Mức tiện nghi nhiệt trong các phòng học thông gió tự nhiên ở trường đại học bách khoa – Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về mức tiện nghi

nhiệt trong các phòng học được thông gió tự nhiên (có sử dụng quạt

trần) ở các phòng học của Trường Đại học Bách khoa – Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Các thông số của môi trường nhiệt

bên trong phòng được đo đạc tại nhiều vị trí đồng thời với việc khảo

sát cảm giác nhiệt của sinh viên theo thang cảm giác nhiệt của

ASHRAE. Kết quả đo đạc và khảo sát được phân tích theo tỉ lệ bình

chọn cảm giác nhiệt theo điều kiện môi trường nhiệt và giới tính. Kết

quả cho thấy phần lớn sinh viên bình chọn môi trường nhiệt ở mức

chấp nhận được, trong khi tỉ lệ sinh viên cảm thấy dễ chịu thấp hơn

50%. Sinh viên nữ có cảm giác nhiệt thiên về hướng nóng hơn sinh

viên nam ở cùng điều kiện môi trường nhiệt. Nhiệt độ tiện nghi thu

được từ tỉ lệ bình chọn trung bình là 30°C.

pdf 5 trang kimcuc 3800
Bạn đang xem tài liệu "Mức tiện nghi nhiệt trong các phòng học thông gió tự nhiên ở trường đại học bách khoa – Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức tiện nghi nhiệt trong các phòng học thông gió tự nhiên ở trường đại học bách khoa – Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

Mức tiện nghi nhiệt trong các phòng học thông gió tự nhiên ở trường đại học bách khoa – Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
130 Nguyễn Quốc Ý, Lê Thanh Thuận, Phạm Hồ Mai Anh 
MỨC TIỆN NGHI NHIỆT TRONG CÁC PHÒNG HỌC THÔNG GIÓ TỰ NHIÊN Ở 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH 
THERMAL COMFORT SENSATION IN NATURALLY VENTILATED LECTURE ROOMS IN 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF TECHNOLOGY 
Nguyễn Quốc Ý, Lê Thanh Thuận, Phạm Hồ Mai Anh 
Trường Đại học Bách khoa – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; nguyenquocy@hcmut.edu.vn 
Tóm tắt - Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về mức tiện nghi 
nhiệt trong các phòng học được thông gió tự nhiên (có sử dụng quạt 
trần) ở các phòng học của Trường Đại học Bách khoa – Đại học 
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Các thông số của môi trường nhiệt 
bên trong phòng được đo đạc tại nhiều vị trí đồng thời với việc khảo 
sát cảm giác nhiệt của sinh viên theo thang cảm giác nhiệt của 
ASHRAE. Kết quả đo đạc và khảo sát được phân tích theo tỉ lệ bình 
chọn cảm giác nhiệt theo điều kiện môi trường nhiệt và giới tính. Kết 
quả cho thấy phần lớn sinh viên bình chọn môi trường nhiệt ở mức 
chấp nhận được, trong khi tỉ lệ sinh viên cảm thấy dễ chịu thấp hơn 
50%. Sinh viên nữ có cảm giác nhiệt thiên về hướng nóng hơn sinh 
viên nam ở cùng điều kiện môi trường nhiệt. Nhiệt độ tiện nghi thu 
được từ tỉ lệ bình chọn trung bình là 30°C. 
Abstract - In this paper, a study on thermal comfort conditions in 
classrooms in Ho Chi Minh City University of Technology is 
presented. Parameters of thermal environment inside the 
classrooms are measured at many locations in each room. 
Meanwhile, survey on thermal sensation is conducted with 
questions following ASHRAE sensation scale. The measured and 
surveyed data is then analyzed to find relationships between voted 
thermal sensation and the parameters of the thermal environment. 
The results show that most students find the thermal comfort 
conditions at acceptable level while less than 50% of students feel 
comfortable. Female students feel hotter than the male ones at the 
same thermal conditions. Neutral operative temperature found 
from the votes is 30°C. 
Từ khóa - tiện nghi nhiệt; phòng học; cảm giác nhiệt; TSV 
(Thermal Sensation Votes); nhiệt độ tổng hợp. 
Key words - thermal comfort; lecture rooms; thermal sensation; 
TSV (Thermal Sensation Votes); operative temperature. 
1. Giới thiệu 
Tiện nghi nhiệt thể hiện mức độ dễ chịu của người sử dụng 
đối với môi trường nhiệt bên trong không gian sống hay làm 
việc. Cảm giác tiện nghi nhiệt phụ thuộc vào hai nhóm yếu tố 
chính: yếu tố môi trường nhiệt (như nhiệt độ không khí, bức 
xạ nhiệt từ các bề mặt xung quanh, tốc độ và độ ẩm không 
khí) và các điều kiện chủ quan của người sử dụng (mức độ 
tỏa nhiệt do vận động, khả năng cách nhiệt của trang phục, đặc 
điểm sinh lý). Do đó, việc đánh giá mức độ tiện nghi nhiệt 
của một không gian thường được tiến hành đồng thời cả hai 
việc song song: đo đạc các thông số môi trường nhiệt và khảo 
sát cảm nhận của người sử dụng [1]. 
Đối với các công trình thông gió tự nhiên, mức độ tiện 
nghi nhiệt thường được dự đoán thông qua yếu tố nhiệt độ 
môi trường và nhiệt độ tổng hợp bên trong không gian đó 
[1]. Nhiệt độ tổng hợp được tính theo công thức: 
𝑡𝑜𝑝 =
ℎ𝑐.𝑡𝑎+ℎ𝑟.𝑡𝑚𝑟𝑡
ℎ𝑐+ℎ𝑟
 (1) 
Trong đó, ℎ𝑟 = 4,7 𝑊/𝑚
2. 𝐶 là hệ số truyền nhiệt bức xạ 
trong phòng, ℎ𝑐 là hệ số truyền nhiệt đối lưu được tính 
theo trường hợp người ngồi (được lấy theo Bảng 9.6, 
ASHREA Fundamentals Handbooks [2]), 𝑡𝑎 và 𝑡𝑚𝑟𝑡 lần 
lượt là nhiệt độ không khí và nhiệt độ bức xạ trung bình 
từ các bề mặt trong phòng. Hai hệ số ℎ𝑟 và ℎ𝑐 cần phải 
được xác định cho từng trường hợp không gian và đối 
tượng khảo sát cụ thể. Trong nghiên cứu này, nhóm tác 
giả sử dụng cách tính ℎ𝑟 và ℎ𝑐 của nghiên cứu trước [2] 
do có cùng điều kiện khảo sát. 
Tiện nghi nhiệt trong các phòng học được thông gió tự 
nhiên thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu gần 
đây, đặc biệt là ở các nước có khí hậu nhiệt đới [3, 4, 5]. 
Đối tượng nghiên cứu là học sinh [3] và sinh viên [4, 5]. 
Trong các nghiên cứu này, các thông số của môi trường 
nhiệt được đo ở nhiều vị trí trong lớp học. Cảm giác nhiệt 
được khảo sát dựa theo thang cảm giác nhiệt của ASHRAE 
với 7 mức độ: rất lạnh (cold), lạnh (cool), hơi lạnh (slightly 
cool), dễ chịu (neutral), hơi nóng (slightly warm), nóng 
(warm), và rất nóng (hot). Kết quả của các nghiên cứu này 
cho thấy nhiệt độ tổng hợp cho cảm giác nhiệt dễ chịu trong 
các phòng học được thông gió tự nhiên luôn cao hơn điều 
kiện đề xuất cho các không gian được điều hòa không khí 
của ASHRAE [1]. Nhiệt độ tổng hợp tiện nghi thay đổi từ 
28,1°C [5], 28,8°C [3] và 29,5°C [4]. 
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đo đạc và khảo sát 
mức tiện nghi nhiệt trong các phòng học ở Trường Đại học 
Bách khoa thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 
(HCMUT) với mục đích chính là đánh giá mức tiện nghi 
nhiệt trong các phòng học của Trường và mức cảm giác 
nhiệt của sinh viên theo các điều kiện môi trường nhiệt ở 
thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu của nhóm tác giả 
tương tự như nghiên cứu của Nguyễn và Lê [5] cho các 
phòng học của Đại học Đà Nẵng. Tuy nhiên, điều kiện thời 
tiết ở thành phố Hồ Chí Minh ít nóng nhưng ẩm hơn ở Đà 
Nẵng. Do vậy, qua nghiên cứu, nhóm tác giả cũng muốn so 
sánh mức cảm giác nhiệt của sinh viên ở hai thành phố này. 
2. Phương pháp đo đạc và khảo sát 
2.1. Phòng học được khảo sát 
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9 đến tháng 11 năm 
2017 trong các phòng học ở cả hai cơ sở của HCMUT. 
Tổng cộng có 09 phòng học được khảo sát, bao gồm 04 
phòng ở Cơ sở 1 và 05 phòng ở Cơ sở 2, như trên Bảng 1. 
Các phòng học có hai hướng chính là Tây Bắc – Đông Nam 
và Đông – Tây và đều ở các tầng giữa của các tòa nhà. Chỉ 
có 03 phòng học ở Cơ sở 1 được che chắn hoàn toàn bởi 
cây xanh xung quanh. Các phòng còn lại hoàn toàn không 
được cây xanh che chắn. 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 5(126).2018, Quyển 1 131 
Bảng 1. Đặc điểm chính của các phòng học được khảo sát 
Phòng Hướng 
Cây xanh che chắn 
xung quanh 
Cơ sở 1 (Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh) 
303B1, 
313B1 
Tây Bắc – Đông Nam Có 
202B6 Đông - Tây Có 
401C4 Đông - Tây Không 
Cơ sở 2 (Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) 
206H6, 
113H6, 
311H6 
Tây Bắc – Đông Nam Không 
202H2, 
301H2 
Tây Bắc – Đông Nam Không 
2.2. Phương pháp đo đạc 
Các thông số của môi trường nhiệt được đo tại nhiều vị 
trí phân bố đều trong phòng học, như trên Hình 1. Tùy theo 
kích thước phòng và phân bố sinh viên trong phòng, số 
điểm đo thay đổi từ 2 đến 7. Các thông số đo đạc bao gồm: 
nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ không khí và nhiệt độ bức xạ 
trung bình từ các bề mặt trong phòng. Thiết bị đo là bộ thiết 
bị đo tiện nghi nhiệt chuyên dụng Testo 480. Các thông số 
của thiết bị đo được trình bày trên Bảng 2. 
Thời gian đo trong ngày từ khoảng 10 giờ sáng đến 16 giờ 
chiều. Trong mỗi phòng học, nhiệt độ bức xạ trung bình tmrt 
được đo ở vị trí giữa phòng sau khi thiết bị được đặt tại vị trí 
đó hơn 30 phút, khoảng thời gian đủ để có được giá trị đo ổn 
định. Các thông số khác được đo ở từng vị trí được xác định 
trước và được tính trung bình trong khoảng thời gian từ 3 đến 
5 phút, theo [1]. Ở mỗi vị trí đo, các cảm biến được đặt ở độ 
cao ngang mặt bàn, tương ứng với độ cao đo phù hợp với hoạt 
động ngồi học của sinh viên trong lớp học [1]. 
Hình 2 cho thấy thiết bị đo ở hiện trường. 
Bảng 2. Thông số thiết bị đo 
Thông số đo 
Khoảng đo; Độ phân giải; 
Độ chính xác 
Nhiệt độ không khí ta (°C) 0 – 50°C; 0,1°C; 0,5°C 
Nhiệt độ bức xạ trung bình từ 
các bề mặt tmrt (°C) 
0°C - 120°C; 0,1°C; 1,0°C 
Tốc độ gió v (m/s) 0-5,0 m/s; 0,03 m/s; 0,01 m/s 
Độ ẩm không khí RH (%) 0 – 100%; 0,1%; 1,8% 
2.3. Phương pháp khảo sát 
Phiếu khảo sát nhằm thu thập thông tin về cảm giác nhiệt 
của sinh viên trong các phòng học song song với việc đo đạc. 
Nội dung của phiếu khảo sát dựa trên mẫu của ASHRAE [1] 
và của các nghiên cứu trước đây [3, 4, 5]. Các thông tin cơ 
bản bao gồm: giới tính, tuổi, cân nặng, vị trí ngồi trong lớp 
học và trang phục. Các thông tin về cảm giác nhiệt bao gồm: 
(1) Cảm giác chung về môi trường nhiệt theo thang đo 
ASHRAE [1]; (2) Lựa chọn cảm giác thoải mái hay không 
thoải mái; (3) Cảm giác về tốc độ gió, độ ẩm; (4) Lựa chọn 
yêu thích về chỗ ngồi, giờ học, phòng học Trong bài báo 
này, nhóm tác giả tập trung vào việc phân tích hai thông tin 
đầu tiên trên phiếu khảo sát, như trên Hình 3. 
Phiếu khảo sát được phát cho sinh viên sau khi đã ổn 
định trong lớp học được hơn 15 phút. Điều này giúp hạn 
chế tối đa ảnh hưởng của các hoạt động thể chất trước đó 
lên cảm giác nhiệt của sinh viên trong phòng học. Trong 
quá trình đo đạc và khảo sát, các hoạt động dạy và học trên 
lớp vẫn diễn ra như bình thường. 
Trong các phòng học được khảo sát, phương pháp giảng 
dạy chủ yếu là thuyết giảng với máy chiếu và bảng phấn. 
Sinh viên hoạt động chủ yếu ở trạng thái ngồi. Sinh viên 
cũng được tự do lựa chọn trang phục và các hoạt động điều 
chỉnh để thích ứng với môi trường nhiệt: lựa chọn chỗ ngồi, 
đóng hay mở cửa sổ, tắt mở quạt hay điều chỉnh tốc độ quay 
của quạt. Các hoạt động này diễn ra vào trước giờ học và 
không thay đổi trong suốt thời gian học. 
Tổng số mẫu khảo sát là 463 sinh viên, trong đó tỉ lệ nữ 
chiếm gần 10%. Trong các phòng học được khảo sát, không 
có phòng học nào có ít hơn 30 sinh viên. Số mẫu này tương 
đương với số mẫu của Wong và Khoo [3] và của Mishra và 
Rampogal [4], nhưng ít hơn số mẫu của Nguyễn và Lê [5]. 
Độ tuổi khảo sát nằm trong khoảng 18 đến 24, trong đó chủ 
yếu là từ 19 đến 21 tuổi, với tỉ lệ 92,5%. 
Bảng 3. Thống kê giới tính mẫu khảo sát 
Giới tính Số người Tỉ lệ (%) 
Nam 417 90,06 
Nữ 46 9,94 
Tổng 463 100,00 
Hình 1. Vị trí đo trong phòng học 202H6. 1-4: vị trí đo tốc độ, 
nhiệt độ và độ ẩm không khí; 5: vị trí đo nhiệt độ ngoài phòng. 
Nhiệt độ bức xạ trung bình từ các bề mặt được đo ở giữa phòng 
Hình 2. Hình ảnh thiết bị đo tại hiện trường 
132 Nguyễn Quốc Ý, Lê Thanh Thuận, Phạm Hồ Mai Anh 
Hình 3. Hai câu hỏi chính trong bảng khảo sát 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Kết quả đo đạc và khảo sát 
Kết quả đo các thông số của môi trường nhiệt được thể 
hiện trên Hình 4. Nhiệt độ không khí trung bình 𝑡𝑎 trong 
các phòng học thay đổi từ 30,6°C đến 34,8°C với giá trị 
trung bình bằng 32,8°C. Nhiệt độ bức xạ trung bình 𝑡𝑚𝑟𝑡 
thay đổi từ 29,0°C đến 33,4°C. Nhiệt độ 𝑡𝑚𝑟𝑡 luôn thấp hơn 
nhiệt độ 𝑡𝑎 trong hầu hết các phòng học, trừ phòng 113H6 
ở Cơ sở 2. Độ ẩm tương đối của không khí trong các phòng 
học thay đổi từ 63% đến 78% với một trường hợp đặc biệt 
ở phòng 113H6 (RH = 92%). Tốc độ không khí (không 
được thể hiện trên Hình 4) trong các phòng học chủ yếu 
nằm trong khoảng từ 0,35 m/s đến 1,0 m/s. 
Hình 4. Giá trị trung bình của nhiệt độ không khí 𝑡𝑎, nhiệt độ 
bức xạ trung bình 𝑡𝑚𝑟𝑡, và độ ẩm không khí RH trong 
 các phòng học được khảo sát 
Hình 5. Giá trị bình chọn cảm giác nhiệt theo nhiệt độ 
không khí 𝑡𝑎 
Hình 5 cho thấy kết quả bình chọn cảm giác nhiệt theo 
thang ASHRAE (Câu hỏi số 1 trên Hình 3) được thể hiện 
theo nhiệt độ không khí. Kết quả được thể hiện cho hai 
nhóm giới tính: nam và nữ. Mỗi điểm tương ứng với một 
phiếu bình chọn hợp lệ. Thang cảm giác nhiệt ASHRAE 
được thể hiện trên Bảng 4. 
Bảng 4. Thang cảm giác nhiệt ASHRAE 
Cảm 
giác 
Rất 
lạnh 
Lạnh Hơi 
lạnh 
Dễ chịu Hơi 
nóng 
Nóng Rất 
nóng 
Chỉ số -3 -2 -1 0 1 2 3 
Hình 5 cho thấy trong khoảng nhiệt độ không khí khảo 
sát (dưới 30°C đến trên 35°C), phần lớn số phiếu bình chọn 
nằm ở hai mức dễ chịu và hơi nóng. Tỉ lệ bình chọn điều 
kiện dễ chịu tăng lên khi nhiệt độ không khí giảm. Đặc biệt, 
đường hồi quy tuyến tính cho số liệu của hai nhóm giới tính 
cho thấy ở cùng nhiệt độ không khí, sinh viên nữ có xu 
hướng bình chọn cảm giác nhiệt luôn ở mức nóng hơn so 
với sinh viên nam. Chênh lệch của chỉ số cảm giác nhiệt 
của hai nhóm nữ - nam vào khoảng +0,5. 
Hình 6 thể hiện tỉ lệ bình chọn cho từng mức cảm giác 
nhiệt của hai nhóm sinh viên nam và nữ từ số liệu trên Hình 
5. Đối với sinh viên nam, khoảng 50% cảm thấy dễ chịu và 
khoảng 35% cảm thấy hơi nóng. Đối với sinh viên nữ, 100% 
phiếu bình chọn nằm trong khoảng dễ chịu đến rất nóng, với 
khoảng 35% cảm thấy dễ chịu và 35% cảm thấy hơi nóng. 
Như vậy, nếu xem khoảng cảm giác nhiệt trong khoảng 
[hơi lạnh: hơi nóng] là chấp nhận được [3, 4] thì 90% sinh 
viên nam và 70% sinh viên nữ cảm thấy điều kiện môi 
trường nhiệt trong các phòng học là chấp nhận được. Tỉ lệ 
này trong nghiên cứu của Wong và Khoo [3] là 56,7%. 
Hình 6. Tỉ lệ bình chọn cho từng mức cảm giác nhiệt 
theo giới tính 
Hình 7 cho thấy tỉ lệ bình chọn tương ứng với từng mức 
cảm giác nhiệt cho từng cơ sở của HCMUT. Kết quả cho 
thấy sinh viên ở Cơ sở 2 có xu hướng cảm thấy nóng hơn 
sinh viên ở Cơ sở 1. Điều này có thể được giải thích dựa 
trên đặc điểm của phòng học hai cơ sở (Bảng 1) và kết quả 
đo nhiệt độ trên Hình 4. Nhiệt độ không khí trung bình 
trong các phòng học ở Cơ sở 1 là 32,5°C trong khi ở Cơ sở 
2 là 33,2°C. Nhiệt độ bức xạ trung bình ở Cơ sở 1 là 30,4°C 
trong khi ở Cơ sở 2 là 31,7°C. Điều này cũng do một phần 
là các phòng học ở Cơ sở 2 không được cây xanh che chắn. 
Tuy nhiên, tỉ lệ bình chọn trong mức chấp nhận được đều 
hơn 80% cho cả hai cơ sở (88,7% cho Cơ sở 1 và 88,8% 
cho Cơ sở 2). 
Hình 7. Tỉ lệ bình chọn cho từng mức cảm giác nhiệt cho 
hai cơ sở của HCMUT 
1. Bạn cảm thấy nhiệt độ hiện tại như thế nào? 
� Rất lạnh � Lạnh � Hơi lạnh � Dễ chịu � Hơi nóng � Nóng � Rất nóng 
2. Bạn có thoải mái với nhiệt độ hiện tại trong phòng? 
� Thoải mái � Không thoải mái 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 5(126).2018, Quyển 1 133 
Tỉ lệ cho hai mức bình chọn trực tiếp: Thoải mái và 
Không thoải mái (Câu hỏi số 2 trên Hình 3) được thể hiện 
trên Hình 8 cho các bình chọn ở từng mức cảm giác nhiệt 
theo thang đo ASHRAE. 67% cảm thấy thoải mái ở mức 
Dễ chịu trong khi tỉ lệ này là 8,3% ở mức Hơi lạnh và 
23,6% ở mức Nóng. 84,7% sinh viên lựa chọn mức Không 
thoải mái phân bố ở mức cảm giác nhiệt từ Hơi nóng đến 
Rất nóng với 54,7% ở mức Hơi nóng. 
Kết quả trên Hình 8 cho thấy phần lớn sinh viên chỉ cảm 
thấy Thoải mái ở mức Dễ chịu trong khi ở mức Hơi nóng 
– được xem là chấp nhận được [3, 4] – được phần đông 
cảm nhận là Không thoải mái. 
Hình 8. Tỉ lệ bình chọn “thoải mái” và “không thoải mái” 
3.2. Phân tích mức tiện nghi nhiệt theo ASHRAE 55 và 
theo mức bình chọn trung bình TSV 
Trong phần này, kết quả khảo sát được so sánh với một 
trong những mô hình dự đoán cảm giác nhiệt được sử dụng 
phổ biến nhất hiện nay, mô hình PMV (Predicted Mean 
Vote) [1, 2]. Mô hình PMV sử dụng các mô hình toán cho 
điều kiện cân bằng nhiệt của người sử dụng trong một môi 
trường nhiệt nào đó và sử dụng các thông số môi trường 
nhiệt (04 thông số mà nhóm tác giả đã đo đạc) cùng với hai 
thông số chủ quan chính là mức độ vận động (chỉ số met) 
và nhiệt trở của trang phục (chỉ số clo). Trong các phòng 
học, sinh viên hoạt động chủ yếu ở tư thế ngồi nên chỉ số 
𝑚𝑒𝑡 = 1,2 [1, 2]. Trang phục được sử dụng chủ yếu là 
quần tây hay quần jeans và áo phông hay áo sơ mi nên chỉ 
số 𝑐𝑙𝑜 ≈ 0,5. Chỉ số clo được tính cho từng mẫu khảo sát. 
Chỉ số bình chọn cảm giác nhiệt trung bình TSV được 
tính bằng giá trị trung bình của các phiếu bình chọn cảm 
giác nhiệt trên Hình 5: 
𝑇𝑆𝑉 =
∑ 𝑉𝑖×𝑛𝑖
𝑁
𝑖=1
𝑁
 (2) 
Trong đó, N là tổng số mẫu, 𝑛𝑖 là số người bình chọn 
chỉ số cảm giác nhiệt 𝑉𝑖 theo Bảng 4. 
Hình 9 và 10 cho thấy chỉ số PMV và TSV tại các vị trí 
khảo sát trong các phòng học theo nhiệt độ tổng hợp và 
nhiệt độ không khí. Mỗi điểm số liệu tương ứng với một vị 
trí khảo sát trong phòng. Kết quả cho thấy, cả hai chỉ số 
PMV và TSV đều tăng theo nhiệt độ với đường hồi quy 
tuyến tính có giá trị R2 khá tốt, tương tự như các nghiên 
cứu trước [3, 4, 5]. Tuy nhiên, ở cùng mức nhiệt độ, mô 
hình PMV luôn dự đoán cảm giác nhiệt ở mức nóng hơn so 
với TSV. Do đó, nhiệt độ trung tính từ mô hình PMV cũng 
thấp hơn. Nhiệt độ trung tính từ mô hình TSV là 30°C cho 
nhiệt độ tổng hợp và 29,9°C cho nhiệt độ không khí. Kết 
quả này khá gần với các kết quả trước [3, 4]. Tuy nhiên, so 
với kết quả nghiên cứu ở Đà Nẵng [5], nhiệt độ trung tính 
của nhóm tác giả cao hơn 1,9°C. Nhóm tác giả chưa rõ 
nguyên nhân của sự khác biệt này nên cần nghiên cứu thêm. 
Hình 9. Giá trị PMV và TSV tại các vị trí khảo sát trong 
các phòng học theo nhiệt độ tổng hợp 
Hình 10. Giá trị PMV và TSV tại các vị trí khảo sát trong 
các phòng học theo nhiệt độ không khí 
Do mô hình PMV được cho là thích hợp đối với môi 
trường được điều hòa không khí, nhiệt độ tiện nghi của mô 
hình này luôn thấp hơn từ kết quả khảo sát TSV [3]. Tương 
tự như nghiên cứu của Wong và Khoo [3], mô hình PMV 
không thể được sử dụng để dự đoán kết quả khảo sát TSV 
trong nghiên cứu của nhóm tác giả. 
Hình 11. Giá trị TSV theo độ ẩm và tốc độ không khí 
trong phòng 
134 Nguyễn Quốc Ý, Lê Thanh Thuận, Phạm Hồ Mai Anh 
Nhóm tác giả cũng thử tìm mối liên hệ giữa giá trị TSV 
và hai thông số còn lại của môi trường nhiệt: độ ẩm và tốc 
độ không khí trong phòng. Kết quả được thể hiện trên Hình 
11. Mỗi điểm số liệu cũng tương ứng với một vị trí khảo 
sát trong phòng. Sự phân bố ngẫu nhiên của các điểm số 
liệu theo cả độ ẩm và tốc độ không khí cho thấy không có 
mối liên hệ rõ ràng giữa giá trị TSV và hai thông số đó. 
4. Kết luận 
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đo đạc các 
thông số môi trường nhiệt và khảo sát cảm giác nhiệt của 
sinh viên trong các phòng học được thông gió tự nhiên ở 
Trường Đại học Bách khoa – Đại học quốc gia Thành phố 
Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh 
viên cảm thấy dễ chịu đến rất nóng, với gần 50% sinh viên 
nam và 35% sinh viên nữ cảm thấy dễ chịu. Tỉ lệ sinh viên 
có cảm giác nhiệt trong khoảng chấp nhận được là 90% đối 
với nam và 70% đối với nữ. Nhiệt độ tiện nghi theo tỉ lệ 
bình chọn trung bình TSV là 30°C đối với nhiệt độ tổng 
hợp và 29,9°C đối với nhiệt độ không khí. Giá trị này cao 
hơn kết quả nghiên cứu ở Đà Nẵng [5] nhưng khá gần với 
kết quả nghiên cứu ở Singapore [3] và Ấn Độ [4]. Nhóm 
tác giả cũng không tìm được mối liên hệ giữa giá trị TSV 
với độ ẩm và tốc độ không khí trong phòng. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Bách 
khoa – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh mã số 
T-KTXD-2017-79. Các tác giả cám ơn sinh viên lớp 
PFIEV 2014 (Nguyễn Thành Danh, Nguyễn Mai Hoàng 
Thiện, Lê Chí Toàn) đã hỗ trợ việc khảo sát. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] ASHRAE, ASHRAE Strandard 55: Thermal Environmental 
Conditions for Human Occupancy, American Society of Heating, 
Refrigerating and Air-conditioning Engineers, 2013. 
[2] ASHRAE, 2009 ASHRAE Handbook: Fundamentals, SI ed., 
American Society of Heating, Refrigerating and Air-conditioning 
Engineers, 2009. 
[3] N. H. Wong, & S. S Khoo, “Thermal Comfort in Classrooms in the 
Tropics”, Energy and Buildings, 35(4), 2003, pp. 337–351. 
[4] A. K. Mishra, & M. Ramgopal, “A Thermal Comfort Field Study of 
Naturally Ventilated Classrooms in Kharagpur, India”, Building and 
Environment, 92, 2015, pp. 396–406. 
[5] A. T. Nguyen, & T. K. D. Le, “Tiện nghi nhiệt trong một số giảng 
đường thông gió tự nhiên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học 
Đà Nẵng, Số 1 (86), 2015, trang 84-88. 
[6] S. A. Zaki, S. A. Damiati, H. B. Rijal, A. Hagishima, & A. Abd Razak, 
“Adaptive Thermal Comfort in University Classrooms in Malaysia 
and Japan”, Building and Environment, 122, 2017, pp. 294–306. 
(BBT nhận bài: 16/3/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 03/4/2018) 

File đính kèm:

  • pdfmuc_tien_nghi_nhiet_trong_cac_phong_hoc_thong_gio_tu_nhien_o.pdf