Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ và kéo theo sự thay đổi

nhanh chóng đời sống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực. Bản chất của cách mạng công

nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông

minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Giáo dục lý luận chính trị trong các

trường đại học cũng phải thay đổi để thích ứng với những tác động đó. Việc đổi mới dạy

và học các môn lý luận chính trị tại các trưởng cao đẳng và đại học đạt được những kết

quả nhất định, song vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Những hạn chế đó là trở ngại, giảm tính

hiệu quả trong việc dạy và học các môn lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng 4.0.

pdf 11 trang kimcuc 5340
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY 
VÀ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
Nguyễn Thu Hạnh 
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ và kéo theo sự thay đổi 
nhanh chóng đời sống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực. Bản chất của cách mạng công 
nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông 
minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Giáo dục lý luận chính trị trong các 
trường đại học cũng phải thay đổi để thích ứng với những tác động đó. Việc đổi mới dạy 
và học các môn lý luận chính trị tại các trưởng cao đẳng và đại học đạt được những kết 
quả nhất định, song vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Những hạn chế đó là trở ngại, giảm tính 
hiệu quả trong việc dạy và học các môn lý luận chính trị trong bối cảnh cách mạng 4.0. 
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, lý luận chính trị, đại học, khoa học công nghệ 
Nhận bài ngày 19.1.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 20.2.2019 
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thu Hạnh; Email: nthanh@hnmu.edu.vn 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chính trị gắn với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không có lĩnh vực nào của đời 
sống xã hội hiện đại lại đứng ngoài chính trị, từ vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa đến xây 
dựng đạo đức, lối sống; từ sự đánh giá về quá khứ đến dự báo tương lai... đều phải có định 
hướng chính trị rõ ràng. Theo đó, nội dung của các môn lý luận chính trị (LLCT) là rất 
rộng, từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính 
sách và pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, 
đối ngoại... 
Đối với sinh viên (SV), việc học tập các môn LLCT và quán triệt nghiêm túc nội dung 
LLCT có ý nghĩa quan trọng. Học tập và quán triệt nội dung các môn LLCT giúp SV có 
trình độ và năng lực tư duy lý luận khoa học, có quan điểm đúng đắn, lập trường cách 
mạng vững chắc và phương pháp luận khoa học, là điều kiện để SV chủ động, tự tin vươn 
lên làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. 
Thế giới ngày nay đang trải qua những thay đổi lớn lao chưa từng có. Cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư - còn được gọi là cách mạng công nghiệp thế hệ 4.0 (CMCN 4.0) - 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 69 
đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đến mọi mặt của 
cuộc sống con người trong thế kỷ 21. Cuộc cách mạng này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền 
kinh tế, xã hội toàn cầu, trong đó có có việc dạy và học các môn LLCT. Nó đặt ra những 
vấn đề cấp bách cho giáo dục đại học nói chung và việc dạy và học các môn LLCT nói riêng. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Thực trạng việc dạy và học các môn LLCT của SV các trường đại học, cao 
đẳng hiện nay 
Mặc dù Đảng và Nhà nước rất quan tâm và coi trọng giáo dục LLCT trong các trường 
đại học, cao đẳng, tuy nhiên, việc dạy và học tập các môn LLCT còn chưa tương xứng, còn 
nhiều vấn đề bất cập. 
Một là, sự bất hợp lý trong kết cấu chương trình các môn LLCT 
Theo Quyết định 52/2008/QĐ-BGDĐT (Quyết định ban hành chương trình các môn 
LLCT trình độ cao đẳng, đại học cho SV khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh), các môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ 
nghĩa xã hội khoa học đã hợp thành một môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác 
- Lênin; môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đổi thành môn Đường lối cách mạng của 
Đảng Cộng sản Việt Nam; môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh được giữ nguyên. 
Việc kết cấu lại chương trình, nội dung các môn LLCT đã giảm tải thời lượng học các 
môn LLCT vốn được xem là “nặng” đối với SV. Bên cạnh đó, việc ra đời môn Những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin thay cho ba môn học bộ phận trước đây có 
thể giúp cho SV nhận thấy được tính thống nhất và logíc của học thuyết Mác - Lênin. 
Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình môn học như trên đã xuất hiện một số bất cập 
“lớn” trong quá trình dạy và học tập như sau: 
Thứ nhất, sự hợp nhất trong nội dung môn học không đạt được sự thống nhất như 
mong muốn, bởi vì đã là một môn khoa học phải có đối tượng, phạm vi và phương pháp 
nghiên cứu riêng của nó. Mỗi bộ phận trong chủ nghĩa Mác - Lênin có tính khu biệt về đối 
tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu của mình. Như 
vậy, không làm rõ đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu riêng, thì rất khó có thể 
coi môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là một môn khoa học. 
Thứ hai, khi thay đổi kết cấu nội dung, chương trình các môn LLCT, đi liền với nó là 
sự giảm số tiết học đã đưa các khoa, bộ môn LLCT ở các trường đại học, cao đẳng tiến 
thoái lưỡng nan trong việc bố trí giảng viên (GV) giảng dạy sao cho đúng chuyên ngành 
70 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
được đào tạo và bảo đảm chất lượng đào tạo. Đối với môn Những nguyên lý của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, có trường cho SV học trong 1 kì và giao cho 1 GV đảm nhiệm; có trường cho 
học trong 1 kì và cử 3 GV giảng dạy từng phần theo chuyên môn được đào tạo. Hầu hết 
các trường chia môn học thành 2 phần: Nguyên lý 1 (phần 1: 2 tín chỉ), Nguyên lý 2 (phần 
2 và 3: 3 tín chỉ). Nhìn chung, việc bố trí GV giảng dạy LLCT ở hầu hết các trường đều 
xáo trộn. Một GV có thể phải dạy cả phần triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội, 
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Như vậy, một mâu thuẫn lớn là GV dạy các môn LLCT thường chỉ được đào tạo 
chuyên sâu một chuyên ngành, nay họ phải dạy cả những môn trái chuyên ngành. Mặc dù, 
các trường đã cử GV đi tập huấn kiến thức theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ 
chức. Song dù có chứng chỉ bồi dưỡng, GV vẫn không có được kiến thức chuyên sâu. Một 
khi người dạy hiểu chưa sâu sắc thì không thể truyền thụ và giúp SV hiểu sâu sắc về kiến 
thức môn học. Nhiều GV dạy trái chuyên môn có tâm lý “chán nản”, không tâm huyết với 
nhiệm vụ. 
Hai là, đặc thù các môn LLCT có tính trừu tượng, lại nặng về lý thuyết hàn lâm, làm 
cho SV ngại học 
Thực tiễn đã có nhiều thay đổi, nhưng trong nội dung các môn LLCT vẫn nặng tính 
hàn lâm, ít có sự bổ sung, phát triển, nhiều vấn đề về kinh tế thị trường, nhà nước pháp 
quyền, dân chủ, nhân quyền, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức... còn rất mờ nhạt, làm cho 
SV cảm thấy khô khan, khó hiểu, xa rời thực tiễn. Điều đó dẫn tới việc SV đã ngại học 
càng trở nên “nản học” các môn lý luận chính chị. 
Giáo trình và tài liệu học tập được biên soạn lại theo một chương trình khung và chuẩn 
quốc gia. Các kiến thức được bố trí theo kiểu “nhồi nhét”; tính gợi mở, tính mềm hóa bị 
thủ tiêu, làm cho người học khó lĩnh hội kiến thức. 
Ba là, thực hiện học chế tín chỉ đã làm cho thời lượng học giảm nhiều trong khi SV 
chưa thực sự có ý thức tự học, tự nghiên cứu 
Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục đại học theo học chế tín chỉ, số tiết dạy - học 
trên lớp của các môn LLCT giảm lớn: Trước năm 2009, số tiết môn Triết học Mác - Lênin 
là 90 đối với hệ đại học, 75 tiết hệ cao đẳng; môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin là 75 tiết 
(hệ đại học), 60 tiết (hệ cao đẳng) cho các ngành không chuyên kinh tế và quản trị kinh 
doanh, 120 tiết (hệ đại học) và 90 tiết (hệ cao đẳng) đối với các ngành chuyên kinh tế và 
quản trị kinh doanh; môn Chủ nghĩa xã hội khoa học là 60 tiết cho hệ đại học và 45 tiết 
cho hệ cao đẳng; môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là 45 tiết; môn Tư tưởng Hồ Chí 
Minh là 30 tiết cho tất cả các ngành. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 71 
Như vậy, tổng số tiết các môn LLCT như sau: 
Hệ đại học: 
Các ngành không chuyên kinh tế và quản trị kinh doanh: 300 tiết; 
Các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh: 345 tiết. 
Hệ cao đẳng: 
Các ngành không chuyên kinh tế và quản trị kinh doanh: 255 tiết; 
Các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh: 285. 
Hiện nay, số tiết các môn LLCT ở các trường cao đẳng, đại học như sau: Môn Những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin có 5 tín chỉ, môn Đường lối cách mạng Việt 
Nam có 3 tín chỉ, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có 2 tín chỉ. Việc thực hiện tín chỉ ở các 
trường cũng rất khác nhau, hầu hết các trường vẫn áp dụng số tiết tín chỉ như niên chế: 1 
tín chỉ = 15 tiết; có trường thực hiện 1 tín chỉ = 22,5 tiết, nhưng những trường này lại quy 
định giờ học trên lên lớp chỉ có 2/3 thời lượng, tự nghiên cứu 1/3 thời lượng, như thế số 
tiết trên lớp vẫn không khác gì 1 tín chỉ = 15 tiết. 
Như vậy, số tiết học trên lớp của các môn LLCT áp dụng cho tất cả các ngành không 
chuyên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hệ đại học và cao đẳng hiện nay rất 
“nghèo nàn”. Nếu cộng một cách cơ học, các môn LLCT sẽ có số tiết là: 75 tiết (môn 
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin) + 45 tiết (môn Đường lối cách mạng 
của Đảng Cộng sản Việt Nam) + 30 tiết (môn Tư tưởng Hồ Chí Minh) = 150 tiết. Thậm 
chí, một số trường đã áp dụng dạy học theo hình thức online, tiếp tục cắt giảm số tiết trên 
lớp chỉ còn lại 2/3. Với thời lượng học trên lớp ít như vậy, trong khi khối lượng kiến thức 
lại lớn, GV không thể truyền thụ được sâu sắc kiến thức môn học, lại càng không có điều 
kiện tổ chức học tích cực, còn SV lĩnh hội kiến thức theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Việc 
quy ước rằng SV phải tự học, tự nghiên cứu ở nhà cũng là một điều khó. Việc học ở nhà, 
GV phải giao bài tập, tổ chức thảo luận, semina, phải có tiêu chí kiểm tra đánh giá việc học 
ở nhà của SV... Đây quả thực cũng là một công việc mà không phải GV nào hay bài nào 
GV cũng có thể làm được. 
Bên cạnh việc giảm tiết, nhiều trường đã thực hiện ghép lớp. Các lớp được học tại hội 
trường lớn với sĩ số lên tới trên 100, thậm chí 200 SV. Thành phần SV thì đa dạng các 
chuyên ngành. Những hệ lụy của việc học các môn học này càng to lớn. Do lớp đông nên 
GV khó kiểm soát lớp học, GV không thể thực hiện các phương pháp dạy học tích cực, 
thuyết trình trở thành “phương pháp vạn năng”, quan hệ tương tác giữa người dạy và người 
học không thể thực hiện được. Một số SV ngồi học theo kiểu có mặt điểm danh. Chất 
lượng dạy và học môn học bị giảm sút, kết quả học tập thấp, điều đó càng làm cho SV cảm 
thấy xa rời các môn LLCT. 
72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
Việc giảm tiết, ghép lớp đã làm giảm khối lượng công việc của GV giảng dạy các môn 
LLCT; thêm vào đó, nhiều trường không tuyển sinh đủ SV. Cho nên có trường, một năm, 
mỗi GV chỉ dạy 1 lớp; có trường, GV phải chuyển sang làm các công việc không đúng 
chuyên môn; thậm chí có trường cho GV nghỉ việc không lương và vào danh sách cắt giảm 
biên chế. 
Bốn là, trình độ và phương pháp giảng dạy các môn LLCT còn nhiều hạn chế 
Để giảng dạy lý luận tốt, các GV phải có trình độ lý luận; đồng thời cần có vốn sống, 
vốn hiểu biết xã hội dầy dặn; không chỉ có kinh nghiệm thực tiễn và mà còn cần có tư duy 
trừu tượng hóa, khái quát hóa. 
Bên cạnh nhiều GV đã sử dụng tốt giáo án điện tử, sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh, phim tư 
liệu; seminar, thảo luận vẫn còn một bộ phận không nhỏ GV còn chậm đổi mới phương 
pháp. Một số GV sử dụng giáo án điện tử chưa hiệu quả, theo kiểu chiếu chữ trên màn 
hình. Ở một số trường, cơ sở vật chất thiếu thốn, không có máy tính, máy chiếu, loa, tài 
liệu học tập... nên GV khó áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực. Tình trạng thầy cô 
đọc, trò chép vẫn còn nhiều. Giờ học thiếu tính đối thoại làm cho các tiết giảng trở nên 
nhàm chán, SV không hứng thú học tập. 
Năm là, SV thiếu hụt nền tảng kiến thức lịch sử, xã hội và ít trải nghiệm thực tiễn 
Để học tốt các môn LLCT, SV phải có nền tảng kiến thức khoa học xã hội. Tuy nhiên, 
trong những năm gần đây học sinh phổ thông ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội, 
nhất là môn lịch sử, trừ một số học sinh chọn khối thi đại học có các môn xã hội. Lỗ hổng 
về kiến thức xã hội ở phổ thông là một trở lực khiến SV khó tiếp thu kiến thức các môn 
LLCT. 
Bên cạnh thiếu nền tảng kiến thức xã hội, SV Việt Nam còn ít trải nghiệm thực tiễn, ít 
hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế và trong nước, nên càng khó khăn 
hơn khi học tập LLCT. 
Bảy là, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song còn 
tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập cũng ảnh hưởng tới niềm tin, lý tưởng xã hội chủ 
nghĩa, tinh thần học tập LLCT của SV 
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt 
được những thành tựu đáng tự hào. Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng và đang trên đà 
phát triển. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp nên thành quả mà chúng ta đạt được còn 
chưa bắt kịp được với xu thế phát triển như vũ bão về kinh tế, xã hội toàn cầu. Nhiều mặt 
trái của kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa thời kì đầu và hội nhập quốc tế đã 
nảy sinh, như: tình trạng phân hóa giàu nghèo ra tăng; nạn tham nhũng, quan liêu trở thành 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 73 
gánh nặng xã hội; tình trạng suy thoái về đạo đức xã hội, tình trạng mất dân chủ, tình trạng 
người lao động bị bóc lột, nạn thất nghiệp... xuất hiện ngày càng nhiều. 
Trong bối cảnh như vậy, tư tưởng của SV cũng bị ảnh hưởng làm cho họ bị mất 
phương hướng và định hướng giá trị. Niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa vì thế bị tác 
động, SV vốn đã không thích học các môn LLCT nay lại càng suy giảm động lực để tiếp 
thu kiến thức các môn học này. 
2.2. Tác động của cách mạng 4.0 tới việc dạy học các môn LLCT 
Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì? 
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong 
công nghệ sản xuất. Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp 
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh 
những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, 
công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... Nó bao gồm các hệ thống 
không gian mạng, Internet vạn vật và điện toán đám mây. Qua đó, người ta tạo ra những 
nhà máy thông minh với hệ thống máy móc tự kết nối với nhau, tự tổ chức và quản lí. Đây 
còn được gọi là cuộc cách mạng số, vì chúng ta sẽ được chứng kiến công cuộc “số hóa” thế 
giới thực thành thế giới ảo. 
Điều khác biệt giữa CMCN 4.0 với ba cuộc cách mạng trước đó là CMCN 4.0 không 
gắn với sự ra đời của một công nghệ nào cụ thể mà là kết quả hội tụ của nhiều công nghệ 
khác nhau, trong đó trọng tâm là công nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông 
tin - truyền thông. Cuộc cách mạng này trực tiếp nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết 
hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Nó 
sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. Những 
yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối 
- Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). 
Cuộc cách mạng 4.0 có thể tạo ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động trên cả thế giới 
và Việt Nam. Bởi một khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, số 
lượng người lao động mà máy móc có thể thay thế được sẽ bị dư thừa và các công việc an 
toàn với thu nhập cao hơn có thể sẽ gia tăng. Chính vì vậy, lao động nghề, lao động trình 
độ thấp phải không ngừng trau dồi để nâng cao tay nghề, làm sao để năng suất tối ưu hơn 
những dây chuyền sản xuất tự động. Lao động trình độ cao, bác sĩ, kĩ sư, giáo viên cũng 
phải không ngừng học hỏi, không ngừng cầu tiến, vì sự phát triển của máy móc đang theo 
rất sát đằng sau chúng ta. Như vậy, trong một thị trường việc làm vốn đã rất gay gắt bởi 
những cuộc cạnh tranh giữa người với người, bây giờ người ta còn phải cạnh tranh thêm 
với cả robot. Có thể hình dung, cách mạng 4.0 sẽ tiến tới loại bỏ những công việc phổ 
thông hoặc mang tính chất lặp đi lặp lại, thay thế toàn bộ bằng máy móc. Nhưng đồng thời, 
74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề cao, tư duy sáng tạo, thực hiện những công việc 
phức tạp, làm chủ máy móc lại tăng lên. 
CMCN 4.0 lần này cũng đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với các nước đang phát 
triển như Việt Nam. Đó là thách thức tụt hậu xa hơn, lao động chi phí thấp mất dần lợi thế, 
khoảng cách công nghệ và tri thức nới rộng hơn dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn... 
Chính phủ, các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở giáo dục của Việt Nam 
cần phải nhận thức được, sẵn sàng thay đổi và có chiến lược phù hợp cho việc phát triển 
công - nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế hay nguồn nhân lực. Trong tương lai, năng lực sẽ 
trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất. Điều đó sẽ tạo nên một sự gia tăng trong thị 
trường việc làm và ngày càng phân hóa theo hai nhóm: Nhóm kỹ năng thấp/trả lương thấp 
và nhóm kỹ năng cao/trả lương cao. Điều này sẽ góp phần làm gia tăng những mâu thuẫn 
trong xã hội. 
2.3. Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc dạy và học các môn 
LLCT 
Theo các chuyên gia trong ngành giáo dục, trong thời đại mới, người ta sẽ không còn 
quá quan trọng đến một tấm bằng một cách hình thức, đến nguồn gốc xuất thân hay những 
mối quan hệ, vấn đề là kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng... Trong cuộc CMCN 4.0, 
cơ hội dành cho tất cả mọi người là như nhau. Ai có năng lực thực sự, có trình độ chuyên 
môn tốt, có kỹ năng và có thể tạo ra nhiều giá trị cho xã hội, người đó sẽ thành công. 
Đối với các trường đại học, CMCN 4.0 đòi hỏi phải đào tạo ra nguồn nhân lực có các 
kỹ năng mới và trình độ giáo dục cao hơn so với 10 năm trước, bởi thị trường đòi hỏi lao 
động có trình độ giáo dục và đào tạo cao hơn. 
Thực tế hiện nay, giáo dục đại học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà 
tuyển dụng. 
Cuộc CMCN 4.0 có ảnh hưởng trực tiếp, lớn nhất đến giáo dục nói chung và các môn 
LLCT nói riêng gắn liền trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực. Tác động trực tiếp thấy rõ đó là 
giúp thay đổi tư duy và cách tiếp cận về mô hình đại học. Trường đại học không chỉ là nơi 
đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, 
mang giá trị cho xã hội. Trường không chỉ đóng khung trong các bức tường của giảng 
đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà phải mở rộng liên kết, kết nối. Đây là một thách 
thức không nhỏ tới việc dạy và học các môn LLCT. Các môn LLCT cũng phải góp phần 
đào tạo ra những con người có năng lực tư duy, sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và 
tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích 
các chứng cứ và dữ liệu. Đây cũng là những kỹ năng mà SV Việt Nam đang thiếu nhiều nhất. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 75 
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ đã đem lại việc giảng dạy 
đại học ở Việt Nam những thách thức mới, đòi hỏi những nỗ lực hết mình để theo kịp thời 
đại và để có thể cùng tham gia vào quá trình “kinh tế tri thức”. Khái niệm “biết đọc” cũng 
đã được định nghĩa lại để bao gồm “biết đọc công nghệ”. Điều đó đã tạo ra một nhu cầu rất 
lớn của xã hội đối với ngành giáo dục mà trong đó giáo viên là đối tượng cần phải “biết 
đọc công nghệ” để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong việc truyền tải kiến thức 
đến người học. “Những mô hình đại học truyền thống đang bị thách thức. Cuộc cách mạng 
sẽ làm thay đổi bản chất của trường đại học truyền thống, tạo điều kiện cho đại chúng hóa 
giáo dục đại học phát triển”. 
Đứng trước xu thế của sự phát triển, đối với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ 
kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một 
nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục đào tạo từ chủ yếu theo 
số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo 
dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng 
cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ 
là yếu tố quan trọng của năng lực. 
Còn với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận 
dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học trong sách vở, qua tài 
liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng 
đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với SV là người lao động trong tương lai cần thay đổi 
suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời để làm việc cả đời. 
Tức là phương pháp giảng dạy cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức 
giáo dục. Qua đó, hình thức giáo dục sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với 
điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E- learning hay sử dụng ứng dụng công nghệ điện 
toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học và thu 
thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục và linh hoạt. 
2.4. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc học tập các môn LLCT cho SV 
Thứ nhất, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học giúp giáo viên nâng 
cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. 
Cụ thể, các thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn 
được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử 
dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Ngoài ra, ứng dụng CNTT trong dạy 
học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và 
nâng cao chất lượng giáo án của mình. SV được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp 
dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và 
học trò cũng được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm 
cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp SV thêm tự tin mà còn để 
76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ 
đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học. 
Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với CNTT trong lớp học còn mang đến cho SV 
những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây sẽ là nền 
tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước 
lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của SV. 
Thứ hai, kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với các phương pháp giảng dạy 
hiện đại. 
Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp mà trong đó chủ yếu là thầy nói, 
trò nghe. Hiện nay, chưa có một phương pháp giảng dạy hiện đại nào có thể thay thế hoàn 
toàn phương pháp giảng dạy truyền thống, mặc dù các phương pháp giảng dạy truyền 
thống cụ thể như thuyết trình còn tồn tại nhiều hạn chế như: không khuyến khích được tính 
chủ động của người học, người học muốn học tốt phải lắng nghe, cố ghi chép, cố nhớ kiến 
thức thay vì sáng tạo trong quá trình học tập. Để khắc phục những mặt hạn chế nêu trên, 
cần thiết phải có sự kết hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại với nhau, cụ 
thể như: kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp làm việc nhóm, giữa 
phương pháp thuyết trình với phương pháp sử dụng tình huống, giữa phương pháp thuyết 
trình với phương pháp thực tập 
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng 
hội nhập quốc tế. 
Nội dung, chương trình dạy học cần được triển khai theo hướng mở, cho phép cập nhật 
thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, cần thiết sử dụng giáo trình, học liệu nước 
ngoài một cách linh hoạt để mở mang sự hiểu biết cho người dạy và người học, nội dung 
giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học 
đang theo đuổi. Cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy 
người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học 
và tự nghiên cứu. 
Đối với phương pháp dạy, các môn LLCT vẫn rất cần phát huy phương pháp thuyết 
trình. Bên cạnh đó, để có một tiết giảng sinh động đem lại hứng thú và phát huy tính sáng 
tạo của SV, các GV cần áp dụng các phương tiện và phương pháp dạy học tiên tiến. Tổ 
chức các buổi thảo luận theo chuyên đề, hoạt động nhóm, trình chiếu slide, phim tư liệu. 
Tăng cường sự tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau. Đồng 
thời, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin; về đường lối, chiến lược của 
Đảng; về những vấn đề quan trọng trong thực tiễn của đất nước và quốc tế; đẩy mạnh 
phong trào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Giúp SV thấy 
được những giá trị to lớn của các môn LLCT và áp dụng vào cuộc sống của bản thân. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 77 
Thứ tư, tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, tiến tới quốc tế hóa các tiêu 
chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động chuyên môn tại các cơ sở giáo dục đại học. 
CMCN 4.0 tác động toàn cầu, đối với công tác giáo dục thì ứng dụng công nghệ khoa 
học là một tất yếu khách quan, hoạt động nghiên cứu khoa học luôn là một trong hai nhiệm 
vụ hàng đầu của bất kỳ một trường đại học nào. Kết hợp ứng dụng kết quả nghiên cứu 
khoa học trong giảng dạy luôn là một giải pháp tất yếu, một nội dung quan trọng trong tiến 
trình đào tạo đại học. Đối với mỗi trường đại học, cần đặt ra lộ trình tiến tới quốc tế hóa 
các tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa học và các hoạt động về chuyên môn trong tất 
cả các cơ sở giáo dục đại học. 
Từ lâu, việc ứng dụng thành tựu công nghệ trong dạy học đã được thực hiện ở rất 
nhiều nước phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, tuy khoảng thời gian ứng dụng công nghệ 
trong giảng dạy tại các trường học còn khá ngắn, nhưng những lợi ích của điều đó đã được 
thể hiện rõ nét. Đứng trước yêu cầu của sự tác động mạnh mẽ, sâu rộng của cách mạng 
công nghiệp 4.0 đòi hỏi chất lượng giáo viên phải được nâng cao, các phương pháp giảng 
dạy phải được thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. 
Thứ năm, cần có chính sách lương hợp lý để GV đủ sống bằng nghề của mình, chuyên 
tâm vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều 
đổi mới trong việc chăm lo đến đội ngũ giáo chức, tuy nhiên sự chăm lo đó chưa thực sự 
tương xứng với nhu cầu phát triển; chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo còn thấp; đời 
sống giáo chức còn nhiều khó khăn. Những tác động của kinh tế thị trường làm cho không 
ít nhà giáo mất động lực cống hiến. Do vậy, phải có chế độ lương phù hợp để bảo đảm 
cuộc sống cho các GV yên tâm công tác; có chính sách đãi ngộ thích đáng nhằm thu hút 
các nhà khoa học, các GV giỏi trong tham gia nghiên cứu và giảng dạy LLCT tại các 
trường đại học, cao đẳng. 
3. KẾT LUẬN 
Cuộc CMCN 4.0 có ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục nói chung và các môn LLCT nói 
riêng gắn liền trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực. Các môn LLCT cũng phải góp phần đào 
tạo ra những con người có năng lực tư duy, sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng 
hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích 
các chứng cứ và dữ liệu. 
Ứng dụng CNTT trong dạy học các môn LLCT sẽ giúp GV nâng cao tính sáng tạo, 
linh hoạt trong giảng dạy, biết vận dụng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với 
các phương pháp giảng dạy hiện đại theo hướng hội nhập quốc tế. 
78 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Cúc (2017), “Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cơ sở giáo dục 
đại học ở Việt Nam và gợi ý chính sách cho Việt Nam”, - Báo điện tử baomoi.com, ngày 
27/8/2017. 
2. Phùng Danh Cường (2017), “Dạy và học các môn LLCT ở các trường đại học, cao đẳng - 
Thực trạng và giải pháp”, - Tạp chí Lý luận chính trị, số 6-2017. 
3. Kim Huyền (2017), “Microsoft và Tập đoàn Nguyễn Hoàng thúc đẩy trường học thông minh”, 
Báo Tuổi trẻ, ngày 16/6/2017. 
4. Phan Quang Trung (2017), “Giáo dục đại học phải làm gì trước thách thức của cách mạng 
công nghiệp 4.0?”, - Báo điện tử giaoduc.net.vn, ngày 22/07/2017. 
5. Phan Văn Trường (2017), “Ngành giáo dục "đón đầu" cuộc Cách mạng 4.0 ra sao?”, - Báo 
điện tử baoquocte.vn, ngày 14/4/2017. 
6. “Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?”, - Báo điện tử news.zing.vn/cach-mang-cong-nghiep-40-
la-gi-post750267.html. 
7. “Giáo dục Việt Nam trước yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0”, - Nguồn: 
mang-cong-nghiep-40/308970.vgp. 
8. “Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam và 
gợi ý chính sách cho Việt Nam”, - Báo điện tử baomoi.com.vn, ngày 27/08/2017. 
9. “Cách mạng công nghiệp 4.0 với giáo dục đại học nói chung và Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu 
nói riêng”, Báo điện tử - Trường Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 22/11/2017. 
IMPROVING THE QUALITY OF TEACHING AND LEARNING THE 
POLITICAL THEORY IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL 
REVOLUTION 4.0 
Abstract: The Industrial Revolution 4.0 has a strong impact and has led to a rapid 
change in social life in all areas. The nature of the industrial revolution 4.0 is based on 
digital technology platform and integrates all smart technologies to optimize processes 
and production methods. The Political Theory of education in universities must also 
change to accommodate those impacts. Innovations in teaching and learning political 
reasoning at college and university leaders achieve results but certain limitations exist. 
These limitations are obstacles, reducing the effectiveness of teaching and learning 
political reasoning in the context of the 4.0 revolution. 
Keywords: Revolution 4.0, Political Theory, university, science and technology... 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_chat_luong_day_va_hoc_cac_mon_ly_luan_chinh_tri_tro.pdf