Nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá môn tiếng Pháp theo chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ tại học viện Khoa học quân sự
Bài viết trình bày một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá môn tiếng
Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn của Khung năng lực
ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam và Khung tham chiếu chung châu Âu về ngoại ngữ của thực
tế dạy-học-kiểm tra, đánh giá ở Tổ bộ môn tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự. Để thực
hiện công đoạn quan trọng của quá trình dạy-học ngoại ngữ nói chung và dạy-học tiếng Pháp nói
riêng, cần xác định phương thức đánh giá theo hướng phát triển năng lực ngoại ngữ theo chuẩn
đầu ra; xác định rõ lộ trình sau mỗi học phần học viên, sinh viên phải đạt đến chuẩn nhất định nào
đó; đa dạng các loại hình kiểm tra, đánh giá bằng cách bổ sung các loại hình đánh giá bằng bài tập
lớn, bài tập thuyết trình và hồ sơ học tập; tổ chức cho giảng viên trong Tổ bộ môn tham gia các
khoá bồi dưỡng về kiểm tra, đánh giá, đặc biệt là kiểm tra, đánh giá theo trắc nghiệm khách quan,
kiểm tra, đánh giá kỹ năng nói và viết.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá môn tiếng Pháp theo chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ tại học viện Khoa học quân sự
103KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kiểm tra, đánh giá có một vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học. Chính vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn đổi mới kiểm tra, đánh giá là khâu đột phá trong chiến lược đổi mới căn bản toàn diện hệ thống giáo dục hiện nay. Trong đào tạo ngoại ngữ, kiểm tra đánh giá giúp người dạy xác định được khả năng, mức độ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng vận dụng ngôn ngữ của người học, đánh giá được những vấn đề tồn tại trong kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của họ để từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp giảng TRẦN THỊ MINH THỤC* *Học viện Khoa học Quân sự, ✉ minhthuc_1999@yahoo.fr NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN TIẾNG PHÁP THEO CHUẨN ĐẦU RA VỀ NĂNG LỰC NGOẠI NGỮ TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ TÓM TẮT Bài viết trình bày một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá môn tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam và Khung tham chiếu chung châu Âu về ngoại ngữ của thực tế dạy-học-kiểm tra, đánh giá ở Tổ bộ môn tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự. Để thực hiện công đoạn quan trọng của quá trình dạy-học ngoại ngữ nói chung và dạy-học tiếng Pháp nói riêng, cần xác định phương thức đánh giá theo hướng phát triển năng lực ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra; xác định rõ lộ trình sau mỗi học phần học viên, sinh viên phải đạt đến chuẩn nhất định nào đó; đa dạng các loại hình kiểm tra, đánh giá bằng cách bổ sung các loại hình đánh giá bằng bài tập lớn, bài tập thuyết trình và hồ sơ học tập; tổ chức cho giảng viên trong Tổ bộ môn tham gia các khoá bồi dưỡng về kiểm tra, đánh giá, đặc biệt là kiểm tra, đánh giá theo trắc nghiệm khách quan, kiểm tra, đánh giá kỹ năng nói và viết. Từ khoá: chuẩn đầu ra, kiểm tra đánh giá, năng lực ngoại ngữ. dạy, giúp người học giải quyết các khó khăn đó. Kiểm tra đánh giá cũng là động lực để thúc đẩy và điều chỉnh phương pháp học tập của người học, thúc đẩy động cơ học tập, giúp người học tự đánh giá mức độ đạt được các kỹ năng tiếp nhận, kỹ năng tương tác, kỹ năng sản sinh ngôn ngữ của mình, có kế hoạch, phương pháp tự ôn tập, củng cố kiến thức, tích luỹ kiến thức, nâng cao năng lực hướng đến chuẩn đầu ra. Trong bối cảnh nền giáo dục nước ta đang thực hiện nhiều đột phá nhằm chuyển mình từ nền giáo dục tập trung vào nội dung kiến thức 104 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI sang tiếp cận năng lực của người học, đặc biệt là năng lực đầu ra cho mỗi ngành học, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong giáo dục đào tạo nói theo định hướng phát triển năng lực và chuẩn đầu ra là việc làm cấp bách hiện nay. 2. KHÁI NIỆM Theo Khung tham chiếu chung châu Âu (Cadre Europeseen Commun de Reference, viết tắt là CECR), năng lực (compétence) là tổng hoà các kiến thức và các kỹ năng đơn lẻ cần vận dụng để hành động; Năng lực ngoại ngữ (compétence linguistique) là khả năng vận dụng kiến thức về ngữ âm, từ vựng, cú pháp vào các mục đích giao tiếp trong các tình huống giao tiếp cụ thể (Conseil de l’Europe, 2001). Kiểm tra (test) là quá trình đo lường kết quả thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn, mục tiêu đã đề ra nhằm phát hiện những gì đã đạt được, chưa đạt được, nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng/ chi phối từ đó đưa ra những biện pháp điều chỉnh khắc phục nhằm đạt được mục tiêu (Tagliante Chirstine, 2005). Đánh giá (Evaluation) là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển những kinh nghiệm được hình thành ở thời điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập. Trên cơ sở đó, nêu ra những biện pháp uốn nắn, điều chỉnh và giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ (Tagliante Chirstine, 2005). Như vậy, trong kiểm tra, người học được yêu cầu áp dụng những kiến thức đã học để làm các bài tập, thông qua các hoạt động, người học phải sử dụng kiến thức của mình, tình huống kiểm tra có thể là một bài tập, một nhiệm vụ đơn giản khác với nhiệm vụ được đưa ra trong tình huống học tập. Còn đánh giá là một nhiệm vụ phức tạp cần huy động các kiến thức, khả năng, nó có thể không dẫn đến một kết quả tốt mà dẫn đến một đề xuất xác đáng so với mục tiêu nêu ra trong tình huống học tập. Chuẩn đầu ra là yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, trách nhiệm nghề nghiệp mà người học phải đạt được sau khi hoàn thành chương trình đào tạo, được cơ sở đào tạo cam kết với người học, xã hội và công bố công khai cùng với các điều kiện đảm bảo thực hiện (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010). Theo Nguyễn Thị Quỳnh Yến (2015), việc xây dựng chuẩn đầu ra về ngoại ngữ của các cơ sở đào tạo có ý nghĩa quan trọng đối với chương trình đào tạo, đối với người dạy, người học và đối với xã hội. Cụ thể: Đối với nhà trường, chuẩn đầu ra là cơ sở để nhà trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, đảm bảo sản phẩm đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội, tạo được niềm tin cho người học và người sử dụng lao động. Đối với người dạy, chuẩn đầu ra là cơ sở để thiết kế nội dung giảng dạy, là cơ sở để đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm, phát triển đều các kỹ năng ngôn ngữ, lượng hoá rõ ràng về các tiêu chí đánh giá kết quả học tập của người học, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng của phương pháp giáo dục truyền thống. Bên cạnh đó, nhờ có quy định về chuẩn đầu ra, mối quan hệ giữa các yếu tố dạy-học- đánh giá được đổi mới và nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Đối với người học, chuẩn đầu ra giúp lượng hoá được khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân, xác định được mục tiêu học tập, tạo động cơ học tập để đạt chuẩn theo yêu cầu của nhà trường và xã hội. Đối với xã hội, chuẩn đầu ra là cơ sở giúp các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động đánh giá khả năng cung ứng nhân lực của nhà trường, xác định được nguồn cung cấp nhân lực phù hợp với yêu cầu lao động. Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức cũng có thể lựa chọn chính xác nguồn nhân lực tiềm năng cho mình, từ đó, phối hợp với các cơ sở đào tạo thực hiện đào tạo theo địa chỉ. Điều này vừa hỗ trợ cho hoạt động của các 105KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v trường, vừa giảm được chi phí và thời gian đào tạo lại của nơi sử dụng nhân lực. Trong đề án Ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (theo Quyết định số 1400/QĐ- TTg), chuẩn đầu ra “đối với các cơ sở giáo dục đại học không chuyên ngữ, chương trình đào tạo mới phải có mức kiến thức đạt trình độ tối thiểu là bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ của Việt Nam sau khóa tốt nghiệp”. 3. CÔNG TÁC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG ĐÀO TẠO NGOẠI NGỮ Trước đây, khi mục tiêu giáo dục được xác định là truyền thụ kiến thức càng nhiều càng tốt thì kiểm tra, đánh giá thường được sử dụng để so sánh kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học với mục tiêu của chương trình theo chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt được. Hiện nay, khi mục tiêu giáo dục chuyển sang đào tạo và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất người học thì việc thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục đang đổi mới cả nội dung lẫn phương pháp đánh giá. Thay vì chỉ đánh giá kiến thức, kỹ năng mà người học nắm được, người đánh giá còn phải theo dõi và khích lệ quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của người học, kết hợp chặt chẽ kết quả đánh giá thường xuyên và định kỳ của người dạy với việc tự đánh giá của người học, đánh giá của nhà trường và đánh giá của xã hội. Với từng loại ngôn ngữ, người đánh giá thu thập thông tin và đưa ra nhận định về mức độ người học ghi nhớ, tái hiện và vận dụng các kiến thức, hiểu biết chung, các kiến thức về ngữ âm, từ vựng, cú pháp để hiểu, phân tích, đánh giá và phản biện các nội dung đọc và nghe, tương tác nói và viết về các chủ đề tương tự nội dung giảng dạy nhưng gắn liền với thực tế và bản thân người học. Phương pháp kiểm tra, đánh giá đa dạng (từ đánh giá qua bài kiểm tra (test) đến các hình thức đánh giá phi kiểm tra (non-test) như quan sát, hồ sơ học tập, dự án học tập...). Nhìn chung, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra đòi hỏi người dạy phải chuyển trọng tâm từ kiểm tra trí nhớ máy móc của người học về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp riêng lẻ sang kiểm tra, đánh giá năng lực giao tiếp, vận dụng những kiến thức ngôn ngữ đã học vào những tình huống giao tiếp cụ thể. Ngoài ra, đánh giá năng lực ngoại ngữ không hoàn toàn chỉ dựa vào chương trình thực hành tiếng như đánh giá kiến thức, kỹ năng, bởi năng lực ngoại ngữ là tổng hoà, kết tinh kiến thức, kỹ năng ngôn ngữ, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. 4. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CỦA BỘ MÔN TIẾNG PHÁP TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ Tại Học viện Khoa học Quân sự, từ năm 2010, môn tiếng Pháp được giảng dạy cho học viên, sinh viên chuyên ngành tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Chương trình môn học với 12 đơn vị học trình, được chia làm 3 học kỳ, thời lượng 100-125 tiết/học kỳ (Học viên học theo niên chế với 100 tiết/học kỳ, sinh viên học theo tín chỉ 125 tiết/học kỳ). Theo quy định về chuẩn đầu ra của Học viện, học viên, sinh viên sẽ phải đạt bậc 2 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam, tương đương với trình độ A2 theo Khung tham chiếu chung châu Âu. Công tác kiểm tra của Học viện được thực hiện theo quy định của Giám đốc Học viện về công tác kiểm tra, đánh giá của Học viện Khoa học Quân sự, cụ thể đối với bộ môn tiếng Pháp được quy định cụ thể như sau: Hình thức thi: Thi vấn đáp và viết; thi theo từng kỹ năng riêng lẻ (nghe, nói, đọc, viết). Thang điểm: Điểm môn học (học phần) tính theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến 0,5. Điểm môn học (học phần) là tổng các điểm: Điểm thi kết thúc học phần, chiếm tối đa 60% điểm môn học (học phần) và Điểm quá trình, 106 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI chiếm tối đa 40% điểm môn học, gồm các thành phần cụ thể như sau: + Điểm chuyên cần: 0,5 điểm. + Điểm kiểm tra học trình: 2,0 điểm + Điểm thảo luận, thực hành: 1,5 điểm Quy định số lần kiểm tra học trình được tính như sau: 3 lần/học kỳ Điểm kiểm tra học trình là trung bình cộng điểm các lần kiểm tra học trình. Nếu người học vắng có lý do chính đáng thì được phép kiểm tra bổ sung. Các trường hợp vắng không có lý do chính đáng thì bị tính điểm 0 (Học viện Khoa học Quân sự, 2014). Ở Tổ bộ môn tiếng Pháp, việc kiểm tra, đánh giá được tiến hành thường xuyên theo đúng quy định của Học viện bằng các bài kiểm tra trình (từ 5 - 6 tuần học sẽ có 1 bài kiểm tra trình), hết học phần có bài thi theo 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Điều này đã khuyến khích người học phải học tập thường xuyên, không phải đến lúc thi mới học. Tuy nhiên, hình thức đánh giá bằng các bài tập lớn, tiểu luận chưa được áp dụng. Hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan chưa được sử dụng nhiều. Hiện nay, Tổ bộ môn đang triển khai xây dựng ngân hàng đề thi theo hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan và dự kiến sẽ áp dụng thí điểm trong học kỳ II năm học 2016-2017. Về nội dung kiểm tra đánh giá tập trung vào kiểm tra kiến thức, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của học viên, sinh viên. Đánh giá chủ yếu thông qua các bài kiểm tra trình và bài thi cuối học phần. Tất cả các bài kiểm tra, bài thi đều bám sát nội dung môn học và theo yêu cầu chuẩn đầu ra của Học viện (Bậc 2 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam hay A2 theo Khung tham chiếu chung châu Âu). Mỗi học phần đều xây dựng ngân hàng đề thi do tổ bộ môn xây dựng, được thẩm định và thông qua cấp Học viện. Quy trình ra đề thi, coi thi, chấm thi đảm bảo đúng quy chế. Các đề thi đều có đáp án và thang điểm rõ ràng và hàng năm được được rà soát, điều chỉnh, loại bỏ những câu không phù hợp, cập nhật kiến thức mới và bổ sung đề mới... để ngân hàng đề thi ngày càng hoàn thiện hơn. 5. NHỮNG ĐỀ XUẤT Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá môn tiếng Pháp theo chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ tại Học viện Khoa học Quân sự, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau: Một là, xác định rõ phương thức đào tạo môn tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự theo hướng phát triển năng lực ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra bậc 2 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam hoặc A2 theo Khung tham chiếu chung châu Âu. Cần xác định cụ thể, các hình thức, nội dung dạy - học và kiểm tra đánh giá nhằm hình thành, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển các năng lực sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp; hình thành, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển các năng lực chung như: năng lực tự học, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin.... Hai là, xác định cụ thể sau mỗi học phần học viên, sinh viên phải đạt được một bậc cụ thể theo Khung năng lực ngoại ngữ dành cho Việt Nam hoặc Khung tham chiếu châu Âu để làm căn cứ để kiểm tra đánh giá trình độ sau mỗi học phần của môn học. Việc cụ thể hoá bậc năng lực ngoại ngữ cần đạt được sau mỗi khoảng thời gian nhất định có vai trò quan trọng, bởi xác định được mục tiêu cụ thể sẽ có tác động tích cực đến các khâu khác của quá trình đào tạo như xây dựng chương trình, tổ chức giảng dạy, kiểm tra đánh giá. Các bậc năng lực tiếng Pháp được đề xuất như sau: Kết thúc học phần 1 (tiếng Pháp 1), học viên sinh viên đạt được trình độ A1.1, hết học phần 2 (tiếng Pháp 2) là trình độ A1, học phần 3 (tiếng Pháp 3) là trình độ A2. Cụ thể: Kết thúc học phần 1, học viên, sinh viên có thể nắm được một số cách diễn đạt thân mật và hàng ngày được sử dụng trong những tình huống giao tiếp thường xuyên cũng như những cách nói 107KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v đơn giản dùng để đáp ứng một số nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống xã hội; có thể tự giới thiệu bản thân, có thể đặt và trả lời các câu hỏi liên quan, ví dụ : quốc tịch, tuổi tác, nơi ở, trường học, có thể tham gia một cuộc trò chuyện thông thường, bằng cách nói đơn giản (tập trung vào một hoặc hai từ) và nhờ đến tiếng mẹ đẻ hoặc ngôn ngữ khác được chấp nhận nếu người trò chuyện cùng nói chậm rõ ràng đồng thời tỏ ra hợp tác và khoan dung. Kết thúc học phần 2, học viên, sinh viên có thể hiểu và sử dụng các cấu trúc quen thuộc thường nhật và các từ ngữ cơ bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp cụ thể. Có thể tự giới thiệu bản thân và người khác và có thể trả lời những thông tin về bản thân mình như sống ở đâu, biết ai và có cái gì. Có thể giao tiếp đơn giản nếu người đối thoại nói chậm và rõ ràng và sẵn sàng hợp tác giúp đỡ. Kết thúc học phần 3, học viên, sinh viên có thể hiểu được các câu và cấu trúc thường xuyên được sử dụng liên quan đến nhu cầu giao tiếp tối cần thiết (chẳng hạn như các thông tin về gia đình, bản thân, đi mua hàng, hỏi đường, việc làm. Có thể giao tiếp về những chủ đề giao tiếp đơn giản, cần ... about on their own as well as with friends. Men and women mix freely. Self-reliance and independence: Children are early gone to school to learn “self-reliance”, ‘independence”. These values are developed and enhanced in British people’s lives. The British don’t subscribe to clinging. Hard work: British people are pressured and constrained by time because they are trying to control it. People shouldn’t waste or kill time. They must rush to get things done. They must follow their schedules to be productive. Their hard work is measured by the numbers of hours worked in a week. Many people often work several hours overtime a week. 3.4.2. Attitudes The love of nature: British have an idealized vision of the countryside. They are known as a nation of gardeners. Many people in Britain are proud of their houses and gardens. They want their houses and gardens to look nice. Every town in Britain has one or more DIY (Do it yourself) centers and garden centers. The love of animals: The British tend to have a sentimental attitude to animals. Nearly half of the households in Britain keep at least one domestic pet. When these pets die, British buried 114 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI them in their back gardens. The status of these pets is taken seriously. For example, it is illegal to run over a dog in your car and then keep on driving. You have to stop and inform the owner. Dresses: Style of dress depends more on personal preference than on position or rank: don’t be surprised to find lecturers in jeans or sweaters. British are very particular about the way they dress. The citizens always dress according to the occasion. Food: The eating habits of British are varied. However, despite regional and cultural disparities a few common benchmarks can be delineated. Usually, British people are fond of good food and they love to eat Italian, Indian and Chinese dishes. Drink: The attitude to alcohol in Britain is ambivalent. On the one hand, it is accepted and welcomed as an integral part of British culture. The local pub plays important role in almost every neighborhood and pubs, it should be noted, are predominantly for drinking of beer and spirits. Even a certain level of drunkenness is acceptable. Provided this does not lead to violence, there is no shame attached to it. A love for tea is almost a common trait among all British people. Britain is a tea-drinking nation. Entertainment: People enjoy various indoor and outdoor activities in Britain. The weekends are a time for families in Britain. Going shopping is popular with many families; especially Saturdays are a busy time for shops. Going to the pub is the most popular leisure activity outside the home.Sports and physical recreation has always been popular. Local governments provide cheap sport and leisure facilities such as swimming pools, tennis courts, parks and golf courses. Meals: Meals tend to be eaten quickly and the table clearly. Parties and celebrations are not normally centered on food. The evening meal is the main meal of the day in most parts of Britain. Eating out has grown in popularity. British are happy to have a business lunch and discuss business matters with a drink during the meal. 3.4.3. Communication styles Politeness: British are very polite. It is an important value in British society, often accomplished by some rather pointless exchanges of pleasantries. When entering a business meeting, expect to spend the first 10 minutes exchanging niceties before moving into business. In a restaurant, people will have to say thank you when they get the menu, thank you when they place the order, thank you when getting your dishes, thank you when the waiter takes away the plates and even thank you when paying! It is very good manners to say “please” and “thank you”. It is considered rude if people don’t. You will notice in England that people say “thank you” a lot. People will have to say “excuse me” if they want to pass someone and “I’m sorry” if accidentally touch someone. Indirectness: The British, in particular the English, are renowned for their politeness and courtesy. So “indirectness” is a key element of British culture and is a fundamental aspect of British communication style. When doing business in Britain you generally find that direct questions often receive evasive responses and conversations may be ambiguous and full of subtleties. Formality and informality: The British have both formality and informality; depend on different situations, roles and environment. Most people use the courtesy titles or Mr., Mrs. or Miss and their surname. However, if communicating with someone they know well, their style may be more informal, although they will still be reserved. First names usage and the lack of formal ritual are typical. People often call each other by their first names where in other countries people use last names. Humor: Humor is a vital element in all aspects of British life and culture is the renowned British sense of humor. The importance of humor in all situations, including business contexts, cannot be overestimated. It is used in numerous ways: to establish a positive atmosphere, to create a 115KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v sense of togetherness, to bridge differences, to introduce risky ideas, to criticize, to show appreciation or contempt of a person. British people joke about everything including the queen, politicians, religion, themselves. Understatement: British always understate what they do. For example, depending on the tone “Not bad” can actually mean “very good” and “not bad at all” might be the highest praise you ever get from a British person. Friendliness and stiff upper lip: British are also very “quiet” and keep to themselves. There is a proper way to act in most situations and the British are sticklers for adherence to protocol. This can be hard if you want to make friends with them. Friendships take longer to build; however, once established they tend to be deep and may last over time and distance. “Stiff upper lip” is a term often used to describe the traditionally British portrayal of reserve and restraint when faced with difficult situations. Although the British are generally seen as being reserved, you will find that in the North of England, people are usually quite friendly. They will appreciate it if you make a chat about the weather or take an interest in local affairs. Especially as a man, you might have to get used to the fact that many (older) people address you as “Love”. Don’t worry, they don’t have amorous intentions. 4. CONCLUSION It is obvious that these course books are not cultural material sources but we can recognize that every text, conversation or activity contains cultural contents which are very vital to master English language the best. With the large cultural knowledge, the learners of English foreign language will know how to behave or communicate better and may gain English language more easily and effectively. As mentioned above, teaching and learning a second language is teaching and learning second culture. It is essential to learn it right when we start to learn a language. Hence, good methods for integrating culture teaching into English language teaching need to be focused and discussed, especially when teaching the communicative course books “New Headway” for students of the People police University. It is the foreign language teachers’ responsibility to find practical solutions to this problem to integrate culture teaching into their language teaching in one way or another. First of all, the teachers should provide the students with the knowledge of English speaking cultures which are considered the effective means of mastering English language and gaining good communication. In other words, the teachers should raise the students’ awareness and attitudes of the importance of culture in learning English and make sure that the knowledge of culture which students are exposed to be most benefit to them. Secondly, the teachers ought to help the students understand more about the cultural values and be aware of cultural differences. It means the students may be pointed out whether certain behaviors, attitudes, lifestyles, etc. are appropriate in English, Vietnamese cultures in certain situations. From that fact, students may relate to the native culture and give a comparison between English speaking cultures and the native culture. Subsequently, the teachers need to plan the cultural lessons and activities as carefully as language activities and integrated into lesson plans. If the cultural lessons are prepared carefully, they will transfer fully cultural knowledge to their students. Lastly, when using New Headway textbooks, the teachers are advised to create chances of social interactions for students because one of the best ways to teach social English is by social situations. Through the texts or activities, the teachers may help students recognize which behaviors are accepted in British. In short, teaching English cannot be separated from teaching its culture. In order to help the students master English effectively via 116 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI the textbooks “New Headway”, cultural elements should be highlighted by the teachers during the language lessons. Also, it should be noted gradually that it is necessary to teach culture to the students so that they can overcome all difficulties or culture shock in real-life communication. Reference: 1, Bentahila, A., & Davies, E. (1989). “Culture and language use: A problem for foreign language teaching”. IRAL, 27(2), 99-112. 2. Bock, Philip K. (1970). Culture Shock: A Reader in Modern Cultural Anthropology. New York: A. A. Knoph Company. 3. Brown, G. (1990). “Cultural values: The interpretation of discourse”. ELT Journal, 44(1), 11-17. 4. Claire Kramsch. (1998). Language and Culture. Oxford. Oxford University Press. 5. Kramsch, C. (1993). Context and culture in language teaching. Oxford: Oxford University Press. 6. Levine, Lawrence W. (1993). The Unpredictable Past: Explorations in American Cultural History. Oxford. Oxford University Press. 7. Soars, L & Soars, J. (2003). New Headway Elementary Students Book. Oxford: Oxford University Press. 8. Soars, L & Soars, J. (2003). New Headway Intermediate Students Book. Oxford: Oxford University Press. 9. Soars, L & Soars, J. (2003). New Headway Pre-intermediate Students Book. Oxford: Oxford University Press. 10. Nguyen Quang. (1983). Intercultural Communication. Vietnam National University - Hanoi College of Foreign Languages. 11. Politzer, R. (1959). “Developing Cultural Understanding through Foreign Language Study”, Report of the Fifth Annual Round Table Meeting on Linguistics and language Teaching, pp. 99-105, Washington, D.C, Georgetown University Press. 12. Saville-Troike, Muriel. (1982). The Ethnography of Communication: An Introduction. Oxford and Cambridge, MA: Blackwell. 13. Tavares, R., Cavalcanti, I. (1996). “Developing Cultural Awareness”. English Teaching Forum. Vol. 34, No 3-4, July – October 1996, Washington: The United States Information Agency, pp. 19-23. 14. Valdes, J.M. (1986). Culture Bound: Bridging the cultural gap in language teaching, Cambridge: Cambridge University Press. 15. Wardhaugh, R. (1972). Introduction to Linguistics. McGraw-Hill Book Company. 16. Wiseman, Richard L. (2003). “Intercultural Communication Competence”, in: Gudykunst, William B (ed.), Cross-Cultural and Intercultural Communication, 191-208, Thousand Oaks: Sage. 117KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v APPENDIX 1. The frequency of occurrence of British cultural elements in New Headway textbooks British Cultural Elements The frequency of cultural elements in New Headway textbooks Elementary (14 units) Pre-intermediate (14 units) Intermediate (12 units) Norms - Non-verbal behavior - Gift giving - Queuing - Driving - Table manners - Punctuality Unit 11 Units 5,9 Unit 13 Unit 2 Units 4, 8 Unit 4, 8 Unit 6 Units 4,11 Unit 4 Attitudes Unit 5 Units 5,9 Unit 9 Units 3,4,11,12,14 Unit 9 Units 4,5 Unit 5 Unit 14 Unit 1 Unit 13 Units 1,2,10 Unit 13 Units 2,6,9,11 Units 2,3,5,6 Unit 2 Unit 6,7 Units 2,8 Units 2,4 -The love of nature -The love of animals - Dresses - Food - Drink - Entertainment - Meals Communication Styles Units 1,2,3,4,5,8,13,14 Unit 8 Units 2,6 Unit 13 Units 3,4,9,12 Unit 8 Units 10,14 Units 2,8,13 Units 5,7,12 Units 6,11,12 Units 8,9 Unit 11 Unit 2 Units 4,7,9,10 - Politeness - Indirectness - Formality & informality - Humor - Understatement - Friendliness & stiff upper lip 2. Examples: Politeness: In a snack bar (Unit 2 – Elementary) A: Good morning. B: Good morning. Can I have an orange juice, please? A: Here you are. Anything else? B: No, thanks. A: Ninety, please. B: Thanks. A: Thank you. Food: (Tape script: Unit 9 - Elementary) Marian: Well, I love vegetables, all vegetables – I eat meat too – but not much. I think this is why I like Chinese food so much. There are lots of vegetables in Chinese food. Yes, Chinese is my favorite food, I like the noodles too. Can you eat with chopsticks? I can. Lucy: Oh, no question, no problem. I know exactly what my favorite food is. Pasta. All pasta. Especially spaghetti. Pasta with tomato sauce – and I like it best when I’m in Italy. I went on holiday to the Italian lakes last year. The food was wonderful.. 118 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI A STUDY ON BRISTISH CULTURAL ELEMENTS VIA LINGUISTIC MEANS IN NEW HEADWAY TEXTBOOKS LE HUONG HOA, DAO THI LE MAI Abstract: When trying to communicate with people from different cultures and languages, the possibility of miscommunication increases. Understanding a language involves not only knowledge of grammar, phonology and lexis but also certain features and characteristics of the related culture. However, the cultural elements in the New Headway textbooks seem to be neglected during the teaching and learning of English at the People’s Police University (PPU). Thus, this study was undertaken to highlight the cultural elements in the Elementary, Pre-intermediate and Intermediate textbooks so that the learners of English at the PPU can communicate appropriately during and after using the “New Headway” course materials. In addition, the authors also offer suggestions for incorporating cultural elements into language teaching so that English learning and teaching at the PPU can become more interesting and effective. Keywords: New Headway textbooks, linguistic means,cultural elements. Received: 30/12/2016; Revised: 29/4/2017; Accepted for publication: 28/6/2017
File đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_kiem_tra_danh_gia_mon_tieng_phap_theo_ch.pdf