Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải tạo tại trại giam

Lao động trong trại giam là một trong những hoạt

động cơ bản của phạm nhân trong suốt quá trình chấp

hành án phạt. Hình thức lao động diễn ra trong những

điều kiện đặc thù và môi trường lao động có tính kỉ luật

cao và nội quy nghiêm ngặt. Mỗi phạm nhân khi tham

gia vào lao động đều chịu ảnh hưởng nhất định từ những

yếu tố khác nhau tác động đến hành vi lao động cụ thể

của phạm nhân trong quá trình cải tạo.

Tác giả Hoàng Cung (2006) đã chỉ ra những yếu tố

tác động đến tâm lí phạm nhân cụ thể là trình độ nhận

thức, nghề nghiệp, yếu tố gia đình và mức hình phạt quy

định [1; tr 24]. Tài liệu là cơ sở lí luận quan trọng nghiên

cứu những yếu tố tác động đến tâm lí phạm nhân trong

quá trình thực hiện chế độ lao động tại trại giam như trình

độ, lứa tuổi, nghề nghiệp, gia đình.

Tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc trong nghiên cứu

“Nghiên cứu tâm lí phạm nhân loại tội phạm hình sự

nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản

lí giáo dục trong các trại giam hiện nay” đã chỉ ra những

thông tin từ phía gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến

nhận thức, thái độ, nhu cầu, tình cảm của phạm nhân.

Quá trình giao tiếp giữa phạm nhân với thân nhân mang

đậm màu sắc của cảm xúc và những cảm xúc đó thường

đan xen rất phức tạp [2]

pdf 5 trang kimcuc 5680
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải tạo tại trại giam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải tạo tại trại giam

Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải tạo tại trại giam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 128-131; 225 
128 
Email: nhunguyet09psy@gmail.com 
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI LAO ĐỘNG 
CỦA PHẠM NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC, CẢI TẠO TẠI TRẠI GIAM 
Dương Thị Như Nguyệt - Học viện Cảnh sát nhân dân 
Ngày nhận bài: 08/4/2019; ngày chỉnh sửa: 18/5/2019; ngày duyệt đăng: 25/5/2019. 
Abstract: The article mentions a number of factors affect the labor behavior of prisoners in the 
process of education and egeneration at the prison. Objective factors such as the impact of the labor 
group; the interest of prison officers to prisoners; policy of leniency and disciplinary forms of the 
State in prisoners' labor. Subjective factors such as characteristics of mental, age physiology; 
prisoners' perceptions of labor; attitude towards labor; labor motivation; job. 
Keywords: Labor behavior, prisoner, prisoner psychology, regeneration, prison. 
1. Mở đầu 
Lao động trong trại giam là một trong những hoạt 
động cơ bản của phạm nhân trong suốt quá trình chấp 
hành án phạt. Hình thức lao động diễn ra trong những 
điều kiện đặc thù và môi trường lao động có tính kỉ luật 
cao và nội quy nghiêm ngặt. Mỗi phạm nhân khi tham 
gia vào lao động đều chịu ảnh hưởng nhất định từ những 
yếu tố khác nhau tác động đến hành vi lao động cụ thể 
của phạm nhân trong quá trình cải tạo. 
 Tác giả Hoàng Cung (2006) đã chỉ ra những yếu tố 
tác động đến tâm lí phạm nhân cụ thể là trình độ nhận 
thức, nghề nghiệp, yếu tố gia đình và mức hình phạt quy 
định [1; tr 24]. Tài liệu là cơ sở lí luận quan trọng nghiên 
cứu những yếu tố tác động đến tâm lí phạm nhân trong 
quá trình thực hiện chế độ lao động tại trại giam như trình 
độ, lứa tuổi, nghề nghiệp, gia đình. 
Tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc trong nghiên cứu 
“Nghiên cứu tâm lí phạm nhân loại tội phạm hình sự 
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản 
lí giáo dục trong các trại giam hiện nay” đã chỉ ra những 
thông tin từ phía gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến 
nhận thức, thái độ, nhu cầu, tình cảm của phạm nhân. 
Quá trình giao tiếp giữa phạm nhân với thân nhân mang 
đậm màu sắc của cảm xúc và những cảm xúc đó thường 
đan xen rất phức tạp [2]. 
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu về tâm lí phạm 
nhân, quản lí, giáo dục, cải tạo phạm nhân, chúng tôi nhận 
thấy có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến 
hành vi lao động của phạm nhân như tâm, sinh lí lứa tuổi, 
trình độ, nghề nghiệp, thái độ; mục tiêu của quá trình thi 
hành án, mục tiêu của giáo dục, nội dung cải tạo (học tập, 
lao động, rèn luyện, tham gia các hoạt động...), phương thức 
giáo dục, sự quan tâm của gia đình, cán bộ trại giam... 
Bài viết đề cập một số yếu tố ảnh hưởng đến hành 
vi lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải 
tạo tại trại giam. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hành vi lao 
động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải tạo 
tại trại giam 
2.1.1. Đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi 
Theo Tâm lí học Mác xít thì lứa tuổi có ảnh hưởng 
lớn đến tâm lí cá nhân. Bởi vì mỗi lứa tuổi là một giai 
đoạn phát triển tâm lí đặc biệt về chất, được đặc trưng bởi 
nhiều biến đổi và những biến đổi này tổng hợp tạo nên 
tính độc lập của cấu trúc nhân cách trong giai đoạn đó. 
L.X.Vygotsky - nhà Tâm lí học người Nga cho rằng: 
“Lứa tuổi như là một thời kì phát triển nhất định đóng 
kín một cách tương đối mà có ý nghĩa của nó được quyết 
định bởi địa vị của thời kì đó trong cả quá trình phát triển 
chung, và trong đó những quy luật phát triển chung bao 
giờ cũng được thể hiện một cách độc đáo về chất. Độ tuổi 
của con người luôn gắn liền với sự phát triển về thể chất 
và phản ánh năng lực tư duy của con người” [3]. Đối với 
phạm nhân, độ tuổi của họ khi bắt đầu được đưa vào trại 
giam có một ý nghĩa hết sức quan trọng, chi phối đến quá 
trình tiếp thu sự giáo dục, ý chí rèn luyện, cải tạo và tham 
gia hoạt động lao động nói riêng. Chính vì vậy, yếu tố 
lứa tuổi của phạm nhân có sự khác biệt trong các giai 
đoạn phát triển tâm lí, tác động đến nhận thức của họ 
trong quá trình lao động giáo dục, cải tạo ở trại giam. 
Trong nghiên cứu của tác giả Hoàng Cung thì số 
phạm nhân trong các trại giam ở nước ta có tuổi đời từ 
18-45 tuổi (> 70%) [3; tr 21]. Đây là lứa tuổi đang phát 
triển và ổn định các phẩm chất tâm lí như quan điểm 
sống, xu hướng, thói quen, là lứa tuổi sung sức nhất về 
thể lực và trí lực. Vì vậy, trong lao động, họ có những 
thuận lợi như: dễ dàng tiếp thu kiến thức về ngành nghề 
được học nhưng mặt khác ở lứa tuổi này không dễ dàng 
thay đổi nếp nghĩ, thói quen, vốn đã dẫn họ đi vào lối 
sống lệch chuẩn, ỷ lại, chểnh mảng trong lao động. Chính 
yếu tố lứa tuổi của phạm nhân tác động không nhỏ đến 
nhận thức của họ về việc có thay đổi hay không thái độ 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 128-131; 225 
129 
tiêu cực với lao động sang sự chấp hành nội quy lao động, 
thực hiện lao động giáo dục cải tạo đạt hiệu quả. Bên 
cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm tâm lí lứa 
tuổi của phạm nhân giúp Ban giám thị trại giam lựa chọn 
hình thức và phương pháp tác động thích hợp nhằm nâng 
cao hiệu quả giáo dục đối với phạm nhân. 
2.1.2. Nhận thức của phạm nhân về lao động 
Trình độ học vấn có liên quan đến trình độ nhận thức 
của con người. Sự tiếp thu, lĩnh hội nền văn hóa phụ 
thuộc rất nhiều ở trình độ học vấn. Thông qua trình độ 
học vấn giúp ta hiểu rõ hơn khả năng nhận thức xã hội 
của chủ thể nhân cách. Nhìn chung, trình độ học vấn của 
phạm nhân là rất thấp nhất là loại tội phạm xâm phạm 
lĩnh vực trật tự an toàn xã hội (trộm, cướp, giết người). 
Đối với những người có trình độ văn hoá thấp thường 
không nhận thức hết tính chất nguy hiểm về hành vi vi 
phạm pháp luật, thậm chí không coi đó là sự vi phạm nên 
khi bị xử lí theo pháp luật, dễ nảy sinh ở họ “tư tưởng bất 
mãn”, “tư tưởng chống đối”. Khi vào trại, họ mang theo 
cả tư tưởng đó và tạo nên một khoảng cách giữa trại viên, 
học viên với cán bộ quản giáo, giáo viên. Tâm lí bất mãn 
dẫn đến bất hợp tác với cán bộ quản giáo, giáo viên sẽ 
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp nhận sự giáo dục cải 
tạo của trại viên, học viên. Do vậy, “giải phóng” những 
tư tưởng tiêu cực trên khỏi trại viên, học viên là điều kiện 
tiên quyết trong quá trình giáo dục cải tạo phạm nhân, 
trại viên, học viên. 
Qua nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực Tâm lí 
học giáo dục cải tạo phạm nhân (Hoàng Cung, Hoàng 
Thị Bích Ngọc, Nguyễn Như Chiến, Chu Thị Mai) cho 
thấy, phần lớn phạm nhân sinh ra và lớn lên trong môi 
trường gia đình không thuận lợi: gia đình không hoàn 
thiện - bố mẹ li dị, có con riêng... đời sống kinh tế khó 
khăn, trình độ văn hoá thấp, gia đình làm ăn phi pháp 
Tất cả các yếu tố đã tạo nên lối sống ích kỉ, tham lam, 
ứng xử thiếu văn hoá và đã trở thành hành trang vào đời 
của họ, khiến họ rơi vào tình trạng sống buông thả, bất 
chấp đạo lí, không thừa nhận các chuẩn mực xã hội, khó 
khăn đối với họ. Chính vì vậy, trong quá trình giáo dục, 
cải tạo, bên cạnh việc bắt buộc họ phải tuân theo những 
chuẩn mực chung thì việc gần gũi, cảm thông, chia sẻ và 
thấu hiểu những đặc điểm tâm lí do hoàn cảnh tạo nên 
đối với họ từ phía cán bộ cảnh sát làm công tác quản lí 
giáo dục lại có ý nghĩa hết sức quan trọng [3; tr 24-25]. 
Đối với những phạm nhân có trình độ văn hóa thấp, 
thường không nhận thức hết ý nghĩa từ công tác giáo dục 
lao động, chưa nhận thức đầy đủ về giá trị và thành quả 
lao động mang lại cho họ. Vì thế, họ thường chống đối 
trong lao động và chấp hành nội quy trại giam. Tâm lí bất 
mãn dẫn đến bất hợp tác trong lao động, ảnh hưởng rất 
lớn đến hiệu quả lao động và khả năng tiếp nhận sự giáo 
dục, cải tạo của phạm nhân. Một trong những nguyên 
nhân khiến thanh thiếu niên vi phạm pháp luật là do hiểu 
biết hạn chế về quy định của pháp luật, không tuân theo 
pháp luật. Sự hiểu biết nghèo nàn, không đầy đủ, sai lệch 
về lao động và hưởng thụ, không biết hành động một 
cách đúng đắn thường là nguyên nhân khiến thanh, thiếu 
niên vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù lại quay lại 
con đường tội lỗi, không muốn sống bằng lao động chân 
chính [4; tr 45]. 
Mặt khác, do trình độ nhận thức thấp nên họ dễ dãi 
trong việc tiếp thu các phong cách sống thiếu định hướng 
theo chuẩn mực của pháp luật trong phương thức hành 
động, trong lao động giáo dục, cải tạo. Chính điều này lí 
giải vì sao phần lớn phạm nhân khi còn sống và hoạt động 
ngoài xã hội đã lấy việc kiếm tiền bằng mọi giá để có cuộc 
sống nhàn hạ, nhưng lại có nhiều tiền để thỏa mãn những 
nhu cầu vật chất làm cái đích hướng tới. Những điều đó 
không thể có khi họ tham gia lao động sản xuất trong quá 
trình được giáo dục, cải tạo ở trại giam. Trong mối liên hệ 
đó, việc giáo dục về ý thức lao động cho phạm nhân cần 
vạch rõ ý nghĩa quan trọng của lao động đối với đời sống 
của phạm nhân, gia đình và xã hội. 
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao trong công tác 
giáo dục nâng cao nhận thức của phạm nhân về lao động 
và vai trò lao động, Ban giám thị trại giam cần nói 
chuyện, giải thích, đề ra yêu cầu tổ chức lao động 
nhằm nâng cao sự hiểu biết pháp luật, giáo dục hành vi 
đạo đức cho phạm nhân. 
Trong quá trình lao động của phạm nhân việc biến 
hành vi lao động mang tính cưỡng chế có sự giám sát cao 
của cán bộ quản giáo thành hành vi lao động tự giác thì 
nhận thức và thái độ lao động của phạm nhân đóng vai 
trò quan trọng. 
2.1.3. Thái độ đối với lao động 
Thái độ đối với những điều cá nhân nhận thức về lao 
động không chỉ phản ánh hiện thực mà còn là kim chỉ 
nam, là nguyên tắc hoạt động, hành vi lao động, là cơ sở 
để đánh giá hoạt động, hành vi lao động của cá nhân. 
Thái độ thể hiện ở sự đồng tình, phản đối đối với các 
yêu cầu, quy định lao động, những biểu hiện hành vi lao 
động tích cực, tiêu cực, sự hài lòng đối với sản phẩm lao 
động của bản thân và tập thể, đánh giá ý nghĩa xã hội của 
những kết quả lao động. Thái độ đối với lao động được 
quy định trước hết bởi nhận thức về ý nghĩa, vai trò của 
lao động đối với bản thân, gia đình và xã hội. Cá nhân sẽ 
cảm thấy vui sướng khi ý thức được vai trò của hoạt động 
lao động trong quá trình giáo dục, cải tạo tại trại giam. Vì 
vậy, cần giáo dục cho phạm nhân ý thức được lao động 
là có ích cho bản thân, gia đình, là nghĩa vụ xã hội để từ 
đó sẵn sàng tham gia lao động, có nhu cầu lao động. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 128-131; 225 
130 
2.1.4. Động cơ lao động 
Động cơ cơ bản của bất cứ một hành động lao động 
nào là nhu cầu của con người đòi hỏi phải được thỏa mãn. 
Ở giai đoạn phát triển ban đầu của xã hội loài người 
những nhu cầu vật chất (ăn, mặc, ở) đã trực tiếp kích 
thích con người tiến hành những hoạt động nhất định, 
đồng thời đó là động cơ gần nhất của con người. Cùng 
với sự phát triển của xã hội đã đẩy mạnh việc chuyên 
môn hóa và phân công lao động nên động cơ lao động 
trở thành gián tiếp, những sản phẩm tạo ra trong quá trình 
lao động (đồ dùng sinh hoạt, áo, quần) không còn thỏa 
mãn nhu cầu trực tiếp của con người. Lao động mang 
động cơ chuẩn bị tốt hơn các sản phẩm theo nhu cầu của 
xã hội. Vì vậy, đã nảy sinh niềm vui lao động, cảm giác 
thỏa mãn với quá trình lao động, ý thức về ý nghĩa xã hội 
của lao động, đó là động cơ mạnh mẽ nhất của lao động. 
Có thể nói, động cơ lao động của phạm nhân ảnh 
hưởng trực tiếp đến nhận thức của họ về giá trị lao động 
mang lại và sản phẩm lao động họ làm ra. Một trong 
những động cơ bên trong thúc đẩy phạm nhân tích cực 
tham gia lao động, giáo dục cải tạo xuất phát từ việc họ 
mong muốn được giảm án, được đặc xá qua thành quả 
lao động của mình. Có những phạm nhân tham gia lao 
động chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu về mặt tinh thần: 
Phạm nhân cảm thấy sự đơn điệu, buồn chán trong cuộc 
sống, họ thích được ra ngoài lao động hơn là nằm lại 
trong buồng giam, và đây là yếu tố tác động đến nhận 
thức của họ về việc cần thiết phải tích cực tham gia lao 
động. Cùng với đó là sự xuất hiện về nhu cầu vật chất ở 
những phạm nhân khác và họ nhận thấy việc tham gia 
lao động mang lại cho họ những sản phẩm vật chất cụ 
thể, tạo điều kiện thay đổi điều kiện sinh hoạt trong trại 
vì thế hăng hái tham gia lao động, tăng gia sản xuất. 
Việc không nắm vững những yêu cầu, ý nghĩa, vai 
trò lao động có ảnh hưởng nhất định gây nên sự không 
ăn khớp giữa lời nói và việc làm trong hành vi lao động 
của phạm nhân. Sự nghèo nàn về hiểu biết, ý nghĩa, vai 
trò lao động không thể giải thích được vì sao có những 
trường hợp phạm nhân hiểu biết khá đầy đủ về lao động, 
ý nghĩa, vai trò của nó lại có hành vi lao động kém, 
không tuân theo quy định lao động trong trại giam hoặc 
lao động cầm chừng, đối phó với cán bộ quản giáo. Việc 
hình thành hành vi lao động đúng đắn, bền vững chỉ 
xuất hiện trong trường hợp cá nhân hành động theo 
những động cơ xác định, tự cá nhân mong muốn bồi 
dưỡng cho mình những phẩm chất làm ra sản phẩm mà 
họ muốn có. Trong khi chấp hành quy định lao động, 
phạm nhân có động cơ lao động đúng đắn thường nắm 
vững yêu cầu, thao tác lao động, sản phẩm lao động có 
kết quả tốt, tỏ ra có năng lực lao động và hứng thú đối 
với công việc được giao. Ngược lại những phạm nhân 
không có động cơ lao động đúng đắn có thể nghiêm túc 
thực hiện yêu cầu lao động nhưng không nắm vững thao 
tác, làm ngắt quãng, kéo dài thời gian nghỉ ngơi, không 
tập trung, chuyên tâm cho công việc Những phạm 
nhân lao động trong trại giam luôn trong trạng thái bị 
giám sát, bị cưỡng chế, thường có thói quen hành động 
theo yêu cầu của cán bộ quản giáo và họ sẽ thôi không 
có nhu cầu lao động nữa khi sự cưỡng chế và sự giám 
sát bên ngoài không còn nữa. 
Vì vậy, ngoài việc tổ chức lao động để hình thành thói 
quen lao động thì việc giáo dục động cơ lao động cho 
phạm nhân đóng vai trò rất quan trọng, bởi nó làm cho 
hành vi lao động của phạm nhân từ mang tính cưỡng chế, 
bắt buộc chuyển thành hành vi lao động tự giác. Điều này 
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cải tạo của phạm 
nhân, hình thành những phẩm chất nhân cách tốt ở họ. 
2.1.5. Nghề nghiệp 
Nghề nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình 
hình thành những phẩm chất, đặc điểm tâm lí, ý thức cá 
nhân nói chung. Đối với những người phạm tội và có 
hành vi vi phạm pháp luật khác, đặc điểm nghề nghiệp 
có ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức của họ trong quá trình 
lao động. 
Thực tế cho thấy, người nào có trình độ tay nghề, 
chuyên môn nghiệp vụ cao thì trong lao động họ nhận 
thức rõ vai trò của mình. Đó không chỉ là việc họ hoàn 
thành tốt chỉ tiêu định mức lao động được phân công, mà 
còn sáng tạo và phát kiến trong lao động sản xuất trong 
trại ở các mặt: Năng suất lao động, phương tiện, kĩ thuật 
trong lao động và chất lượng sản phẩm họ làm ra. Bên 
cạnh đó là sự hướng dẫn, chỉ bảo cho những phạm nhân 
khác trong đội cùng học nghề, cùng thao tác lao động, 
truyền đạt kinh nghiệm lao động cho họ và dễ trở thành 
“thợ cả”, “tổ trưởng” trong đội sản xuất tập thể. Ở một số 
phạm nhân khác, ảnh hưởng từ nghề nghiệp của mình 
trước đây, mang những thiếu sót, lệch lạc trong việc định 
hướng, điều hành hoạt động phân công lao động có thể 
làm xuất hiện ở cá nhân nét tính cách tham lam, ích kỉ, tự 
do, tùy tiện, thiếu kỉ luật với công việc, hay làm bừa, làm 
ẩu, thích giải trí, chơi đùa trong giờ lao động. Vì vậy, việc 
phân loại phạm nhân theo nghề nghiệp sẽ có những nét 
tương đồng trong lao động giúp mang lại hiệu quả lớn 
trong công tác giáo dục, cải tạo họ. 
Xét về tổng thể, có thể chia thành 4 nhóm nghề 
nghiệp cơ bản của phạm nhân như sau: Nhóm 1 - những 
người làm việc trong các cơ quan Nhà nước bao gồm cả 
lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên; Nhóm 2 - 
những người sản xuất nông nghiệp; Nhóm 3 - những 
người làm kinh tế tư nhân (tiểu thương, tiểu chủ), buôn 
bán, làm nghề tự do; Nhóm 4 - những người không có 
nghề nghiệp ổn định, không có việc làm, sống lang thang. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 128-131; 225 
131 
Thực tế cho thấy, những người có nghề nghiệp cụ thể 
và có thu nhập ổn định, yên tâm với cuộc sống hơn trong 
xã hội thì khả năng phạm tội chỉ chiếm 30% trong tổng 
số người phạm tội, những người không nghề nghiệp 
chiếm 70% [3; tr 47]. Đây là những chỉ số có ý nghĩa 
quan trọng trong quá trình nghiên cứu giáo dục, cải tạo 
phạm nhân trong các trại giam. 
2.2. Một số yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hành vi 
lao động của phạm nhân trong quá trình giáo dục, cải 
tạo phạm tại trại giam 
2.2.1. Ảnh hưởng của tập thể lao động 
Tập thể phạm nhân là một phương tiện quan trọng để 
giáo dục nhân cách cá nhân, đó là hình thức tốt nhất để 
tổ chức các hoạt động lao động và sản xuất. Thông qua 
lao động tập thể tạo ra mối quan hệ phân công công việc, 
từ đó các thành viên phải quan tâm đến nhau, phối hợp 
với nhau, kiểm tra lẫn nhau, cùng chia sẻ trách nhiệm 
trước kết quả công việc. Một bầu không khí hợp tác, hòa 
thuận về tâm lí, đạo đức được hình thành trong quá trình 
lao động tập thể tác động đến nhận thức của mỗi phạm 
nhân. Do lao động tập thể, phạm nhân tự ý thức trong 
việc phải chú ý đến những người cùng cộng tác với mình, 
từ đó xóa bớt tâm lí cá nhân, ích kỉ có vị trí khá phổ biến 
trong phạm nhân. Mặt khác, trong lao động tập thể nhất 
thiết là môi trường thi đua sôi nổi, lôi kéo được phạm 
nhân tích cực tham gia lao động. Điều này đã khích lệ, 
phát triển những sáng kiến, sáng tạo và giúp đỡ lẫn nhau 
trong lao động của phạm nhân, hình thành trong họ nhận 
thức sâu sắc về vai trò lao động tập thể trong quá trình 
cải tạo ở trại giam. 
2.2.2. Sự quan tâm của cán bộ quản giáo đến phạm nhân 
Cùng với lao động và tác động của tập thể, mối quan 
hệ của Cán bộ quản giáo với phạm nhân là một trong 
những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức của 
phạm nhân trong lao động giáo dục, cải tạo trong trại giam. 
Quản giáo ở trại lao động là người trực tiếp làm việc 
với phạm nhân, lãnh đạo và tổ chức cho họ tham gia lao 
động sản xuất đồng thời theo suốt quá trình giáo dục, cải 
tạo của họ. Những yếu tố thuộc về uy tín, phong cách 
giao tiếp, năng lực lãnh đạo và sự quan tâm của cán bộ 
quản giáo đều tác động lên thái độ tích cực hay không 
tích cực trong mọi hoạt động của phạm nhân. Trong lao 
động, cán bộ quản giáo vừa là người quản lí phạm nhân 
lao động nhưng vừa là người thầy trong việc hướng dẫn, 
chỉ bảo họ làm việc. Vì thế, tình cảm, thái độ và sự tận 
tâm của cán bộ quản giáo như một xúc tác đến nhận thức 
tích cực của phạm nhân về lao động và ý nghĩa của lao 
động mang lại cho họ. 
Đặc biệt, yếu tố giao tiếp giữa cán bộ quản giáo cũng 
ảnh hưởng không nhỏ đến sự thay đổi nhận thức của 
phạm nhân. Đó không chỉ là việc cán bộ quản giáo nói gì 
với phạm nhân mà quan trọng cả việc nói như thế nào và 
ai nói. Sự truyền thụ những nội dung giáo dục, những tư 
tưởng của mình đến nhận thức phạm nhân phải vượt qua 
“rào cản tâm lí”, hòa đồng cùng giúp họ trong hoạt động 
lao động và sinh hoạt, rèn luyện trong trại. 
2.2.3. Chính sách khoan hồng và hình thức kỉ luật của 
Nhà nước trong lao động của phạm nhân 
Việc áp dụng chế độ chính sách đối với phạm nhân 
có tác dụng kích thích tính tích cực của phạm nhân. Phạm 
nhân là những người phạm tội đang chấp hành án phạt 
trong trại giam. Lao động đối với họ là lao động cưỡng 
chế để dần hình thành những phẩm chất của người lao 
động chân chính trong họ. Chính đặc điểm đó cộng với 
nét tâm lí lệch chuẩn là những trở ngại dẫn tới thái độ lao 
động không tốt của phạm nhân. 
Vì vậy, việc thực hiện đúng chính sách sẽ là động lực 
giúp cho phạm nhân lao động tích cực hơn, hiệu quả hơn, 
dần hình thành trong họ thói quen lao động . 
Nhà nước ta đã có những văn bản pháp luật quy định 
về việc thực hiện chế độ chính sách đối với phạm nhân 
trong quá trình cải tạo ở trại giam đạt kết quả tốt. Đó là 
thưởng cho phạm nhân bằng lợi ích vật chất, bằng tăng 
thêm số lần thăm gặp thân nhân, xét giảm thời hạn chấp 
hành án, xét đặc xá tha trước thời hạn. 
3. Kết luận 
Như vậy, tham gia vào quá trình thực hiện hành vi lao 
động trong trại giam của phạm nhân là sự tác động của 
nhiều yếu tố khách quan, chủ quan. Những yếu tố về chủ 
quan như: tâm, sinh lí lứa tuổi, nhận thức, nhân cách của 
phạm nhân đều ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi cụ thể 
trong quá trình lao động cải tạo của phạm nhân. Những 
yếu tố khách quan như: ảnh hưởng của tổ, đội sản xuất 
trong lao động tập thể, mối quan hệ, sự động viên từ cán 
bộ quản giáo đến phạm nhân, chỉ tiêu định mức lao động, 
chính sách khoan hồng kỉ luật của Đảng và Nhà nước, đều 
tác động không nhỏ đến hành vi lao động của phạm nhân 
trong quá trình cải tạo. Bên cạnh đó, còn có nhiều yếu tố 
khác như: trình độ học vấn, tính chất, mức án phạm tội, 
môi trường lao động đều có tác động nhất định đến hành 
vi lao động của phạm nhân. Vì vậy, việc tìm hiểu những 
yếu tố tác động đến hành vi lao động của phạm nhân giúp 
cho Ban giám thị trại giam xây dựng những biện pháp tâm 
lí, giáo dục tác động hiệu quả đến tính tích cực lao động 
của phạm nhân, từ đó nhận thấy ý nghĩa to lớn từ hoạt động 
lao động trong trại mang lại cho họ, giúp họ nhận rõ tội lỗi 
của mình, tích cực rèn luyện, phấn đấu và trở thành người 
công dân có ích cho gia đình và xã hội. 
(Xem tiếp trang 225) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 222-225 
225 
không phải chủ đề nào cũng có thể thực hiện được một cách 
khả thi và có hiệu quả. Vì vậy, để việc đánh giá quá trình 
thông qua các bài toán PISA hiệu quả hơn trong dạy học 
Toán, theo chúng tôi, GV cần: - Tăng cường những bài toán 
theo dạng thức PISA có nội dung thực tiễn vào nội dung 
kiểm tra, đánh giá ở cấp trung học, đặc biệt là ở trung học 
cơ sở; - Tăng cường xây dựng các bài toán theo dạng thức 
PISA có nội dung thực tiễn nhằm rèn luyện các kĩ năng cần 
thiết cho HS như: kĩ năng đọc hiểu đồ thị, biểu đồ, kĩ năng 
tính toán kết hợp với ước lượng về chiều dài, về chiều rộng, 
thể tích,...; - Tăng cường nội dung Xác suất và Thống kê 
trong dạy học ở cấp trung học cơ sở để tiếp cận nền giáo dục 
các nước trong khu vực và trên thế giới. Từng bước đưa ra 
các câu hỏi dạng thức PISA vào nội dung kiểm tra để đánh 
giá kiến thức toán học của HS. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Tài liệu tập huấn Chương trình 
đánh giá học sinh quốc tế PISA. 
[2] Trần Vui (2013). Đánh giá hiểu biết toán của học 
sinh 15 tuổi, chương trình đánh giá học sinh quốc tế 
PISA. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] The PISA (2003). Assessement framework, 
Mathematics, reading, science and problem solving, 
Knowledge and skills. Programme for international 
student Assessement. 
[4] Stacey, K. (2011). The PISA view of mathematical 
literacy in Indonesia. Journal on Mathematics 
Education, Vol. 2(2), pp. 95-126. 
[5] Wynne Harlen (2007). Assessment of Learning. 
SAGE Publications 
[6] Mazzeo, J. - Von Davier, M. (2008). Review of the 
Programme for International Student Assessment 
(PISA) test design: Recommendations for fostering 
stability in assessment results. Education Working 
Papers EDU/PISA/GB (2008), Vol. 28, pp. 23-24. 
[7] Nguyễn Bá Kim (2007). Phương pháp dạy học môn 
Toán. NXB Đại học Sư phạm. 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG 
(Tiếp theo trang 83) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trường Đại học Vinh (2012). Quy định chức năng, 
nhiệm vụ cố vấn học tập (kèm theo Quyết định số 
3814/QĐ-ĐHV ngày 10/12/1012). 
[2] Trần Thị Minh Đức (chủ biên, 2012). Cố vấn học 
tập trong các trường đại học. NXB Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[3] Nguyễn Thị Út Sáu (2013). Một số vấn đề về lí luận 
hoạt động tư vấn học tập cho sinh viên của cố vấn 
học tập ở các trường đại học. Tạp chí Giáo dục, số 
318, tr 17-19. 
[4] Trường Đại học Vinh (2013). Hướng dẫn quy trình 
xử lí học vụ cho sinh viên hệ chính quy (kèm theo 
công văn số 3389/ĐHV-ĐT ngày 10/10/2013). 
[5] Bộ GD-ĐT (2007). Quy chế đào tạo đại học và cao 
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành 
kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ/BGD&ĐT 
ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 
[6] Nguyễn Thị Bích - Nguyễn Ngọc Trân (2018). Vai trò 
của cố vấn học tập trong việc nâng cao chất lượng học 
tập của sinh viên tại Trường Đại học Đồng Tháp. Tạp 
chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 9, tr 54-58. 
[7] Phạm Thị Thanh Hải (2011). Một số nội dung của 
công tác cố vấn học tập trong đào tạo theo hệ thống 
tín chỉ Hoa Kì và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp 
chí Giáo dục, số 268, tr 26-28. 
[8] Nguyễn Duy Mộng Hà (2012). Đẩy mạnh công tác 
cố vấn học tập và tư vấn sinh viên góp phần nâng 
cao chất lượng dạy và học trong trường đại học theo 
học chế tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 291, tr 32-35. 
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 
(Tiếp theo trang 131) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Cung (2006). Những vấn đề tâm lí cơ bản 
trong hoạt động quản lí, giáo dục phạm nhân, trại 
viên, học sinh trường giáo dưỡng. Học viện Cảnh 
sát Nhân dân. 
[2] Hoàng Thị Bích Ngọc (1997). Nghiên cứu tâm lí 
phạm nhân loại tội phạm hình sự nhằm góp phần 
nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lí giáo dục 
trong các trại giam hiện nay. Đề tài nghiên cứu cấp 
bộ, Bộ Công an, Mã số 54. 
[3] Hoàng Cung (2003). Tâm lí học hoạt động quản lí, 
giáo dục phạm nhân, trại viên và học sinh trường 
giáo dưỡng. Học viện Cảnh sát nhân dân. 
[4] Chu Văn Đức (2009). Nghiên cứu sự thích ứng của 
phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động tại 
trại giam. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Tâm lí học. 
[5] Nguyễn Hữu Toàn (2013). Tự ý thức về hành vi 
phạm tội và hành vi chấp hành hình phạt tù của 
phạm nhân. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Khoa 
học Xã hội. 
[6] Trần Hiệp - Đỗ Long (1997). Tâm lí học - Những 
vấn đề lí luận. NXB Khoa học Xã hội. 
[7] Nguyễn Khắc Viện (1998). Từ điển tâm lí học. NXB 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy 
(1999). Tâm lí học (tập 1). NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_anh_huong_den_hanh_vi_lao_dong_cua_pham_nhan_t.pdf