 
THÔNG QUA GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC 
NGUYỄN THỊ BẠCH VÂN * 
Tóm tắt: Tư duy lý luận (TDLL) có vai trò rất quan trọng trong chỉ đạo hoạt 
động thực tiễn của con người. Nếu không có TDLL thì hoạt động của con 
người là mù quáng. Triết học là thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt 
động nhận thức và thực tiễn của con người. Vì vậy, giáo dục triết học có ý 
nghĩa quan trọng để góp phần hình thành TDLL cho con người nói chung và 
cho sinh viên nói riêng. Trong những năm qua, việc giảng dạy triết học trong 
các trường đại học ở nước ta tuy đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng 
vẫn còn có nhiều bất cập về nội dung và phương pháp giảng dạy. Đã có nhiều 
phương án đổi mới giáo dục triết học, nhưng cho đến nay vẫn chưa có phương 
án thật sự hợp lý. Điều này không khó nhận ra nếu căn cứ vào suy nghĩ thật của 
sinh viên khi học xong triết học. Vì vậy, đổi mới nội dung và phương pháp 
giảng dạy triết học vẫn là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách để nâng cao trình 
độ TDLL cho sinh viên. 
Từ khóa: Tư duy lý luận; triết học Mác - Lênin; giáo dục. 
1. Mở đầu 
Giáo dục triết học (cụ thể là triết học 
Mác - Lênin) trong các trường đại học ở 
nước ta có vai trò quan trọng trong việc 
nâng cao trình độ TDLL, rèn luyện đạo 
đức và lối sống mới cho sinh viên vì 
điều đó giúp họ xác lập thế giới quan và 
nhân sinh quan đúng đắn. Tuy nhiên, 
trên thực tế, việc giảng dạy triết học cho 
sinh viên chưa đáp ứng được kỳ vọng 
đó. Điều này có nhiều nguyên nhân, 
trong đó có nguyên nhân ở chỗ nội dung 
và phương pháp giảng dạy triết học còn 
nhiều bất cập. Đổi mới nội dung và 
phương pháp giảng dạy môn học này 
vẫn đang là yêu cầu cấp bách trong lĩnh 
vực giáo dục đại học ở nước ta. Trong 
bài viết này trên cơ sở phân tích khái 
niệm TDLL, chúng tôi muốn nêu lên 
một vài suy nghĩ về việc đổi mới giáo 
dục triết học để nâng cao trình độ TDLL 
cho sinh viên.(*) 
2. Tư duy lý luận 
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy 
vật biện chứng, tư duy là một đặc điểm 
phân biệt con người và con vật vì chỉ 
con người mới có tư duy. Tư duy có hai 
loại là tư duy kinh nghiệm và tư duy lý 
luận. Nhưng TDLL là gì, khác với tư 
duy kinh nghiệm như thế nào? Vai trò 
(*) Thạc sĩ, Trường Đại học Trà Vinh. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 28 
của TDLL ra sao? Nếu không có TDLL 
thì con người có thể cải tạo được thế giới 
hay không? Những vấn đề này hiện vẫn 
chưa có sự giải đáp hoàn toàn rõ ràng. 
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy 
vật biện chứng, tư duy kinh nghiệm là 
sự hiểu biết các mối liên hệ, quan hệ 
bề ngoài của đối tượng; những tri thức 
mà tư duy kinh nghiệm đem lại không 
có lôgic nội tại, không phản ánh được 
các quy luật, các mối liên hệ tất yếu 
của khách thể nhận thức. Tư duy lý 
luận được hình thành trên cơ sở của tư 
duy kinh nghiệm; đó là sự phản ánh 
được các mối liên hệ “trong tính tất 
yếu của nó, trong những quan hệ toàn 
diện của nó, trong sự vận động mâu 
thuẫn của nó”(1). 
Về TDLL, Hồ Chí Minh viết: “Lý 
luận là sự tổng kết những kinh nghiệm 
của loài người, là tổng hợp những tri 
thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại 
trong quá trình lịch sử”(2). Tương tự như 
vậy, tác giả của Từ điển tiếng Việt viết: 
“Lý luận là hệ thống những tư tưởng 
được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, 
có tác dụng chỉ đạo thực tiễn”(3). TDLL 
có vai trò quan trọng đối với hoạt động 
nhận thức và thực tiễn của con người. 
Ph.Ăngghen cho rằng: “Một dân tộc 
muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa 
học thì không thể không có tư duy lý 
luận”(4); “Dù người ta tỏ ra khinh 
thường tư duy lý luận như thế nào đi 
nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì 
người ta không thể liên kết hai sự kiện 
trong giới tự nhiên với nhau được, hay 
không thể hiểu được mối liên hệ giữa 
hai sự liên kết đó”(5). Hồ Chí Minh cũng 
đã từng khẳng định: “Lý luận như cái 
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho 
chúng ta trong công việc thực tế. Không 
có lý luận thì lúng túng như mắt nhắm 
mà đi”(6); “Thực tiễn mà không có lý 
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù 
quáng”; “không có lý luận cũng như 
một mắt sáng một mắt mờ; người kém 
lý luận khi gặp mọi việc thì không biết 
xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử 
trí cho khéo(7). TDLL có thể phân thành 
nhiều loại khác nhau. Theo giá trị chân 
lý, TDLL được phân thành TDLL đúng 
và TDLL sai. Mỗi khoa học là một hệ 
thống tri thức lý luận (chứ không phải 
là tri thức kinh nghiệm) về bản chất và 
quy luật của một lĩnh vực nhất định của 
thế giới. Vì thế, theo đối tượng phản 
ánh, TDLL có thể được phân thành tư 
duy (TD) triết học, TD toán học, TD 
vật lý học, TD văn học, TD kinh tế học 
chính trị... 
3. Bất cập trong giảng dạy triết học 
để nâng cao trình độ tư duy lý luận 
cho sinh viên 
(1) V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t.29, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr.277. 
(2) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.8, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.497. 
(3) Hoàng Phê (chủ biên) (1995), Từ điển tiếng 
Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.544. 
(4) C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.489. 
(5) C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.508. 
(6) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.5, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.233. 
(7) Hồ Chí Minh (1987), Toàn tập, t.7, Nxb Sự 
thật, Hà Nội, tr.788. 
Nâng cao trình độ tư duy lý luận... 
 29 
Tư duy lý luận có vai trò rất quan 
trọng đối với hoạt động thực tiễn của 
con người. Vì vậy, để cải tạo thế giới, 
làm chủ tự nhiên và xã hội thì con người 
cần phải có và không ngừng nâng cao 
trình độ TDLL. Có nhiều con đường để 
con người nâng cao trình độ TDLL. Một 
trong những con đường đó là giáo dục 
triết học, bởi vì triết học là thế giới quan 
và phương pháp luận cho hoạt động 
nhận thức và thực tiễn của con người. 
Giáo dục triết học có vai trò quan trọng 
để góp phần hình thành TDLL cho con 
người nói chung và cho sinh viên nói 
riêng. Đương nhiên, triết học mà chúng 
ta cần giáo dục cho sinh viên là triết học 
đúng đắn, chứ không phải là bất kỳ triết 
học nào. Triết học đúng đắn là triết học 
duy vật biện chứng (triết học Mác - 
Lênin); đó là sự xem xét giới tự nhiên 
cũng như xã hội và tư duy con người 
một cách khoa học. Thế nhưng trong 
những năm qua, việc giảng dạy triết học 
cho sinh viên ở nước ta vẫn còn nhiều 
bất cập về nội dung và phương pháp 
giảng dạy. 
Thứ nhất là sự bất cập về nội dung. 
Nội dung chương trình khối kiến thức 
này vẫn còn nặng nề, sơ lược và chưa 
hợp lôgíc. Nội dung chưa đủ để xác lập 
một cách sâu sắc TDLL cho sinh viên. 
Nội dung chủ yếu là trình bày những 
nguyên lý chung, chưa quan tâm lý giải 
các vấn đề thực tiễn, chưa khái quát 
được những thành tựu mới của khoa học 
và chưa làm rõ giá trị và hạn chế của các 
trào lưu triết học ngoài Mácxít (nặng về 
phê phán những hạn chế mà không chỉ 
rõ những giá trị của các trào lưu triết 
học đó). Nội dung chủ yếu trình bày 
quan điểm chính thống, mà ít chú ý 
phần lịch sử triết học. Từ đó, sinh viên ít 
hiểu về những giá trị trong lịch sử triết 
học, không thấy được quá trình hình 
thành trong lịch sử các quan điểm triết 
học. Chẳng hạn, về vấn đề thế giới có 
vận động hay không, nội dung chỉ trình 
bày quan điểm cho rằng mọi sự vật đều 
vận động; không trình bày quan điểm 
của những người không thừa nhận mọi 
sự vật đều vận động, không cho biết ai 
không thừa nhận, lý lẽ của họ như thế 
nào. Vì thế cho nên sinh viên chỉ nói 
thuộc lòng như sách rằng mọi sự vật đều 
vận động, mà không hiểu người ta đã 
tranh luận về vấn đề đó như thế nào. 
Điều đó dẫn đến năng lực phê phán ở 
sinh viên bị hạn chế. Hoặc về vấn đề thế 
giới có phát triển hay không, nội dung 
chỉ trình bày quan điểm cho rằng 
khuynh hướng chung của sự vận động 
của thế giới là phát triển; nhưng không 
trình bày rõ lý do tại sao khuynh hướng 
chung của sự vận động của thế giới là 
phát triển (chứ không phải là thoái hóa, 
hoặc biến đổi quanh co, vòng tròn), 
không cho biết ai phản đối quan điểm 
này, lý lẽ phản đối của họ như thế nào. 
Việc trình bày những vấn đề như vậy rất 
quan trọng đối với sự hình thành TDLL 
của sinh viên. Khi thừa nhận một quan 
điểm nào đó thì sinh viên phải thấy được 
tính khoa học và cách lập luận thể hiện 
ở quan điểm đó, chứ không phải chỉ là 
thuộc lòng, họ cần biết được các quan 
điểm khác nhau để lựa chọn. Giảng viên 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 30 
thường chỉ dừng lại ở sự trình bày nội 
dung của những khái niệm, phạm trù, 
nguyên lý, quy luật mà chưa đi sâu 
phân tích để rút ra ý nghĩa phương pháp 
luận từ những khái niệm, phạm trù, 
nguyên lý, quy luật ấy. Vì thế, sinh viên 
nhìn chung lúng túng trong việc vận 
dụng quan điểm của triết học vào thực 
tiễn cuộc sống; rất dễ mắc phải bệnh 
giáo điều, bệnh kinh nghiệm; không 
thấy sự bổ ích của việc phải tin theo 
quan điểm này và không tin theo quan 
điểm lý luận kia. 
Thứ hai là sự bất cập về phương 
pháp giảng dạy. Phương pháp giảng 
dạy hiện nay đã giảm bớt tính chất áp 
đặt theo kiểu “giảng viên truyền đạt, 
sinh viên chỉ tiếp thu”; đã phát huy hơn 
tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. 
Tuy nhiên, tình trạng thầy đọc, trò ghi 
vẫn còn phổ biến; bài giảng còn thiếu 
sinh động; thời gian dành cho thảo luận 
còn ít; sinh viên chưa dành được nhiều 
thời gian cho việc tự nghiên cứu tài liệu 
trước ở nhà; ở trên lớp họ còn thụ động, 
ít trao đổi, ít tranh luận. Phương pháp 
dạy học của giảng viên chủ yếu là 
phương pháp thuyết trình. Phương pháp 
này tuy có thể truyền đạt được một khối 
lượng kiến thức lớn, mang tính hệ 
thống, chặt chẽ; song dễ làm cho người 
học thụ động, ít phát huy tính tích cực, 
độc lập suy nghĩ; không gây được sự 
hứng thú cho sinh viên, nhất là cho sinh 
viên không chuyên triết học. Phương 
pháp này càng bất cập hơn do nhiều 
sinh viên coi môn học này chỉ là môn 
điều kiện, từ đó họ không dành thời 
gian để nghiên cứu sâu, chỉ học qua loa. 
Một lý khác làm cho phương pháp 
thuyết trình bất cập là ở chỗ, sinh viên 
vừa tốt nghiệp phổ thông, chưa quen 
cách học tự nghiên cứu tài liệu với sự 
hướng dẫn của giảng viên, chưa có 
nhiều kinh nghiệm sống, quen học 
thuộc lòng; trong khi môn học này lại 
có nhiều khái niệm trừu tượng và phải 
học ngay từ học kỳ thứ nhất. Những bất 
cập nêu trên làm cho hiệu quả của việc 
giảng dạy triết học bị hạn chế. 
4. Đổi mới nội dung giảng dạy 
triết học 
Mỗi môn khoa học đều có một hệ 
thống vấn đề, việc trả lời những vấn đề 
cơ bản của một khoa học tạo thành nội 
dung của môn khoa học ấy. Triết học là 
một môn học và cũng có một hệ thống 
vấn đề riêng. Triết học là hệ thống tri 
thức lý luận chung nhất của con người 
về thế giới, về vị trí, và vai trò của con 
người trong thế giới ấy. Triết học là một 
hệ thống quan điểm đúng đắn, bao gồm 
cả thế giới quan và nhân sinh. Để giúp 
sinh viên lĩnh hội được các nội dung của 
triết học, thì cần đổi mới nội dung của 
môn học. Nhưng đổi mới như thế nào? 
Về vấn đề này chúng tôi xin kiến nghị 
như sau: 
Thứ nhất, cần phải xác định đúng đắn 
những vấn đề triết học, đồng thời sắp 
xếp những vấn đề ấy thành hệ thống. 
Tuy giáo trình hiện có đã hệ thống được 
các vấn đề mà triết học nghiên cứu, 
nhưng những vấn đề được đề cập quá 
ngắn gọn và chưa được sắp xếp hợp 
lôgíc; điều đó gây nên sự khó hiểu cho 
Nâng cao trình độ tư duy lý luận... 
 31 
sinh viên trong quá trình tự nghiên cứu. 
Chẳng hạn, trong phần nội dung hai 
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng 
duy vật (nguyên lý về mối liên hệ phổ 
biến và nguyên lý về sự phát triển), giáo 
trình trình bày ý nghĩa phương pháp 
luận của hai nguyên lý này sau khi đã 
trình bày nội dung của chúng. Việc sắp 
xếp như thế là không chặt chẽ. Sau khi 
trình bày nội dung của nguyên lý nào thì 
nên trình bày luôn ý nghĩa phương pháp 
luận của nguyên lý ấy; điều này giúp 
sinh viên dễ tiếp thu và vận dụng nội 
dung vừa học. Hơn nữa, ở nhiều phần 
triết học, không có sự trình bày việc liên 
hệ thực tiễn nước ta hiện nay. Đành 
rằng, việc đó là do giảng viên gợi mở 
cho sinh viên. Nhưng vì thời lượng dành 
cho môn học ở trên lớp rất hạn chế, nên 
giảng viên không thể đề cập hết được. 
Nếu sinh viên tự nghiên cứu mà giáo 
trình cũng không trình bày sự liên hệ 
thực tiễn, thì họ sẽ gặp nhiều khó khăn. 
Nhiều sinh viên coi triết học là môn học 
đại cương, nên họ không tự nghiên cứu. 
Nếu giáo trình quá cô đọng, thì sinh 
viên sẽ không hiểu được nội dung. Đối 
với nhiều giảng viên, việc dẫn ra ví dụ 
minh họa và liên hệ thực tiễn còn hạn 
chế. Nhiều giảng viên không liên hệ 
đúng trọng tâm nội dung bài giảng. Vì 
vậy, nếu thêm vào phần liên hệ thực tiễn 
này thì giáo trình tuy có dày hơn về số 
lượng trang nhưng tính thuyết phục sẽ 
cao hơn. Ở phần “nhà nước” thì hoàn 
toàn không có sự so sánh học thuyết 
Mácxít về nhà nước với các học thuyết 
khác về nhà nước, cũng không có sự 
liện hệ sâu sắc với Nhà nước ta hiện 
nay. Nội dung của giáo trình cần cắt bớt 
những vấn đề không thật cần thiết phải 
trình bày cho sinh viên không chuyên 
triết học. Trong số các vấn đề triết học 
cần trình bày có thể chia thành 2 nhóm 
là các vấn đề triết học chung (chung cho 
cả tự nhiên, xã hội và tư duy) và các vấn 
đề triết học về xã hội. Trong nhóm các 
vấn đề triết học chung nên sắp xếp chặt 
chẽ hơn. Trong vấn đề về vật chất và ý 
thức thì cần bao gồm cả các vấn đề về 
nhận thức, thực tiễn, chân lý, sai lầm, 
tiêu chuẩn của chân lý; trong vấn đề về 
vận động cần bao gồm cả các vấn đề 
như đứng im, thoái hóa, nguồn gốc, 
phương thức, khuynh hướng, động lực 
vận động, phát triển và thoái hóa. Trong 
nhóm các vấn đề triết học về xã hội nên 
có các vấn đề như con người, lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ 
tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã 
hội và ý thức xã hội, giai cấp, Nhà nước, 
dân tộc, cách mạng xã hội. 
Thứ hai, khi trình bày từng vấn đề thì 
cần phải chỉ rõ tình huống có vấn đề, tức 
là phải chỉ rõ vì sao vấn đề ấy lại được 
đặt ra, những quan điểm cơ bản đã có 
trong lịch sử đến nay về từng vấn đề 
triết học. Bởi lẽ, điều đó giúp cho người 
học có thêm năng lực phê phán các quan 
điểm sai lầm và có thêm căn cứ để tin 
tưởng vào quan điểm duy vật biện 
chứng. Cụ thể như, khi trình bày các 
quan điểm tiêu biểu về từng vấn đề triết 
học, giảng viên cần trình bày cuộc đấu 
tranh giữa các hệ quan điểm đối lập 
nhau là quan điểm duy vật và quan điểm 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 32 
duy tâm, quan điểm biện chứng và quan 
điểm siêu hình. Các quan điểm này đều 
có sự phát triển từ sâu sắc ít đến sâu sắc 
nhiều hơn. Mỗi khi quan điểm duy vật 
biện chứng có bước phát triển mới thì 
những người phản đối quan điểm ấy 
cũng tìm cách phát triển quan điểm của 
họ, tức là phát triển quan điểm duy tâm 
siêu hình. Vì thế, đối với mỗi vấn đề, 
người dạy triết học phải trình bày sự 
phát triển của cả hai hệ quan điểm triết 
học này. Tuy nhiên, trong giáo trình 
hiện có ở nước ta, quan điểm duy tâm 
siêu hình thường được trình bày như là 
những quan điểm sai lầm giản đơn, ấu 
trĩ. Thực ra, nhiều nhà triết học theo 
quan điểm duy tâm siêu hình là những 
người có kiến thức uyên bác, chứ không 
phải là những người nông cạn. Vì vậy, 
khi phê phán quan điểm duy tâm siêu 
hình thì giảng viên không nên đơn giản 
hóa quan điểm ấy. 
Quan điểm triết học của C.Mác, 
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thuộc quan 
điểm duy vật biện chứng. Tuy nhiên, 
không phải mọi vấn đề triết học đều 
được các ông đề cập đến và đều có quan 
điểm mới. Hệ thống quan điểm triết học 
của các ông đã và đang được hoàn thiện 
hơn bởi nhiều nhà triết học khác thuộc 
trường phái duy vật biện chứng. Vì vậy, 
khi giảng dạy triết học, giảng viên cần 
phải trình bày quan điểm của các nhà 
triết học khác thuộc trường phái duy vật 
biện chứng để người học thấy được sự 
phát triển của hệ quan điểm triết học 
thuộc trường phái này cho đến nay. 
Ngoài ra, khi trình bày lịch sử các cuộc 
tranh luận giữa các nhà triết học tiêu 
biểu về từng vấn đề triết học, người dạy 
cũng cần thể hiện quan điểm của mình, 
người dạy cần có sự bình luận, đánh giá 
các quan điểm được trình bày. Khi 
khuyên dạy sinh viên tin vào một điều 
nào đó thì người dạy cần phải tin vào 
điều ấy. Điều đó làm cho bài giảng tăng 
sức thuyết phục. 
5. Đổi mới phương pháp giảng dạy 
triết học 
Môn Triết học mang tính trừu tượng 
và khái quát cao. Do vậy khi giảng dạy 
môn học này, giảng viên phải kích thích 
sinh viên đặt câu hỏi, tranh luận. Trong 
mối quan hệ hữu cơ giữa giảng viên và 
sinh viên thì sinh viên giữ vị trí trung 
tâm, còn giảng viên có vai trò chủ đạo. 
Phương pháp dạy học có hiệu quả phải 
“lấy người học làm trung tâm”, chứ 
không phải “lấy người dạy làm trung 
tâm” (tức là không phải phương pháp 
giảng viên đọc còn sinh viên ghi chép). 
Người học phải tự khám phá, tự chiếm 
lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của 
giảng viên. Phương pháp giảng dạy như 
vậy mới có ảnh hưởng tích cực đến hoạt 
động học tập của sinh viên, mới tạo điều 
kiện cho tất cả sinh viên tham gia vào 
các hoạt động học tập và phát huy được 
tính chủ động, sáng tạo. Với phương 
pháp đó, thay vì chỉ học từ giảng viên, 
sinh viên có thể học từ bạn, từ tài liệu, 
sách vở, có thể rèn luyện khả năng diễn 
đạt trước đám đông. Để làm tốt điều 
này, giảng viên cần phải thiết kế nội 
dung bài giảng thích hợp với từng đối 
tượng, hoặc nhóm đối tượng cụ thể. 
Nâng cao trình độ tư duy lý luận... 
 33 
Điều này đòi hỏi giảng viên phải có 
trình độ chuyên môn và năng lực sư 
phạm, sử dụng tốt các phương pháp 
truyền đạt, tạo ra những tình huống có 
vấn đề để dẫn dắt sinh viên suy tư. Sinh 
viên học tập không phải là ghi nhớ máy 
móc. Giảng viên cần phải phát huy khả 
năng tư duy sáng tạo cho họ và tạo sự 
hứng thú, say mê, tìm tòi ở họ. 
Hiện nay, phương thức đào tạo theo 
tín chỉ đã giảm bớt sự nhồi nhét về kiến 
thức; đã khắc phục được việc học lệch, 
học tủ và phần nào khắc phục được sự 
quay cóp trong kiểm tra; đã giúp cho 
sinh viên nâng cao khả năng tự học, tự 
nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của 
giảng viên. Tuy nhiên, để phát huy hơn 
nữa mặt tích cực của phương thức đào 
tạo theo tín chỉ thì giảng viên nên sử 
dụng công nghệ thông tin vào quá trình 
dạy học. Bởi lẽ công nghệ thông tin có 
khả năng chuyển đổi thông tin, kết nối 
các cơ sở dữ liệu, đảm bảo cho sinh viên 
truy cập các thông tin cần thiết phục vụ 
tốt hơn cho nhu cầu giảng dạy và học 
tập. Bên cạnh đó, khi kết thúc bài, giảng 
viên nên đưa ra một số chủ đề để sinh 
viên nghiên cứu. Trong buổi học tiếp 
theo, sinh viên cần trình bày quan điểm 
của mình, các thành viên trong lớp bình 
luận, giảng viên đưa ra ý kiến nhận xét, 
góp ý. Làm như vậy sẽ giúp họ học 
được cách đánh giá và tiếp nhận ý kiến 
của người khác. Có thể nói, đổi mới 
phương pháp giảng dạy theo hướng đó 
là cần thiết để kích thích khả năng sáng 
tạo và góp phần nâng cao năng lực 
TDLL cho sinh viên 
6. Kết luận 
Giáo dục triết học có vai trò rất quan 
trọng trong việc nâng cao năng lực 
TDLL cho sinh viên, giúp họ hình 
thành thế giới quan, nhân sinh quan, 
phương pháp nhận thức và hoạt động 
thực tiễn đúng đắn. Triết học Mác - 
Lênin là triết học đúng đắn nhất, là nền 
tảng tư tưởng và là kim chỉ nam đúng 
đắn cho nhận thức và hành động thực 
tiễn. Tuy nhiên, hiệu quả của việc giảng 
dạy triết học chưa cao, điều đó có 
nguyên nhân ở chỗ nội dung và phương 
pháp giảng dạy triết học hiện còn nhiều 
điều chưa phù hợp. Vì vậy, các nhà 
quản lý và những người làm công tác 
giảng dạy quan tâm hơn nữa đến việc 
đổi mới nội dung và phương pháp 
giảng dạy triết học. 
Tài liệu tham khảo 
1. Dương Phú Hiệp (2008), Triết học và đổi 
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Hoàng Thúc Lân (2007), “Một số giải 
pháp chủ yếu nâng cao năng lực tư duy biện 
chứng cho sinh viên thông qua phát huy vai trò 
giảng dạy triết học Mác - Lênin”, Tạp chí Giáo 
dục, số 160. 
3. Trần Viết Quang (2006), “Vai trò của 
triết học Mác - Lênin trong việc xây dựng bồi 
dưỡng năng lực tư duy biện chứng cho sinh 
viên sư phạm”, Tạp chí Báo chí và Tuyên 
truyền, số 10. 
4. Nguyễn Ngọc Hà (2007), “Một số suy 
nghĩ về mục đích, nội dung và phương thức 
giảng dạy triết học”, Tạp chí Triết học, số 5. 
5. Trần Thành (2007), Lý luận chính trị, 
Nxb Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 34 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_trinh_do_tu_duy_ly_luan_cho_sinh_vien_thong_qua_gia.pdf