Nâng cao đạo đức nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Đạo đức nhà báo là một dạng đạo đức nghề nghiệp được xã hội đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam hiện nay, đại bộ phận nhà báo có phẩm chất tốt về đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Bài viết trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo là: đạo đức cách mạng là phẩm chất quan trọng hàng đầu của nhà báo; nhà báo phải hết lòng phục vụ nhân dân; nhà báo phải trung thực; nhà báo phải có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nhà báo ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

pdf 11 trang thom 06/01/2024 2420
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao đạo đức nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao đạo đức nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Nâng cao đạo đức nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014 
 10 
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO 
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 
HOÀNG ANH TUẤN * 
Tóm tắt: Đạo đức nhà báo là một dạng đạo đức nghề nghiệp được xã hội 
đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam hiện nay, đại bộ phận nhà báo có phẩm chất 
tốt về đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nhà báo vi phạm 
đạo đức nghề nghiệp. Bài viết trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo 
đức nhà báo. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo là: đạo 
đức cách mạng là phẩm chất quan trọng hàng đầu của nhà báo; nhà báo phải 
hết lòng phục vụ nhân dân; nhà báo phải trung thực; nhà báo phải có ý thức 
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các 
giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nhà báo ở nước ta hiện nay theo tư tưởng 
Hồ Chí Minh. 
Từ khóa: Hồ Chí Minh, đạo đức, báo chí, đạo đức báo chí, đạo đức nhà báo. 
1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về 
đạo đức nhà báo 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một 
kho tàng vô giá. Nói đến tư tưởng của 
Hồ Chí Minh trước hết là nói đến tư 
tưởng của Người về đạo đức. Trong tư 
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh có tư 
tưởng đạo đức nhà báo. Nội dung tư 
tưởng đạo đức nhà báo của Hồ Chí 
Minh mang giá trị lý luận và thực tiễn 
sâu sắc, đã và đang định hướng hoạt 
động cho các thế hệ nhà báo Việt Nam 
hiện nay. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về 
đạo đức nhà báo có thể được khái quát ở 
những nội dung cơ bản sau đây. 
Thứ nhất, đạo đức cách mạng là 
phẩm chất quan trọng hàng đầu của nhà 
báo. Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí 
Minh là phẩm chất quan trọng hàng đầu 
của các cán bộ cách mạng nói chung và 
các nhà báo cách mạng nói riêng. Người 
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới 
có nước, không có nguồn thì sông cạn. 
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây 
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, 
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy 
cũng không lãnh đạo được nhân dân”(1). 
Theo Hồ Chí Minh, nhà báo cũng phải 
là chiến sĩ cách mạng: “Để làm tròn 
nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo 
chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách 
mạng, cố gắng trau rồi tư tưởng, nghiệp 
vụ và văn hoá; chú trọng học tập chính 
(*) Thạc sĩ, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội. 
(1) Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội, t. 5, tr. 251, 252. 
Nâng cao đạo đức nhà báo... 
 11 
trị để nắm vững chủ trương, chính sách 
của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực 
tế, đi sâu vào quần chúng lao động”(2); 
“Người cán bộ cách mạng phải có đạo 
đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức 
cách mạng mới là người cán bộ cách 
mạng chân chính. Mọi việc thành hay 
bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm 
nhuần đạo đức hay không”. Khi nói 
chuyện ở Đại hội lần thứ III của Hội 
Nhà báo Việt Nam tháng 9 năm 1962, 
Người khẳng định: “Cán bộ báo chí 
cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, 
trang viết là vũ khí sắc bén của họ. Để 
làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán 
bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức 
cách mạng”(3). Trong thư gửi anh em văn 
hoá và trí thức Nam bộ ngày 25 tháng 5 
năm 1947, Người viết: “Ngòi bút của các 
bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong 
sự nghiệp phò chính, trừ tà”. 
Thứ hai, nhà báo phải có lập trường 
chính trị đúng đắn, hết lòng phục vụ 
nhân dân. Theo Người, hoạt động báo 
chí là hoạt động chính trị xã hội, nhiệm 
vụ của báo chí là phục vụ cách mạng, 
phục vụ nhân dân, nhà báo phải là chiến 
sĩ trên mặt trận cách mạng. Để hoàn 
thành nhiệm vụ cách mạng của mình, 
nhà báo phải có lập trường chính trị 
đúng đắn. Tại Đại hội lần thứ II của Hội 
Nhà báo Việt Nam ngày 16 tháng 4 năm 
1959, Người nói: “Tất cả những người 
làm báo (người viết, người in, người sửa 
bài, người phát hành...) phải có lập 
trường chính trị vững chắc. Chính trị 
phải làm chủ, đường lối chính trị đúng 
thì những việc khác mới đúng được. 
Cho nên các báo chí của ta phải có 
đường lối chính trị đúng”(4); “Nhiệm vụ 
của người làm báo là quan trọng và vẻ 
vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy 
thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng 
cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường 
giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ 
văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của 
mình”(5). Tháng 5 năm 1949, trong thư 
gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng 
đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc, Người 
chỉ rõ: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên 
truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và 
tổ chức dân chúng để đưa dân chúng 
đến mục đích chung”. Đối với Hội nhà 
báo, Người khẳng định: “Nói về Hội nhà 
báo. Đó là một tổ chức chính trị và 
nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải 
làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp 
đỡ lẫn nhau để nâng cao trình độ chính 
trị và nghiệp vụ. Có như thế thì Hội nhà 
báo mới làm tròn nhiệm vụ của mình và 
những người làm báo mới phục vụ tốt 
nhân dân, phục vụ tốt cách mạng”(6). Tại 
Đại hội lần thứ II (1959) và Đại hội lần 
thứ III của Hội nhà báo Việt Nam, 
Người đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ của báo chí 
(2) Tạ Ngọc Tấn (biên soạn) (1995), Hồ Chí 
Minh về vấn đề báo chí, Cục xuất bản, Hà Nội, 
tr. 23. 
(3) Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội, t. 10, tr. 616. 
(4) Sđd, t. 9, tr. 415. 
(5) Sđd, t. 9, tr. 415. 
(6) Sđd, t. 9, tr. 414. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014 
 12 
là phục vụ nhân dân, phục vụ cách 
mạng. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, 
toàn dân ta, cũng là nhiệm vụ của báo 
chí ta”(7). 
Người coi báo chí vừa là một bộ 
phận cấu thành văn hoá, là phương tiện 
xây dựng và truyền bá văn hoá; nhà báo 
là đội quân tiên phong trong công tác tư 
tưởng. Người sớm nhận ra vai trò và tác 
động to lớn của báo chí trong đấu tranh 
xã hội. Người tâm đắc câu nói của 
Lênin: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải 
có lúc này là một tờ báo chính trị. 
Trong thời đại ngày nay, không có tờ 
báo chính trị thì không thể có phong 
trào gọi là chính trị... Không có tờ báo, 
thì không thể tiến hành hệ thống cuộc 
tuyên truyền, cổ động có nguyên tắc và 
toàn diện”(8). 
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định 
rằng: chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân 
dân là người; cán bộ cách mạng nói 
chung và các nhà báo cách mạng nói 
riêng đều là đầy tớ của nhân dân, đều 
phải một lòng, một dạ phục vụ nhân 
dân. Tại Đại hội lần thứ II của Hội nhà 
báo Việt Nam (1959), Người chỉ rõ: 
“Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân 
dân, phục vụ cách mạng. Đó là nhiệm 
vụ của toàn Đảng, toàn dân ta, cũng là 
nhiệm vụ của báo chí ta”(9). Trong thư 
gửi lớp viết báo đầu tiên Huỳnh Thúc 
Kháng, Người nói rằng, muốn viết báo 
thì: thứ nhất là cần phải gần gũi dân 
chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết 
thi không thể viết thiết thực; thứ hai là ít 
nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước 
ngoài để xem báo nước ngoài mà học 
kinh nghiệm của người; khi viết xong 
một bài, tự mình phải xem lại ba bốn 
lần, sửa chữa lại cho cẩn thận; tốt hơn 
nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hóa 
xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào 
không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu; thứ 
ba là luôn luôn gắng học hỏi, luôn luôn 
cầu tiến bộ. Người có nhiều bài nói về 
công việc viết báo, chia sẻ kinh nghiệm 
viết báo với đồng nghiệp hoặc cán bộ 
cấp dưới. Trong bài nói chuyện tại Đại 
hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt 
Nam ngày 8 tháng 9 năm 1962, Người 
nói: "Kinh nghiệm của tôi là thế này: 
Mỗi khi viết một bài báo, thì đặt câu 
hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? 
Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, 
ngắn gọn dễ đọc? Khi viết xong, thì nhờ 
anh em xem và sửa giùm"(10). 
Trong nhiều bài viết của mình, Người 
luôn nhắc đi nhắc lại yêu cầu đối với các 
nhà báo trước khi viết phải trả lời các 
câu hỏi: “Vì ai mình viết? Viết cho ai? 
Viết để làm gì?. Người đòi hỏi các nhà 
báo phải xác định rõ đối tượng tiếp nhận 
thông tin trước khi cầm bút viết; đối 
tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng; 
vì thế, văn phong báo chí phải “giản 
(7) Sđd, t. 10, tr. 613. 
(8) Phan Quang (2010), “Bác Hồ, tấm gương sáng 
về đạo đức báo chí”, Báo Hà Nội mới, ngày 21 
tháng 6. 
(9) Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội, t. 10, tr. 613. 
(10) Sđd, t. 10, tr. 615. 
Nâng cao đạo đức nhà báo... 
 13 
đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát”. Theo 
Người cần viết những cái hay, cái tốt 
của dân ta, của bộ đội ta, của bạn bè ta, 
đồng thời phê bình khuyết điểm của 
chúng ta, của cán bộ, nhân dân, bộ đội; 
cần viết cho công - nông - binh, viết cho 
mọi tầng lớp người Việt Nam, không 
phân biệt già trẻ, nam nữ, tôn giáo, đảng 
phái; cần viết để tuyên truyền, để giác 
ngộ, để đoàn kết, để thức tỉnh quần 
chúng; cần viết gọn gàng, sáng sủa, 
mạch lạc, có đầu có đuôi, có nội dung. 
Người rất coi trọng về hình thức bài 
báo; hình thức phải ngắn gọn với ngôn 
ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Theo 
Người ngắn gọn không có nghĩa là cộc 
lốc mà là gọn gàng, rõ ràng, có đầu, có 
đuôi, có nội dung thiết thực. Muốn viết 
được trong sáng, giản dị, dễ hiểu thì nhà 
báo phải học cách nói của quần chúng; 
phải thực sự học quần chúng. Sự trong 
sáng, giản dị, dễ hiểu là bắt nguồn từ sự 
hiểu biết thấu đáo về bản chất của sự 
vật, từ sự gắn bó với truyền thống dân 
tộc trong cách cảm, nếp nghĩ. Người 
không những am hiểu ngôn từ của nhiều 
dân tộc, mà còn là bậc thầy về sử dụng 
ngôn ngữ tiếng Việt. Người luôn tâm 
niệm rằng: "viết và nói phải có mục 
đích, có nội dung"; nói và viết dù chỉ 
một câu cũng làm cho người dân bình 
thường nhất hiểu và làm theo được. Trả 
lời câu tự hỏi: "Nói và viết như thế 
nào?", Người khẳng định: "Viết thế nào 
cho phổ thông, dễ hiểu". Bởi vì, với đối 
tượng là quần chúng và mục đích là vì 
nhiệm vụ cách mạng, thì tính phổ thông, 
dễ hiểu là cách giao tiếp chủ yếu, công 
việc đó là để phục vụ đại bộ phận quần 
chúng nhân dân. 
Tháng 7 năm 1924, tại Đại hội lần 
thứ năm Quốc tế Cộng sản, Người đã 
trình bày quan điểm của mình về vai trò 
của báo chí: "Báo chí cộng sản chủ 
nghĩa có nhiệm vụ làm cho các chiến sĩ 
của chúng ta hiểu rõ vấn đề thuộc địa, 
làm thức tỉnh sự đồng tình hưởng ứng 
quần chúng lao động của các nước thuộc 
địa, tranh thủ họ tham gia sự nghiệp của 
chủ nghĩa cộng sản". Người làm báo là 
để thức tỉnh quần chúng nhân dân lao 
động, giai cấp thợ thuyền; đồng thời 
Người cũng yêu cầu các nhà báo cách 
mạng phải thức tỉnh quần chúng; giúp 
người đọc tự nhận thức được các vấn đề 
trong nước và quốc tế, kinh tế và văn 
hoá, đạo đức và xã hội; giúp người đọc 
hiểu và có đủ khả năng nhận thức được 
thế giới xung quanh một cách đúng đắn, 
từ đó có hành vi ứng xử thích hợp bằng 
một quan điểm đúng đắn, xuất phát từ 
lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp. Người 
nhắc nhở: “Ngành nào cũng phải làm 
công tác tuyên truyền, giới thiệu. Và các 
chú nhớ ở trang đầu mỗi cuốn sách đều 
phải ghi một câu “Hoan nghênh bạn đọc 
phê bình”. Từ nay trở đi, trên sách hay 
trên báo, các chú nên luôn luôn có câu 
đó. Bác biết các chú văn hay chữ tốt, 
nhưng dù sao, nhân dân trăm tay nghìn 
mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh có 
thể giúp cho các chú tiến bộ hơn. Không 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014 
 14 
riêng gì viết sách báo, mà công tác gì 
muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến 
của nhân dân”(11). 
Thứ ba, nhà báo phải trung thực. Hồ 
Chí Minh coi trung thực là một tiêu 
chuẩn đạo đức rất quan trọng của nhà 
báo. Người nói: “Không biết rõ, hiểu rõ, 
chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần 
nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ 
viết càn” và “chưa điều tra, chưa nghiên 
cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”(12); 
“Viết giản dị thôi, và phải đúng sự thật. 
Không được bịa ra”; “Không nên chỉ 
viết cái tốt và giấu đi cái xấu. Nhưng 
phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái 
tốt thì phải có chừng mực, chớ phóng 
đại... Phê bình thì phải phê bình một 
cách thật thà, chân thành, đúng đắn”(13). 
Người đòi hỏi các nhà báo trong mọi 
trường hợp khen cũng như chê phải có 
động cơ trong sáng; không viết báo vì 
mục đích vụ lợi, cá nhân, ích kỷ. Nhà 
báo phải phản ánh đúng những ý kiến 
xây dựng của nhân dân; nói lên tâm tư, 
nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân; 
phải đem đến cho công chúng niềm tin ở 
sự thật, ở sự nghiêm minh của pháp luật, 
đặc biệt niềm tin vào sự lãnh đạo của 
Đảng, vào truyền thống cách mạng và 
nhân văn của nhân dân ta. 
Thứ tư, nhà báo phải có ý thức nâng 
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ không 
thuộc phạm trù đạo đức, nhưng ý thức 
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp 
vụ thì thuộc phạm trù đạo đức. Nhà báo 
phải có ý thức nâng cao trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ, bởi vì nếu không như 
vậy thì họ không thể có trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ vững vàng, mà không có 
chuyên môn vững vàng thì không thể 
hoàn thành nhiệm vụ của mình. Người 
nói: “Muốn tiến bộ, muốn viết hay thì 
phải cố gắng học hỏi, ra công rèn 
luyện”; “Một người phải biết học nhiều 
người. Hơn nữa, cần phải làm cho món 
ăn tinh thần được phong phú, không nên 
bắt mọi người chỉ được ăn một món 
thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho 
mọi người được thấy nhiều loại hoa 
đẹp”(14). Người căn dặn: “Nhà báo phải 
có trách nhiệm đối với người đọc khi 
viết bài, phải viết sao cho người đọc dễ 
hiểu; khi viết cho nhân dân thì phải học 
cách nói của nhân dân (cách nói mộc 
mạc, giản dị mà chân thành); phải trau 
dồi kiến thức, chịu khó học hỏi, khiêm 
tốn, tự phê bình và thành khẩn đón nhận 
sự phê bình của nhân dân”(15). 
Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ cách 
mạng của mình, nhà báo phải có trình 
độ chuyên môn vững vàng, nhưng muốn 
có trình độ chuyên môn vững vàng thì 
họ phải không ngừng học tập, khổ công 
rèn luyện, trau dồi kiến thức nghề 
nghiệp. Người luôn kêu gọi mọi người 
thi đua học tập, coi học tập là nhiệm vụ 
(11) Sđd, t. 8, tr. 657. 
(12) Sđd, t. 5, tr. 306. 
(13) Sđd, t. 7, tr. 118. 
(14) Sđd, t. 9, tr. 415. 
(15) Sđd, t. 9, tr. 415. 
Nâng cao đạo đức nhà báo... 
 15 
thường xuyên, suốt đời, “còn sống thì 
còn phải học”. Trong việc học tập 
Người đặc biệt chú trọng đến động cơ, 
thái độ học tập: “Muốn học tập có kết 
quả thì phải có thái độ đúng và phương 
pháp đúng”(16). Tức là, trước hết phải có 
động cơ học tập đúng để xác định rõ và 
đúng xu hướng nghề nghiệp chân chính 
của mình là vì mục tiêu, lý tưởng cao cả 
của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, 
vì con người và vì sự tiến bộ của chính 
bản thân mình. Theo Người: “Học để 
làm việc, làm người, làm cán bộ, học để 
phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và 
nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân 
loại”(17); “Học để sửa chữa tư tưởng, học 
để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để 
tin vào đoàn thể, vào nhân dân, vào 
tương lai của dân tộc và tương lai của 
cách mạng, học để hành”; “học để làm 
việc”; chứ không phải học để “làm ông 
nọ bà kia”, hay là để “làm quan cách 
mạng”; “tất cả những động cơ học tập 
không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho 
sạch”(18). 
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò của việc 
học tập đối với người cán bộ cách mạng 
nói chung và các nhà báo cách mạng nói 
riêng. Trong nhiều lần nói chuyện với 
giới trí thức, Người thường nhấn mạnh 
tầm quan trọng của công việc học tập: 
“Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt 
đời”; “Tình hình thế giới và trong nước 
luôn luôn biến đổi, công việc của chúng 
ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới 
ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết 
của chúng ta có hạn. Muốn tiến bộ kịp 
sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta 
phải nghiên cứu, học tập”(19); “nếu 
không chịu khó học thì không tiến bộ 
được ... không chịu học thì lạc hậu, mà 
lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải 
mình”. Người thường dẫn câu nói của 
Lênin “Học, học nữa, học mãi” để giáo 
dục cán bộ cách mạng nói chung và nhà 
báo cách mạng nói riêng. Người nói: 
“Bác thường nghe nói có đồng chí mới 
40 tuổi mà đã cho mình là già nên ít 
chịu học tập. Nghĩ như vậy là không 
đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 
76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. 
Chúng ta phải học và hoạt động cách 
mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải 
học, còn phải hoạt động cách mạng”(20). 
Người chỉ rõ: tự học, tự rèn, tự tu dưỡng 
cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, 
“ngọc càng mài càng sáng, vàng càng 
luyện càng trong”; “Năng lực của con 
người không phải hoàn toàn do tự nhiên 
mà có, mà một phần lớn do công tác, do 
luyện tập mà có”(21). 
Trên đây là những nội dung cơ bản 
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo 
đức nhà báo. Tư tưởng của Hồ Chí Minh 
về đạo đức nhà báo với nội dung như 
(16) Sđd, t. 2, tr. 94. 
(17) Sđd, t. 4, tr. 161, 162. 
(18) Sđd, t. 5, tr. 235. 
(19) Sđd, t. 6, tr. 5- 52. 
(20) Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 67. 
(21) 1975, Những lời Bác dạy, Nxb Thanh niên, 
Hà Nội, tr. 43. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014 
 16 
trên có ý nghĩa quan trọng trong việc 
nâng cao đạo đức nhà báo ở nước ta 
hiện nay. Trong cuộc vận động học tập 
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí 
Minh, các nhà báo Việt Nam cần nhận 
thức đầy đủ hơn tư tưởng của Người về 
đạo đức nhà báo, đồng thời phải vận 
dụng tư tưởng đó vào hoạt động nghề 
nghiệp của mình. 
2. Giải pháp nhằm nâng cao đạo đức 
nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh 
Theo số liệu của Bộ Thông tin và 
Truyền thông, năm 2012 cả nước có hơn 
812 cơ quan báo chí, với khoảng 1.084 
ấn phẩm; 67 đài phát thanh - truyền 
hình; hơn 62 báo điện tử, khoảng 1.024 
trang tin điện tử tổng hợp; trên 2 triệu 
blog và hơn 17.000 người làm báo được 
cấp thẻ nhà báo, trong số đó chiếm đa 
phần là phóng viên, nhà báo. Chưa bao 
giờ nhà báo Việt Nam phát triển như 
hiện nay về số lượng và chất lượng, về 
nội dung và hình thức, về cán bộ và 
công nghệ, sản xuất và phát hành. 
Phần đông các nhà báo nước ta có 
phẩm chất đạo đức tốt, có lập trường 
chính trị đúng đắn, có trình độ chuyên 
môn vững vàng; tích cực tuyên truyền, 
giáo dục, cổ vũ, động viên toàn dân 
đoàn kết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 
tích cực tham gia vào việc đấu tranh 
chống các hiện tượng tiêu cực, chống 
âm mưu phá hoại của thế lực thù địch. 
Nhưng bên cạnh đó còn không ít nhà 
báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp. 
Nhiều nhà báo thông tin sai sự thật, bóp 
méo sự thật. Họ thương mại hoá tờ báo 
bằng việc đưa tin bài, hình ảnh phản 
cảm, thiếu văn hoá, thiếu tính thẩm mỹ, 
phản giáo dục. Nhiều nhà báo lợi dụng 
danh nghĩa nhà báo để vụ lợi cá nhân. 
Đặc biệt, một số nhà báo vi phạm pháp 
luật, tiếp tay cho các thế lực thù địch, 
tuyên truyền chống lại Đảng và Nhà 
nước. Lâu nay, khi nói đến sự vi phạm 
đạo đức nhà báo, nhiều người chỉ nói 
đến những hành vi không đúng như: 
thông tin sai sự thật (do phóng viên bịa 
ra), thông tin méo mó (sai một phần), 
không quan tâm đến hậu quả tiêu cực 
của thông tin, ứng xử nhẫn tâm, v.v.. 
Thế nhưng, biểu hiện vi phạm đạo đức 
nhà báo phức tạp hơn nhiều. Không phải 
chỉ có “hành vi không đúng đắn” như 
trên mới là vi phạm đạo đức, mà cả 
“không có hành vi gì” cũng là sự vi 
phạm đạo đức. Bởi vì, khi xã hội cần 
nhà báo lên tiếng mà họ lại im lặng thì 
sự im lặng đó là biểu hiện của sự suy 
thoái đạo đức. Sự suy thoái về đạo đức 
nghề nghiệp ở một số nhà báo nước ta 
hiện nay có nhiều nguyên nhân khách 
quan và chủ quan, nhưng trong đó 
những nguyên nhân chủ quan là chính. 
Để khắc phục những biểu hiện suy thoái 
đạo đức nhà báo và nâng cao đạo đức 
nhà báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh, 
chúng ta cần thực hiện nhiều giải pháp, 
trong đó có các giải pháp sau: 
Thứ nhất, phát huy tính tự giác của 
nhà báo trong việc giáo dục đạo đức. Sự 
hình thành và phát triển những phẩm 
Nâng cao đạo đức nhà báo... 
 17 
chất đạo đức nghề nghiệp trong mỗi nhà 
báo không diễn ra một cách tự phát. Yếu 
tố quan trọng nhất giúp nâng cao đạo 
đức nghề nghiệp của nhà báo là sự tự 
rèn luyện và tự tu dưỡng đạo đức. 
Người làm nghề nào cũng cần có đạo 
đức. Đặc biệt nhà báo càng phải chú ý 
rèn luyện đạo đức. Bởi vì, cùng lúc báo 
chí có thể tác động đến nhiều người, 
nhiều tầng lớp trong xã hội, nhiều lĩnh 
vực của cuộc sống. Chỉ cần một chút 
thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội 
cũng phải gánh chịu những hậu quả tiêu 
cực to lớn. Để giúp nhà báo tự rèn luyện 
đạo đức thì cần đẩy mạnh việc học tập 
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói 
chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo 
đức báo chí nói riêng; tăng cường giáo 
dục các giá trị đạo đức truyền thống của 
dân tộc, các quy tắc đạo đức nghề 
nghiệp báo chí; tăng cường giáo dục lý 
luận chính trị, giáo dục pháp luật cho 
đội ngũ nhà báo. 
Thứ hai, nâng cao đời sống vật chất 
cho đội ngũ người làm báo (tăng nhuận 
bút, tăng lương, tăng các chế độ hỗ trợ 
khác). Nếu đội ngũ nhà báo có được một 
mức sống ổn định, có thể sống bằng lao 
động nghề nghiệp chân chính của mình, 
thì họ sẽ có điều kiện thuận lợi để phát 
triển tài năng, để hạn chế những ham 
muốn tiêu cực. 
Thứ ba, nâng cao tính chuyên nghiệp 
của nền báo chí. Một nền báo chí càng 
chuyên nghiệp thì những sai sót, vi 
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức càng 
được hạn chế. Nâng cao tính chuyên 
nghiệp của nền báo chí trước hết là nâng 
cao tính chuyên nghiệp của nhà báo. 
Muốn thế phải đầu tư xây dựng cơ sở vật 
chất, phương tiện, thiết bị kỹ thuật tiên 
tiến; đổi mới cơ chế quản lý báo chí. 
Thứ tư, hoàn thiện Luật Báo chí. Luật 
Báo chí của nước ta còn thiếu hoặc 
không rõ ràng; trong nhiều trường hợp 
khó xác định được ranh giới giữa vi 
phạm hay không vi phạm đạo đức và 
pháp luật. Vì thế, nhiều khi không có sự 
thống nhất giữa các cơ quan chức năng 
với nhau trong việc xác định một hành 
vi nào đó của một nhà báo là có vi phạm 
đạo đức và pháp luật hay không. Để 
khắc phục tình trạng này, cần hoàn thiện 
khung pháp luật về báo chí; bổ sung 
những quy định mới mà trong Luật Báo 
chí hiện hành chưa có. Đặc biệt trong 
các văn bản pháp luật về báo chí cần 
quy định rõ và cụ thể về những điều 
không được thông tin trên báo chí. 
Chẳng hạn, đó là: 
- Không được đăng, phát những tác 
phẩm báo chí, tài liệu trái pháp luật, có 
nội dung chống đối Nhà nước Cộng hoà 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phá hoại 
khối đoàn kết toàn dân. 
- Không được miêu tả tỉ mỉ những 
hành động dâm ô, chém giết rùng rợn 
trong các tin, bài, hình ảnh về các vụ án 
và hành động tội ác; không được đăng, 
phát tin, bài, hình ảnh, tranh, ảnh khỏa 
thân và có tính chất kích dục, thiếu thẩm 
mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014 
 18 
tục Việt Nam. 
- Không được đăng, phát ảnh của cá 
nhân mà không có chú thích rõ ràng 
hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự 
của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các 
buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, 
các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, 
thể dục thể thao, những người có lệnh 
truy nã, các cuộc xét xử công khai của 
Tòa án, những người phạm tội trong các 
vụ trọng án đã bị tuyên án). 
- Không được đăng, phát tin bài ảnh 
hưởng xấu đến đời tư, tài liệu, thư riêng 
của cá nhân khi chưa được sự đồng ý 
của người viết thư, người nhận thư hoặc 
người chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức 
thư đó. Đối với văn kiện, tài liệu của tổ 
chức, tài liệu, thư riêng của cá nhân có 
liên quan đến các vụ án đang được điều 
tra hoặc chưa xét xử, cơ quan báo chí có 
quyền khai thác theo nguồn tin của mình 
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật 
về những nội dung thông tin đó. 
- Không được đăng, phát tin, bài 
truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan. Đối 
với loại thông tin về những vấn đề khoa 
học mới chưa được kết luận, những 
chuyện thần bí thì cần có chú dẫn xuất 
xứ tư liệu (nguồn gốc tác phẩm, nơi 
công bố, thời gian). 
Thứ năm, tăng cường vai trò quản lý 
của cơ quan chủ quản. Sự vi phạm đạo 
đức của một số nhà báo có nguyên nhân 
ở sự buông lỏng quản lý của cơ quan 
chủ quản. Vì vậy, rất cần sự theo dõi 
thường xuyên, chỉ đạo kịp thời của cơ 
quan chủ quản đối với đội ngũ nhà báo. 
Cơ quan chủ quản báo chí cần phải tạo 
điều kiện thuận lợi cho nhà báo hoạt 
động; đồng thời giáo dục, động viên, 
nhắc nhở, răn đe, xử lý kịp thời những 
hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp 
của nhà báo. 
Thứ sáu, tăng cường vai trò của Hội 
nhà báo. Nếu Hội nhà báo thực sự hoạt 
động tốt, trở thành mái nhà chung không 
thể thiếu của hội viên, bảo vệ, giúp đỡ 
hội viên về mọi mặt, thì việc nâng cao 
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là điều 
hoàn toàn có thể làm được. 
Thứ bảy, tăng cường vai trò giám sát 
của công chúng đối với đội ngũ nhà 
báo. Sự giám sát của nhân dân đối với 
đội ngũ nhà báo được ví như vị thần có 
nghìn tai, nghìn mắt. Đó cũng là sự 
đảm bảo cho một nền báo chí của dân 
và vì dân. 
Thứ tám, tăng tính chuyên nghiệp của 
cơ quan báo chí. Điều này bắt đầu từ 
nâng cao tính tinh nhuệ cho chính đội 
ngũ phóng viên, biên tập viên. Mỗi cơ 
quan báo chí cần có cuộc khảo sát toàn 
diện về nhân sự; trên cơ sở nhiệm vụ và 
định hướng phát triển của mình xây 
dựng chiến lược đào tạo, đào tạo lại để 
xây dựng một đội ngũ những người làm 
báo có kiến thức sâu, kỹ năng chuyên 
môn cao và phong cách hành xử chuyên 
nghiệp. Mỗi cơ quan báo chí cần có 
chính sách hỗ trợ phóng viên, biên tập 
viên, nhất là đội ngũ trẻ để họ có điều 
kiện tiếp cận và khai thác thông tin, có 
Nâng cao đạo đức nhà báo... 
 19 
điều kiện học tập nâng cao trình độ, 
phối hợp các bộ phận khi xử lý những 
đề tài lớn, những vấn đề có sức tác động 
mạnh đến dư luận xã hội. Bên cạnh đó, 
cần có chế độ ưu đãi về nhuận bút và 
khen thưởng kịp thời những tác phẩm 
báo chí có chất lượng cao, gây được 
hiệu ứng xã hội. Việc tuyển chọn, đào 
tạo, bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo các cơ 
quan báo chí vừa có trình độ chuyên 
môn, nghiệp vụ, vừa có phẩm chất chính 
trị cũng là điều kiện tạo nên tính chuyên 
nghiệp của cơ quan báo chí. Nâng cao 
tính chuyên nghiệp của cơ quan báo chí 
đòi hỏi ngay trong công tác toà soạn. 
Ngoài ra, trong mối quan hệ tương tác 
với bạn đọc, cần đẩy mạnh công tác tiếp 
và xử lý đơn thư bạn đọc; đẩy mạnh các 
chương trình từ thiện, các cuộc tương 
tác, trao đổi trên mặt báo, các diễn đàn, 
các cuộc vận động xã hội. Nâng cao tính 
chuyên nghiệp của cơ quan báo chí còn 
thể hiện trong cách thức đưa sản phẩm 
đến tay bạn đọc, xây dựng mạng lưới 
phát hành, chiến lược nâng cao thương 
hiệu, khai thác nguồn quảng cáo, tăng 
nguồn thu cho cơ quan báo chí tiến tới 
xoá bỏ bao cấp. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ 
Chí Minh về phát triển con người toàn diện , 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Thành Duy - Lê Quý Đức (2007), Học 
tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng 
nền văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay, Nxb 
Lý luận chính trị, Hà Nội. 
3. Phạm Văn Đồng (1992), Góp phần tìm 
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
4. Võ Nguyên Giáp (1996), "Nguồn gốc tư tưởng 
Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (23), tr. 3-9. 
5. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về 
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
6. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo 
đức nghề của nhà báo, Nxb Chính trị hành 
chính, Hà Nội. 
7. Mai Trung Hậu (2000), "Vấn đề con 
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tư tưởng 
triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội. 
8. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng 
đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống dân tộc và 
nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
9. Phan Quang (2001), Diện mạo báo chí 
Việt Nam - Tiểu luận và chân dung, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội 
10. Bùi Đình Phong (2007), Vận dụng và 
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong 
sự nghiệp đổi mới, Nxb Lao Động, Hà Nội 
11. Tạ Ngọc Tấn, Đinh Thị Thúy Hằng 
(2010), Cẩm nang đạo đức báo chí, Bộ Thông 
tin và Truyền thông và Đại sứ quán Thụy Điển 
tại Việt Nam, Hà Nội. 
12. Tạ Ngọc Tấn (biên soạn) (1995), Hồ Chí 
Minh về vấn đề báo chí, Cục xuất bản, Hà Nội. 
13. Lê Văn Yên (2010), Tư tưởng Hồ Chí 
Minh về báo chí xuất bản, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
14. G.V.Ladutina (2004), Những vấn đề cơ 
bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo, Cục 
xuất bản, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2013 
20 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_dao_duc_nha_bao_theo_tu_tuong_ho_chi_minh.pdf