Một số vấn đề về trách nhiệm bảo đảm tranh tụng của kiểm sát nhân dân trong vụ án dân sự

Nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” lần đầu tiên được quy định

trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, đây là bước tiến rất lớn

không những trong pháp luật tố tụng dân sự mà còn là khâu đột phá của hoạt

động tư pháp Việt Nam nói chung. Trên cơ sở nguyên tắc này, BLTTDS năm

2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả việc

tranh tụng trong xét xử. Một trong những yếu tố quyết định đến bảo đảm tranh

tụng trong TTDS là cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tranh tụng, trong đó

phải kể đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân góp phần làm sáng tỏ sự thật

khách quan của vụ án để Tòa án dựa trên kết quả của quá trình tranh tụng đưa

ra được phán quyết đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

pdf 6 trang kimcuc 3840
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về trách nhiệm bảo đảm tranh tụng của kiểm sát nhân dân trong vụ án dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về trách nhiệm bảo đảm tranh tụng của kiểm sát nhân dân trong vụ án dân sự

Một số vấn đề về trách nhiệm bảo đảm tranh tụng của kiểm sát nhân dân trong vụ án dân sự
55Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ TRÀ MY
Số chuyên đề 2 - 2019
1. Một số vấn đề về nguyên tắc bảo 
đảm tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự
Theo từ điển Hán Việt thì “tranh tụng” 
có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy lẽ 
phải”1, theo từ điển tiếng Việt thì tranh 
tụng có nghĩa là “kiện tụng”2, còn theo từ 
điển Luật học của Viện khoa học pháp 
lý, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005 thì 
“Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực 
hiện bởi các bên tham gia tố tụng có quyền 
1 Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam Bộ 
giáo dục và đào tạo (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, 
Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội, tr.621.
2 Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, 
Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1025.
bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng 
cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, 
phản bác lại quan điểm và lợi ích của phái đối 
lập”. Như vậy, theo cách hiểu chung nhất 
thì tranh tụng là việc từng bên đưa ra các 
quan điểm của mình và tranh luận lại để 
bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm 
của phía bên kia. Trên cơ sở kết quả tranh 
tụng, Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng 
bảo đảm tính khách quan của vụ án.
Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách 
tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO ĐẢM TRANH TỤNG 
CỦA KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
NGUYỄN THỊ TRÀ MY*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật dân sự và Kiểm sát dân 
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” lần đầu tiên được quy định 
trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, đây là bước tiến rất lớn 
không những trong pháp luật tố tụng dân sự mà còn là khâu đột phá của hoạt 
động tư pháp Việt Nam nói chung. Trên cơ sở nguyên tắc này, BLTTDS năm 
2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả việc 
tranh tụng trong xét xử. Một trong những yếu tố quyết định đến bảo đảm tranh 
tụng trong TTDS là cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tranh tụng, trong đó 
phải kể đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân góp phần làm sáng tỏ sự thật 
khách quan của vụ án để Tòa án dựa trên kết quả của quá trình tranh tụng đưa 
ra được phán quyết đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Từ khóa: Tranh tụng, đảm bảo tranh tụng, tố tụng dân sự, Viện kiểm sát 
nhân dân.
That “Ensure advocacy in adjudication” principle is first regulated in the 2015 
Civil Proceeding Code is not only a great step of civil proceeding law but also a 
breakthrough of Vietnamese judicial activity in general. Basing on this principle, the 
2015 Civil Proceeding Code has amended and supplemented many regulations to 
effectively ensure advocacy in adjudication. One of determinants for this principle 
in civil proceeding is the examination and supervision mechanism of litigation 
activities, including the role of the People’s Procuracy which contributes to clarifying 
the cases’ objective truths. From the litigation process results, the Court can make 
correct verdicts that ensure the involved parties’ legitimate rights and interests.
Keywords: Advocacy, ensuring advocacy, civil procedures, the People’s Procuracy.
56
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây 
là khâu đột phá của hoạt động tư pháp3, 
đồng thời cụ thể hóa “nguyên tắc tranh 
tụng trong xét xử được bảo đảm” đã được 
Hiến pháp năm 2013 quy định4, BLTTDS 
năm 2015 đã sửa đổi nguyên tắc “Bảo 
đảm quyền tranh luận” trong Tố tụng dân 
sự thành nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng 
trong xét xử”. Với ý nghĩa là một nguyên 
tắc của luật Tố tụng dân sự, “bảo đảm 
tranh tụng trong xét xử” được coi là tư tưởng 
chủ đạo, định hướng chi phối các giai đoạn 
nhất định của quá trình TTDS. Thông qua 
việc bảo đảm tranh tụng trong TTDS, chủ 
thể tranh tụng được bình đẳng với nhau 
trong việc đưa ra yêu cầu, bày tỏ và bảo vệ 
yêu cầu của mình trong toàn bộ quá trình 
giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá 
trình này diễn ra tại phiên tòa xét xử vụ án. 
Điều này sẽ giúp tìm ra sự thật khách quan 
của vụ án để Tòa án đưa ra quyết định 
đúng đắn nhất, bảo vệ hữu hiệu quyền con 
người, quyền công dân. 
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong 
xét xử được thể hiện tại Điều 24 BLTTDS 
năm 2015, theo đó: 
“1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho 
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng 
trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc 
thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi 
ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, 
giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án 
3 Nghị quyết số: 49/TW Bộ chính trị: “Đổi mới việc 
tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, 
quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố 
tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo 
đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng 
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, 
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
4 Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013.
thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo 
cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; 
trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập 
luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp 
dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp 
pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người 
khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, 
chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách 
quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp 
không được công khai theo quy định tại khoản 
2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành 
việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và 
căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, 
quyết định”.
Nội dung Điều 24 nguyên tắc này có 
những điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về thời điểm bảo đảm tranh 
tụng: Việc tranh tụng được bảo đảm thực 
hiện từ khi khởi kiện vụ án cho đến khi 
giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện 
quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét 
xử sở thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, 
tái thẩm.
Thứ hai, chủ thể tham gia tranh tụng: 
Khác với tố tụng hình sự (TTHS), bản chất 
của hoạt động tranh tụng trong TTHS là 
sự tranh luận qua lại giữa hai bên buộc tội 
và bào chữa để tìm ra sự thật của vụ án. 
Chính vì vậy, tranh tụng chỉ đặt ra giữa 
các bên buộc tội gồm: Cơ quan điều tra, 
Viện kiểm sát và bên bào chữa gồm bị can, 
bị cáo và/hoặc người bào chữa. Bản chất 
của TTDS là quan hệ tư, trong TTDS Tòa 
án chỉ giải quyết vụ án dân sự (VADS) trên 
cơ sở yêu cầu, có đơn khởi kiện của người 
khởi kiện. Chính vì vậy chủ thể tranh tụng 
trong TTDS là các đương sự: bao gồm 
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, 
nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, BLTTDS còn 
quy định cơ chế hỗ trợ cho đương sự trong 
57Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ TRÀ MY
Số chuyên đề 2 - 2019
quá trình giải quyết vụ án dân sự, đó là sự 
tham gia của người đại diện và người bảo 
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương 
sự. Trong trường hợp vụ án dân sự có sự 
tham gia của các chủ thể này thì đây cũng 
là chủ thể tranh tụng trong TTDS.
Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm, 
quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, 
người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa 
vụ của người tham ra tố tụng, đặc biệt là 
quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ 
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi 
ích hợp pháp của đương sự và nhiệm vụ, 
quyền hạn của Tòa án, Viện kiểm sát trong 
việc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
Thứ tư, trong quá trình tố tụng và tại 
phiên tòa các chứng cứ của vụ án phải 
được công khai trừ trường hợp không 
được công khai, quy định tại khoản 2 Điều 
109 BLTTDS năm 2015. Các đương sự đều 
có quyền được biết, ghi chép, sao chụp 
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất 
trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, 
chứng cứ không được công khai), được 
trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, 
lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp 
luật áp dụng để bảo vệ quyền và lợi ích 
hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu 
của người khác. Tại phiên tòa, Hội đồng 
xét xử phải bảo đảm các đương sự thực 
hiện việc tranh tụng, chỉ hỏi những vấn 
đề mà người tham gia tố tụng trình bày 
chưa rõ. Trong trường hợp cần thiết phải 
có thời gian thu thập thêm chứng cứ để 
đủ cơ sở giải quyết vụ án thì Hội đồng xét 
xử tạm ngừng phiên tòa và căn cứ vào kết 
quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
Trên cơ sở của nguyên tắc này, BLTTDS 
năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định 
nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng như: 
- Quy định về thời hạn giao nộp chứng 
cứ của đương sự theo quy định tại Khoản 4 
Điều 96 BLTTDS năm 2015, theo đó: “Thời 
hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán 
được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng 
không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử 
theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết 
việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”; 
- Quy định về việc thông báo chứng 
cứ của vụ việc cho nhau giữa các đương 
sự theo khoản 5 Điều 96 BLTTDS năm 
2015: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng 
cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, 
chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của 
Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể 
sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản 
cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp 
pháp của đương sự khác”. 
- Quy định về phiên họp kiểm tra việc 
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ: 
Theo đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung 
các quy định về thông báo, thành phần, 
trình tự và biên bản phiên họp kiểm tra 
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng 
cứ từ Điều 208 đến Điều 211 BLTTDS năm 
2015. Đây là phương thức để bảo đảm các 
đương sự được quyền biết và tiếp cận tất 
cả tài liệu, chứng cứ; trao đổi chứng cứ, 
bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có), xác 
định những chứng cứ đã giao nộp, giúp 
cho đương sự có đủ điều kiện chuẩn bị 
việc tranh tụng tại phiên tòa. 
- Quy định về các biện pháp thu thập 
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức tại 
khoản 1 Điều 97 BLTTDS năm 2015. Quy 
định này đã thể hiện được quyền và vai 
trò của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong 
việc thu thập chứng cứ để chứng minh 
cho yêu cầu của đương sự, bởi vì nghĩa vụ 
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong 
TTDS thuộc về đương sự. 
- Đổi mới thủ tục phiên tòa sơ thẩm 
theo hướng bảo đảm tranh tụng: Đề cao 
58
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
vai trò của các bên đương sự, theo đó bỏ 
nguyên tắc xét xử liên tục, đồng thời quy 
định cụ thể về căn cứ, thủ tục tạm ngừng 
phiên tòa sơ thẩm theo Điều 259 BLTTDS 
năm 2015; Sửa đổi, bổ sung quy định về 
thủ tục phiên tòa theo hướng tăng cường 
tranh tụng như sửa đổi trình tự diễn ra 
phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, theo đó 
đương sự được trình bày yêu cầu và chứng 
cứ, tham gia hỏi, tham gia phát biểu tranh 
luận và đối đáp; Điều 249 BLTTDS năm 
2015, thứ tự hỏi đã có sự thay đổi tạo sự chủ 
động cho các đương sự, theo đó đương sự 
và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
của các đương sự hỏi trước sau đó mới đến 
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên; bổ sung 
nội dung và phương thức tranh tụng tại 
phiên tòa theo Điều 247; bổ sung quy định 
tại Điều 255 quy định tại phần hỏi, theo yêu 
cầu của đương sự, người bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham 
gia tố tụng khác, Kiểm sát viên Viện kiểm 
sát hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng 
xét xử (HĐXX) cho nghe băng ghi âm, đĩa 
ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, 
thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại 
phiên tòa, trừ trường hợp theo quy định tại 
khoản 2 Điều 254 BLTTDS năm 2015. Quy 
định này nhằm đảm bảo tranh tụng, bảo 
đảm cho việc xem xét vụ án khách quan, 
toàn diện, tạo điều kiện cho đương sự cung 
cấp chứng cứ, chứng minh tại phiên tòa
Những sửa đổi, bổ sung trên đã góp 
phần bảo đảm tranh tụng trong TTDS, đề 
cao vai trò của các bên đương sự - chủ thể 
tranh tụng, giúp cho các bên đương sự 
có những điều kiện thuận lợi nhất, bình 
đẳng nhất khi tham gia vào quá trình 
tranh tụng tại Tòa án.
2. Việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử 
vụ án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
Phải khẳng định rằng, khác với TTHS, 
trong TTDS, Viện kiểm sát chỉ thực hiện 
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Sự 
tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng 
dân sự với tư cách là một cơ quan tiến 
hành tố tụng, độc lập với Tòa án. Trong 
bảo đảm tranh tụng, Viện kiểm sát kiểm 
sát hoạt động tố tụng dân sự nhằm phát 
hiện những hành vi xâm phạm quyền 
tranh tụng của đương sự để có thể phát 
hiện ngăn chặn kịp thời, góp phần tạo môi 
trường tố tụng an toàn, bảo đảm quyền 
tranh tụng cho các đương sự. Tuy nhiên, 
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án và 
những người tham gia tố tụng là để “hỗ 
trợ cho việc thực hiện chức năng xét xử của 
Tòa án”5, bảo đảm Tòa án giải quyết vụ án 
dân sự khách quan, công bằng, chính xác, 
đúng pháp luật, bảo đảm đương sự thực 
hiện hiệu quả quyền tranh tụng theo đúng 
quy định của pháp luật, chứ không phải 
kiểm sát là can thiệp vào hoạt động xét xử 
của Tòa án. Với chức năng kiểm sát việc 
tuân theo pháp luật, theo đó, Viện kiểm 
sát kiểm sát hoạt động tranh tụng của các 
bên đương sự cũng như kiểm sát xem Tòa 
án có thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm 
của người điều khiển quá trình tranh tụng 
không. Khi thực hiện chức năng này, Viện 
kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn 
sau:
Thứ nhất, kiểm sát chặt chẽ việc tuân 
theo pháp luật nhằm bảo đảm tranh tụng 
trong TTDS như: Kiểm sát chặt chẽ việc 
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; kiểm 
sát việc thụ lý vụ việc dân sự; kiểm sát 
việc Tòa án xác minh, thu thập tài liệu 
chứng cứ, kiểm sát kết quả phiên họp, 
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai 
5 Nguyễn Thái Phúc (2005), “Những chức năng cơ 
bản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và 
pháp luật (12), tr.48.
59Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ TRÀ MY
Số chuyên đề 2 - 2019
chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa, 
phiên họp; kiểm sát việc tuân theo pháp 
luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, 
Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng 
tại phiên tòa, phiên họp, kiểm sát bản án, 
quyết định của Tòa án Điều này sẽ góp 
phần bảo đảm cho các chủ thể tranh tụng 
thực hiện được quyền tranh tụng của 
mình như: Bảo đảm quyền đưa ra yêu cầu 
khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc 
lập của đương sự; bảo đảm các đương sự 
được biết về tài liệu, chứng cứ do người 
khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập 
để có thể chuẩn bị và căn cứ vào các tài 
liệu, chứng cứ đó để chứng minh cho yêu 
cầu hoặc sự phản đối yêu cầu của mình là 
hợp lý; bảo đảm quyền thay đổi, bổ sung, 
rút yêu cầu của đương sự; bảo đảm quyền 
được tham gia tranh tụng tại phiên tòa: 
được trình bày, hỏi, tranh luận, đối đáp, 
trả lời... giữa các đương sự, để thông qua 
quá trình tranh tụng, sự thật khách quan 
của vụ án được làm sáng tỏ; Bảo đảm 
Tòa án thực hiện đúng chức năng, nhiệm 
vụ, quyền hạn không xâm phạm và tạo 
điều kiện thuận lợi cho các đương sự thực 
hiện quyền tranh tụng của mình tại phiên 
tòa để Hội đồng xét xử căn cứ vào kết 
quả của quá trình tranh tụng ra bản án, 
quyết định đúng đắn, khách quan.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện hoạt 
động kiểm sát, nếu phát hiện vi phạm của 
các chủ thể trong hoạt động tranh tụng thì 
tùy từng trường hợp cụ thể, Viện kiểm sát 
thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, 
quyền kháng nghị theo quy định của pháp 
luật như: Quyền yêu cầu Tòa án xác minh 
thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình 
giải quyết vụ việc dân sự hoặc tự mình xác 
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo 
đảm cho việc thực hiện quyền kháng nghị 
bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm, 
giám đốc thẩm, tái thẩm; yêu cầu Tòa án 
thực hiện đúng các hoạt động tố tụng tại 
phiên tòa theo quy định của BLTTDS năm 
2015 như yêu cầu Hội đồng xét xử công bố 
tài liệu, chứng cứ của vụ án; cho nghe băng 
ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa 
ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình 
ảnh tại phiên tòa; yêu cầu hỏi về các vấn đề 
cần thiết khi các tình tiết của vụ án chưa 
được xem xét đầy đủ, yêu cầu Thẩm phán 
tuân thủ thứ tự hỏi, tranh luận, không hạn 
chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho 
những người tham gia tranh tụng trình 
bày hết ý kiến Điều này, sẽ góp phần bảo 
đảm cho các chủ thể tranh tụng thực hiện 
được quyền tranh tụng của mình.
Đặc biệt, tranh tụng thể hiện rõ nét 
nhất tại phiên tòa khi các đương sự đối 
diện trực tiếp trình bày, tranh luận, đối 
đáp với nhau. Ngoài những nhiệm vụ, 
quyền hạn đã nêu trên, tại phiên tòa, Kiểm 
sát viên còn thực hiện các quyền sau:
- Kiểm sát viên tham gia hỏi tại phiên tòa: 
Theo quy định, Kiểm sát viên tham gia 
phiên tòa hỏi sau khi đương sự và HĐXX 
đã hỏi xong. Việc Kiểm sát viên hỏi tại 
phiên tòa sẽ góp phần làm sáng tỏ sự thật 
khách quan của vụ án. Thực tế cho thấy, 
mặc dù pháp luật quy định các đương 
sự có thể hỏi nhau nhưng do hạn chế về 
trình độ, kiến thức pháp luật nên đôi khi 
đương sự không thể biết hết được tình 
tiết nào cần làm rõ và phải hỏi cách nào 
để thu thập được những thông tin hữu 
ích nhất, bảo vệ tối ưu quyền và lợi ích 
hợp pháp. Việc hỏi của HĐXX có thể sẽ 
phiến diện theo nhận định chủ quan của 
các thành viên HĐXX, từ đó dẫn tới việc 
đánh giá thiếu khách quan, toàn diện về 
các tình tiết cần làm sáng tỏ của vụ án. Vì 
vậy, pháp luật tố tụng dân sự mở ra cơ 
chế giám sát của Viện kiểm sát trong thủ 
60
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO ĐẢM TRANH TỤNG...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
tục hỏi tại phiên tòa để bảo đảm thực hiện 
được các quyền của đương sự trong đó 
bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự, 
trong điều kiện tối ưu nhất. Và đặc biệt tại 
phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên tham 
gia hỏi đương sự và những người tham 
gia tố tụng khác sẽ bảo đảm mọi tài liệu, 
chứng cứ được xem xét đầy đủ, khách 
quan, toàn diện, công khai.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên 
tòa, cụ thể là:
+ Tại phiên tòa sơ thẩm, ngoài nội 
dung quy định tại Điều 234 của BLTTDS 
năm 2011 là tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm 
sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo 
pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, 
Thư ký phiên tòa và của những người 
tham gia tố tụng trong quá trình giải 
quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước 
thời điểm HĐXX nghị án thì BLTTDS năm 
2015 đã bổ sung tại phiên tòa sơ thẩm, 
Kiểm sát viên còn phát biểu quan điểm 
của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án 
(Điều 262 BLTTDS năm 2015).
+ Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi kết 
thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát 
viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về 
việc tuân theo pháp luật trong quá trình 
giải quyết VADS ở giai đoạn phúc thẩm 
(Điều 306 BLTTDS năm 2015). Trong giai 
đoạn này, Viện kiểm sát không chỉ kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật của những 
người tiến hành tố tụng, người tham gia 
tố tụng mà Viện kiểm sát còn kiểm sát 
các bản án, quyết định sơ thẩm và bảo vệ 
quan điểm kháng nghị của mình khi Viện 
trưởng Viện kiểm sát kháng nghị.
+ Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái 
thẩm, theo Điều 341 BLTTDS năm 2015 thì 
đại diện Viện kiểm sát trình bày nội dung 
kháng nghị, phát biểu ý kiến của Viện kiểm 
sát về quyết định kháng nghị và việc giải 
quyết vụ án.
 Việc đại diện Viện kiểm sát tham gia 
phát biểu quan điểm của mình tại phiên 
tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, 
tái thẩm giúp đương sự biết được quá 
trình tranh tụng có được diễn ra theo đúng 
trật tự, quy định của pháp luật hay không, 
quyền và lợi ích của mình có được Tòa án 
bảo đảm trong suốt quá trình tranh tụng 
hay không. Điều này giúp cho đương sự, 
Hội đồng xét xử có thêm một “kênh thông 
tin” về hướng giải quyết vụ án để Tòa án 
có thể ra phán quyết có căn cứ và đúng 
pháp luật.
Như vậy, thông qua quá trình kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng 
dân sự và việc thực hiện các quyền mà 
pháp luật quy định, Viện kiểm sát góp 
phần bảo đảm cho quá trình tranh tụng 
của đương sự được diễn ra theo đúng 
trật tự; bảo đảm các đương sự được trình 
bày, tranh luận, đối đáp, đưa ra các chứng 
cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình 
hoặc phản đối yêu cầu của người khác 
bảo đảm HĐXX, đặc biệt là Thẩm phán 
chủ tọa phiên tòa phải tôn trọng, chủ trì 
và điều khiển quá trình tranh tụng theo 
đúng quy định của pháp luật, không 
được hạn chế về mặt thời gian cũng như 
tạo điều kiện cho các đương sự được trình 
bày, được hỏi, được tranh luận Điều 
này sẽ giúp cho quá trình tranh tụng đạt 
hiệu quả cao. 
Tóm lại, với vai trò là cơ quan tiến 
hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
trong tố tụng dân sự nói chung và trong 
suốt quá trình tranh tụng nói riêng, Viện 
kiểm sát bảo đảm cho hoạt động tranh 
tụng được diễn ra theo đúng quy định 
của pháp luật, góp phần làm sáng tỏ sự 
thật khách quan của vụ án để Tòa án dựa 
trên kết quả của quá trình tranh tụng đưa 
ra được phán quyết đúng đắn, bảo vệ 
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự./.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_trach_nhiem_bao_dam_tranh_tung_cua_kiem_sat.pdf