Một số yếu tố liên quan tới chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư đại tràng
Chất lượng cuộc sống (CLCS) của người bệnh ung thư có liên quan tới sự tuân thủ điều trị cũng như giúp
cho việc xây dựng kế hoạch chăm sóc toàn diện cho người bệnh. Nghiên cứu sử dụng bộ công cụ SF - 36 để
đo lường chất lượng cuộc sống trên 205 bệnh nhân ung thư đại tràng, được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện
K năm 2018. Kết quả cho thấy CLCS chung của người bệnh ở mức trung bình (56,5 điểm). Bộ công cụ SF - 36
(version 2.0), đã được đánh giá tính giá trị cũng như áp dụng cho nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc
sống trên thế giới và tại Việt Nam, đánh giá 8 cấu phần về sức khỏe liên quan tới chất lượng cuộc sống, cụ thể
là: chức năng thể chất (physical functioning); vai trò của sức khỏe thể chất (role physical); vai trò của cảm xúc
(role emotions); chức năng sống (vitality); sức khỏe tâm thần (mental health); chức năng xã hội (social functions);
đau thực thể (pain) và sức khỏe chung (general health). Kết quả từ nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc sống
về "chức năng cảm xúc" của nam giới cao hơn nữ giới (p < 0,05);="" clcs="" về="" "vai="" trò="" của="" thể="" chất",="" "chức="" năng="">
hội", "đau thực thể" hay "sức khỏe chung" ở nhóm bệnh nhân nghèo/cận nghèo đều thấp hơn so với nhóm bệnh
nhân không nghèo (p < 0,05);="" clcs="" về="" "="" vai="" trò="" của="" cảm="" xúc"="" ở="" người="" uống="" rượu,="" hút="" thuốc="" lá="" cao="" hơn="">
người không uống rượu hay hút thuốc lá nhưng ở những người này thì CLCS về " chức năng thực thể" lại thấp
hơn (p < 0,05).="" cần="" đo="" lường="" clcs="" để="" tư="" vấn="" và="" có="" kế="" hoạch="" hỗ="" trợ="" toàn="" diện="" cho="" người="" bệnh="" ung="" thư="" đại="">
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan tới chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư đại tràng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 65TCNCYH 119 (3) - 2019 MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRÀNG Trần Thị Thanh Hương1,2, Lương Viết Hưng1, Nguyễn Tiến Quang1 1Viện ung thư quốc gia, Bệnh viện K, 2Trường Đại học Y Hà Nội Chất lượng cuộc sống (CLCS) của người bệnh ung thư có liên quan tới sự tuân thủ điều trị cũng như giúp cho việc xây dựng kế hoạch chăm sóc toàn diện cho người bệnh. Nghiên cứu sử dụng bộ công cụ SF - 36 để đo lường chất lượng cuộc sống trên 205 bệnh nhân ung thư đại tràng, được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện K năm 2018. Kết quả cho thấy CLCS chung của người bệnh ở mức trung bình (56,5 điểm). Bộ công cụ SF - 36 (version 2.0), đã được đánh giá tính giá trị cũng như áp dụng cho nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc sống trên thế giới và tại Việt Nam, đánh giá 8 cấu phần về sức khỏe liên quan tới chất lượng cuộc sống, cụ thể là: chức năng thể chất (physical functioning); vai trò của sức khỏe thể chất (role physical); vai trò của cảm xúc (role emotions); chức năng sống (vitality); sức khỏe tâm thần (mental health); chức năng xã hội (social functions); đau thực thể (pain) và sức khỏe chung (general health). Kết quả từ nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc sống về "chức năng cảm xúc" của nam giới cao hơn nữ giới (p < 0,05); CLCS về "vai trò của thể chất", "chức năng xã hội", "đau thực thể" hay "sức khỏe chung" ở nhóm bệnh nhân nghèo/cận nghèo đều thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không nghèo (p < 0,05); CLCS về " vai trò của cảm xúc" ở người uống rượu, hút thuốc lá cao hơn những người không uống rượu hay hút thuốc lá nhưng ở những người này thì CLCS về " chức năng thực thể" lại thấp hơn (p < 0,05). Cần đo lường CLCS để tư vấn và có kế hoạch hỗ trợ toàn diện cho người bệnh ung thư đại tràng. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: ung thư đại tràng, chất lượng cuộc sống, SF-36 Chất lượng cuộc sống (CLCS) là một khái niệm được sử dụng rộng rãi để phản ánh sức khỏe thể chất của con người, trạng thái tâm lý, mức độ độc lập, quan hệ xã hội, niềm tin cá nhân và mối quan hệ của họ với những đặc điểm của môi trường [1]. Đo lường CLCS của người bệnh, đặc biệt là những người bệnh ung thư, trong đó có ung thư đại tràng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch chăm sóc toàn diện cho người bệnh. Theo ghi nhận ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), trong số khoảng hơn 18 triệu ca ung thư mới mắc trong năm, có khoảng 1,8 triệu trường hợp được chẩn đoán mắc ung thư đại trực tràng mới. Tại Việt Nam, theo số liệu của GLOBOCAN vào năm 2018, ung thư đại trực tràng (ĐTT) là bệnh ung thư thường gặp thứ 8, với trên 5.000 trường hợp mới được chẩn đoán hàng năm [2]. Ung thư đại tràng đã và đang gây nên những tổn thất rất lớn đối với kinh tế của nước ta [3]. Người bệnh ung thư đại tràng phải chịu đựng sự đau đớn về thể xác, lo lắng về bệnh tật và phương pháp điều trị, có những bệnh nhân phải chịu đựng sự khó chịu do phải đeo hậu môn nhân tạo..., những điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đại tràng, trực tràng cũng liên quan tới Tác giả liên hệ: Trần Thị Thanh Hương, Trường Đại học Y Hà Nội Email: huongtran2008@gmail.com Ngày nhận: 28/12/2019 Ngày được chấp nhận: 31/01/2019 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 66 TCNCYH 119 (3) - 2019 một số yếu tố khác nhau như: giai đoạn bệnh, thời gian mắc bệnh [3-5]. Tuy nhiên, tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về CLCS của người bệnh mắc ung thư đại tràng. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu xác định một số yếu tố liên quan tới chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư đại tràng được điều trị tại Bệnh viện K năm 2017. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện K Tân Triều. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 7/2017 đến tháng 6/2018 Đối tượng nghiên cứu: là người bệnh đã được chẩn đoán xác định mắc ung thư đại tràng bằng kết quả giải phẫu bệnh, đang được điều trị tại Bệnh viện K Tân Triều. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng: Là người trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên), có đầy đủ trí lực để hiểu rõ và trả lời các câu hỏi phỏng vấn Thời gian điều trị ung thư đại tràng của người bệnh tại bệnh viện ít nhất từ 6 tháng trở lên, không có chỉ định đặt hậu môn nhân tạo Đối tượng đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu Tiêu chuẩn loại trừ: Những người có thái độ không hợp tác, từ chối trả lời và những người bệnh có điều kiện sức khỏe không cho phép Người bệnh có bệnh lý tâm thần, rối loạn hành vi tâm thần hoặc xa sút trí tuệ hoặc đang sử dụng các thuốc có ảnh hưởng đến hoạt động tâm thần như các thuốc an thần, chống trầm cảm, 2. Phương pháp Mô tả cắt ngang Cỡ mẫu và chọn mẫu Cỡ mẫu được tính dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu cắt ngang và ước lượng một giá trị trung bình trong quần thể n = Z21-α/2 s2 𝜀𝜀!. 𝜇𝜇! Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu cần thiết; α: độ tin cậy 95%, tương ứng với Z1-α/2 là 1,96; μ = 47,03 điểm (dựa trên nghiên cứu Bùi Vũ Bình và các cộng sự về CLCS của bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2015) [2]. s = 13,84 là là độ lệch chuẩn được tham khảo từ nghiên cứu của Bùi Vũ Bình [3]; ε = 0,042 là mức sai lệch tương đối mong muốn giữa tham số mẫu và tham số quần thể. Đưa vào công thức ta tính được cỡ mẫu tối thiểu cần thiết là 189 bệnh nhân. Thực tế có 205 bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp chọn mẫu chủ đích, chọn toàn bộ các đối tượng hiện đang điều trị ung thư đại tràng đang điều trị tại bệnh viện thỏa mãn các tiêu chí trên. Công cụ nghiên cứu Bộ công cụ SF-36 (version 2.0), đã được đánh giá tính giá trị cũng như áp dụng cho nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc sống trên thế giới và tại Việt Nam. Bộ công cụ này gồm 36 câu hỏi, đánh giá 8 cấu phần về sức khỏe liên quan tới chất lượng cuộc sống, cụ thể là: chức năng thể chất (physical functioning); vai trò của sức khỏe thể chất (role physical); vai trò của cảm xúc (role emotions); chức năng sống (vitality); sức khỏe tâm thần (mental health); chức năng xã hội (social functions); đau thực thể (pain) và sức khỏe chung. Điểm CLCS bằng điểm trung bình cộng của 08 lĩnh vực thuộc CLCS, theo 04 mức sau: 0 - 25 điểm: CLCS kém; 26 - 50 điểm: CLCS trung bình kém; 51 - 75 điểm: CLCS trung bình khá và 76 - 100 đểm: CLCS khá tốt và tốt. Phương pháp thu thập thông tin: Phỏng TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 67TCNCYH 119 (3) - 2019 vấn trực tiếp từng đối tượng tham gia nghiên cứu, đồng thời thu thập thông tin từ hồ sơ bệnh án của người bệnh (với thu thập các thông tin về đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu). 3. Xử lý số liệu Sau khi làm sạch phiếu, số liệu sẽ được tiến hành nhập vào phần mềm đã được thiết kế đặc thù cho bộ câu hỏi SF-36. Tiếp đó, sẽ được phân tích, xử lý thông tin trên phần mềm Stata 11. Với từng nhóm chức năng sẽ được xác định bằng các câu phù hợp với hệ số được thể hiện trong hướng dẫn đo lường của bộ câu hỏi SF-36. Để sử dụng test thống kê phù hợp, đầu tiên tiến hành khảo sát sự phân bố của các số liệu định lượng cần phân tích bằng test Skewness và Kurtosis. Kết quả: Điểm trung bình của: “Chức năng thể chất”, “Sự khỏe mạnh về tinh thần” và “Chức năng xã hội” phân bố chuẩn. Còn điểm trung bình “Hạn chế hoạt động do sức khỏe thể chất”, “Hạn chế hoạt động do sức khỏe tâm lý” “Năng lượng/ Mệt mỏi”, “Cảm giác đau” và “Sức khỏe chung” có phân bố không chuẩn. Với những biến độc lập được chia thành 2 nhóm: Phân bố chuẩn thì sử dụng t-test, phân bố không chuẩn sử dụng test Mann-Whitney. Với những biến độc lập được chia thành từ 3 nhóm trở lên: Phân bố chuẩn thì sử dụng test Anova, không chuẩn sử dụng test Kruskal-Wallis. 4. Đạo đức nghiên cứu Đối tượng được giải thích rõ ràng về mục đích của nghiên cứu, chỉ tiến hành phỏng vấn khi được sự đồng ý tự nguyện tham gia của đối tượng. Tất cả những thông tin cung cấp được bảo mật tuyệt đối và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, không phục vụ cho mục đích nào khác. III. KẾT QUẢ Trong 205 đối tượng tham gia nghiên cứu, có 61,0% là nam và 39,0% là nữ giới, độ tuổi trung bình là 57,9 ± 9,8, nghề nghiệp chủ yếu là nông dân (57,07%), 57,1% đối tượng có trình độ dưới THPT; 100% người bệnh có bảo hiểm y tế; 14,6% người bệnh thuộc hộ nghèo/cận nghèo (theo thông tư 14/2018/TT-BLĐTBXH). Về bệnh, 60,0% mắc bệnh dưới 1 năm, 100% người bệnh đã được phẫu thuật, và chủ yếu được điều trị bằng phương pháp hóa trị (83,9%); 42,4% người bệnh hiện đang hút thuốc hoặc đã từng hút, 46,4% người bệnh vẫn uống hoặc đã từng uống rượu bia. 63.0 35.2 73.7 48.0 63.4 67.7 75.8 40.8 56.5 0.0 20.0 40.0 60.0 80.0 Chức năng thể chất Vai trò sức khỏe thể chất Vai trò của cảm xúc Chức năng sống Sức khỏe tâm thân Chức năng xã hội Đau thực thể Sức khoẻ chung CLCS chung Biểu đồ 1. Điểm trung bình Chất lượng cuộc sống theo từng lĩnh vực Biểu đồ 1 cho thấy điểm trung bình CLCS chung của người bệnh ở mức trung bình (56,5 điểm), trong đó CLCS liên quan tới “Đau thực thể” với điểm cao nhất (75,8 điểm) và thấp nhất là CLCS liên quan tới “sức khỏe thể chất” (35,2 điểm). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 68 TCNCYH 119 (3) - 2019 (*): p = 0,048 (< 0,05) Biểu đồ 2. Mối liên quan giữa điểm Chất lượng cuộc sống với giới tính Điểm trung bình CLCS về “Chức năng cảm xúc” của nam cao hơn nữ (77,7 điểm so với 67,1 điểm) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Với các lĩnh vực khác thì điểm trung bình CLCS giữa nam và nữ đều không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) (Biểu đồ 2). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa điểm trung bình CLCS ở cả 8 lĩnh vực với những nhóm tuổi khác nhau, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp chính, trình độ học vấn, tình trạng dinh dưỡng, tình trạng mắc bệnh kèm theo khác. (*): p < 0,05 Biểu đồ 3. Mối liên quan giữa điểm Chất lượng cuộc sống với kinh tế gia đình Biểu đồ 3 cho thấy CLCS liên quan tới "vai trò của thể chất", "chức năng xã hội", "đau thực thể" hay "sức khỏe chung" ở nhóm bệnh nhân nghèo/cận nghèo đều thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không nghèo, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). (*): p < 0,05 Biểu đồ 4. Mối liên quan giữa điểm Chất lượng cuộc sống với hành vi uống rượu bia 62.1 32.8 77.7 46.4 62.8 67.6 74.5 39.5 64.5 39.1 67.1 50.6 64.3 68 77.7 42.7 0 50 100 Chức năng thể chất Vai trò sức khỏe thể chất Vai trò của cảm xúc * Chức năng sống Sức khỏe tâm thân Chức năng xã hội Đau thực thể Sức khoẻ chung Nam Nữ 70.8 23.3 58.9 44.5 59.2 59.2 65.8 36.0 61.7 37.3 76.2 48.6 64.1 69.2 77.5 41.6 0 50 100 Chức năng thể chất * Vai trò sức khỏe thể chất * Vai trò của cảm xúc Chức năng sống Sức khỏe tâm thân Chức năng xã hội * Đau thực thể * Sức khoẻ chung * Nghèo/cận nghèo Không 63.7 30.5 78.9 48.4 63.8 67.5 74.3 40.7 62.5 39.3 69.1 47.7 63.0 68.0 77 40.9 0 50 100 Chức năng thể chất Vai trò sức khỏe thể chất Vai trò của cảm xúc * Chức năng sống Sức khỏe tâm thân Chức năng xã hội Đau thực thể Sức khoẻ chung Có uống/Đã từng uống Không bao giờ uống TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 69TCNCYH 119 (3) - 2019 IV. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy với bệnh nhân ung thư đại tràng thì CLCS chung chỉ đạt trên mức trung bình (điểm trung bình là 56,5 điểm); điểm khó chịu và ảnh hưởng tới CLCS nhất liên quan tới " sức khỏe thể chất" và CLCS liên quan tới " đau" có điểm trung bình cao nhất. Bệnh ung thư là bệnh có thể đe dọa tới cuộc sống, phải điều trị bằng cách phối hợp nhiều phương pháp và lâu dài, do vậy CLCS của người bệnh nói chung không thể cao như những bệnh lý mạn tính khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm trung bình CLCS ở cả 8 lĩnh vực với nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp chính, trình độ học vấn, tình trạng dinh dưỡng, tình trạng mắc bệnh kèm theo khác... Kết quả này khác với nghiên cứu của Lumachi và cs. đã thực hiện trên 72 bệnh nhân ung thư đại tràng (giai đoạn bệnh I và II), cho thất CLCS về “Cảm giác đau” và “Sức sống” có tương quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi (p < 0,05), những người trẻ tuổi hơn (ở trong nghiên cứu này là ≤65 tuổi) có điểm trung bình chất lượng cuộc sống cao hơn nhóm người cao tuổi hơn (> 65 tuổi) [4]. Một nghiên cứu khác đo lường CLCS của người bệnh ung thư đại tràng đã được thực hiện vào năm 2015 tại Anh đã chỉ ra một số vấn đề thách thức có thể làm tăng hoặc giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh, trong đó có độ tuổi [5]. Ngoài ra, nghiên cứu của Scott Adams và cs. khảo sát trên 1021 bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Mỹ, năm 2016 cho thấy, điểm chất lượng cuộc sống về thể chất có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi, trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu, với p < 0,001. Cụ thể, tuổi càng cao thì có CLCS càng giảm, những người có trình độ học vấn cao hơn (tốt nghiệp cao đẳng trở lên) thì có điểm chất lượng cuộc sống tốt hơn người có trình độ học vấn từ THPT trở xuống [6]. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng tìm ra điểm tương đồng là chỉ ra, CLCS thể chất không có sự khác biệt với những đối tượng có tình trạng hôn nhân khác nhau (p = 0,49 > 0,05) [6]. CLCS liên quan tới " cảm xúc" có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với giới tính của người Với những bệnh nhân đã từng/hiện đang uống rượu thì CLCS liên quan tới "vai trò của cảm xúc" lại cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) khi so sánh với những bệnh nhân không uống rượu (Biểu đồ 4). (*): p < 0,05 Biểu đồ 5. Mối liên quan giữa điểm Chất lượng cuộc sống với thời gian mắc bệnh Kết quả phân tích tại biểu đồ 3.5 cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). về điểm trung bình CLCS của “Chức năng xã hội”, nhóm mắc bệnh từ 1 năm trở lên là 69,9, cao hơn nhóm mắc bệnh dưới 1 năm (64,5 điểm). 62.3 31.7 68.7 48.1 63.0 64.5 75.1 40.4 63.5 37.6 77.0 48.0 63.6 69.9 76.2 41.0 0 50 100 Chức năng thể chất Vai trò sức khỏe thể chất Vai trò của cảm xúc Chức năng sống Sức khỏe tâm thân Chức năng xã hội * Đau thực thể Sức khoẻ chung Dưới 1 năm Từ 1 năm trở lên TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 70 TCNCYH 119 (3) - 2019 bệnh, cụ thể là điểm trung bình CLCS của lĩnh vực này ở nam cao hơn nữ (p < 0,05). Kết quả này có sự khác biệt với nghiên cứu của MohsenAkhondi-Meybodi và cs. Thực hiện trên 120 bệnh nhân ung thư đại trực tràng vào năm 2016 tại Iran cho thấy điểm CLCS của bệnh nhân nữ là 77,4 ± 8,7, còn của nam thấp hơn một chút với 76,6 ± 8,7 điểm. Tuy nhiên, không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm CLCS này và giới tính của đối tượng nghiên cứu [7]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại tương đồng với nghiên cứu của Scott Adams và cs. cho thấy, điểm CLCS thể chất và tinh thần có mối liên quan với giới tính của đối tượng (p = 0,001): những người bệnh là nữ giới có điểm CLCS thấp hơn nam [6]. Nhóm bệnh nhân nữ có khả năng có điểm CLCS thấp hơn nam, điều này cũng đã được chỉ ra trong nghiên cứu của Đỗ Thúy Hằng và cộng sự trên đối tượng là bệnh nhân chạy thận nhân tạo chu kỳ tại Bệnh viện Quân y 103. Điều này cũng dễ giải thích do bản thân phụ nữ thường dễ yếu đuối, vả lại phụ nữ Việt nam thường lo các công việc gia đình và con cái, do vậy bị mắc ung thư sẽ dễ làm bệnh nhân nữ rơi vào trạng thái suy sụp hơn so với nam giới [8]. Có thể thấy khả năng kinh tế là một yếu tố quan trọng liên quan tới CLCS của người bệnh ung thư, trong đó có ung thư đại tràng. Người bệnh có điều kiện kinh tế gia đình thuộc hộ nghèo/cận nghèo có nguy cơ điểm CLCS càng thấp. Việc thường xuyên phải nghĩ ngợi đến các khoản chi trả không chỉ trở thành gánh nặng của gia đình và còn gây ra vấn đề tâm lý của chính người mắc bệnh. Kết quả này khác với kết quả từ nghiên cứu của Bùi Vũ Bình thực hiện trên 175 người bệnh được chẩn đoán xác định bệnh ung thư hiện đang điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội vào năm 2015, khi chưa tìm thấy mối tương quan giữa CLCS với điều kiện kinh tế gia đình [3]. Hành vi lối sống là một trong các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm, trong đó có ung thư. Một kết quả rất thú vị từ nghiên cứu này cho thấy có mối tương quan có ý nghĩa giữa CLCS về "sức khỏe thể chất" và "vai trò của cảm xúc" đối với hành vi hút thuốc lá và uống rượu. CLCS "về cảm xúc" cao hơn ở những người hút thuốc lá nhưng những người này lại có CLCS "sức khỏe thể chất" thấp hơn. Như vậy, mỗi người bệnh sẽ phải tự lựa chọn cho hành vi sức khỏe của mình. Kết quả này của chúng tôi có sự tương đồng với nghiên cứu về Chất lượng cuộc sống và tử vong của những người còn sống sau ung thư đại tràng, qua sử dụng bộ công cụ the Veterans RAND 12-i tem, bởi tác giả chỉ ra, trung bình điểm về sức khỏe thể chất có mối liên quan với tình trạng hút thuốc của đối tượng nghiên cứu [6]. Nghiên cứu của Scott Adams và cộng sự lại chỉ ra, hút thuốc lá có mối liên quan với CLCS thể chất và tinh thần (p < 0,001): Những người vẫn đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc thì có CLCS thấp hơn những người không bao giờ hút thuốc [6]. Thời gian mắc bệnh cũng là một yếu tố được tính đến khi đề cập đến CLCS của người bệnh. Kết quả phân tích cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm trung bình CLCS của “Chức năng xã hội” của những người bệnh có thời gian mắc bệnh khác nhau (p < 0,05). Kết quả của chúng tôi có sự tương đồng với Jeff Dunn và các cộng sự thông qua nghiên cứu tổng quan 41 tài liệu trên thể giới, tác giả nhận định rằng: thời gian từ khi được chẩn đoán mắc bệnh có liên quan đến CLCS của bệnh nhân ung thư trực tràng. Thời gian mắc bệnh càng nhiều thì dường như CLCS của họ lại càng được cải thiện [9]. Điều này có thể được giải thích là khi mắc bệnh càng lâu thì người bệnh đã có nhiều thời gian hơn để chấp nhận và sống chung với ung thư, không TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 71TCNCYH 119 (3) - 2019 còn cảm giác sốc, sợ hãi, tuyệt vọng như ban đầu nên sẽ ít ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội và tinh thần hơn những đối tượng mới biết. Qua kết quả này, chúng ta nên lưu tâm hơn đến chăm sóc và cải thiện chất lượng cuộc sống về tình cảm, xã hội cho những đối tượng mới mắc hơn để họ có động lực vượt qua bệnh tật, có niềm tin hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn. V. KẾT LUẬN Người bệnh ung thư đại tràng có chất lượng cuộc sống ở mức trung bình, với điểm chất lượng cuộc sống chung là 56,5 điểm theo thang đo SF-36. CLCS của người bệnh có mối liên quan với giới tính, tình trạng kinh tế, thời gian mắc bệnh và một số hành vi lối sống như hút thuốc lá, uống rượu (p < 0,05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ware JE Jr SC, Ware JE, Sherbourne CD. The MOS 36-item Short-Form Health Survey (SF-36). I. Conceptual framework and item selection. Med Care. 1992;90(6):473 - 483. doi:10.1097/00005650-199206000-00002 2. World Health Organization (2018), Globocan 2018: Estimated Cancer Incidence, Mortality and Prevalence worldwide. 3. Bùi Vũ Bình, Đỗ Thị Ánh, Dương Tiến Đỉnh và các cộng sự. (2015), Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư và một số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2015, Báo cáo Hội nghị khoa học chào mừng 65 năm truyền thống Bệnh viện Quân y 103, Hội nghị Khoa học điều dưỡng, Hà Nội. 4. F. Lumachi, L. Di Gennaro., G. Chiara and et al. (2016), "Evaluation of short- term quality of life changes after surgery in elderly patients with colorectal cancer using the Medical Outcomes Study short form (MOS- SF-36) questionnaire ", Annals of Oncology, 27(suppl_2). 5. Charlotte Wood, Sarah Lawton, Amy Downing and et al. (2015), Quality of Life of Colorectal Cancer Survivors in England, England. 6. Scott V. Adams, Rachel Ceballos and Polly A. Newcomb (2016), "Quality of Life and Mortality of Long-Term Colorectal Cancer Survivors in the Seattle Colorectal Cancer Family Registry", PLOS One. 7. Mohsen Akhondi-Meybod, Sara Akhondi-Meybodi, Mahmood Vakili and et al. (2016), "Quality of life in patients with colorectal cancer in Iran", Arab Journal of Gastroenterology, 17(3), pp. 127 - 130. 8. Đỗ Thuý Hằng, Vũ Hồng Hạnh, Nguyễn Văn Chiến và các cộng sự. (2015), Khảo sát chất lượng cuộc sống bằng bảng điểm SF36 ở bệnh nhân thận nhân tạo chu kỳ tại Bệnh viện Quân y 103, truy cập ngày 28-05- 2018, tại trang web vn/vietnamese/bao-cao-hoi-nghi-khoa-hoc- chao-mung-65-nam-truyen-thong-bvqy103/ hoi-nghi-khoa-hoc-dieu-duong/cac-bao-cao/ khao-sat-chat-luong-cuoc-song-bang-bang- diem-sf36-o-benh-nhan-than-nhan-tao-chu- ky-tai-benh-vien-quan-y-103/1389/. 9. Jeff Dunn, Brigid Lynch, Joanne Aitken and et al. (2003), "Quality of life and colorectal cancer: a review", Australian and New Zealand Journal of Public Health, 27(1), pp. 41 - 53. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 72 TCNCYH 119 (3) - 2019 Summary FACTORS RELATED TO QUALITY OF LIFE IN COLON CANCER PATIENTS Quality of Life (QoL) of cancer patients is important for the adherence to and support of comprehensive care for patients. The study applied SF - 36 to measure QoL in 205 colon cancer patients diagnosed and treated at K Hospital during 2018. The SF - 36 evaluated 8 components of QoL: physical functioning, role physical, role emotion, social function, vitality, mentl health, pain and general health. The results showed that QoL was “average” with a mean score of 56.5 points. QoL on ‘ function of emotion” in men was higher than in women (p < 0.05); QoL on “role of physical”, “function of social”, “physical pain” or “general health” in poor/near poor patients was lower than patients in more affluent income brackets (p < 0.05); QoL on “role of emotion” in patients who drink and smoke was higher than patients who do not, but QoL on “physical functioning” was lower. There is a need to measure QoL for consultation and to carry out a comprehensive care plan for colon cancer patients. Keyword: colon cancer, quality of life, SF-36
File đính kèm:
- mot_so_yeu_to_lien_quan_toi_chat_luong_cuoc_song_cua_nguoi_b.pdf