Một số vấn đề về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự

Các công trình nghiên cứu trong và ngoài

nước cho thấy, sự xuất hiện quyền buộc tội là

vấn đề thuộc phạm trù khách quan. Trong

thời kỳ đầu sản sinh ra nhà nước, loài người

chỉ coi tội phạm là sự thù oán của các cá

nhân với nhau, nhưng sau đó nhà nước dần

can thiệp, thống nhất thực thi quyền ngăn

chặn, trừng phạt tội phạm. Cơ quan xét xử

được nhà nước lập ra để can thiệp vào tranh

chấp tư nhân, lấy việc xét xử thay thế cho

báo thù tư nhân. Đồng hành cùng với hoạt

động xét xử là hoạt động buộc tội(1). Ngày

nay, các công trình nghiên cứu phổ biến cho

thấy chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự

(TTHS) có ba loại đó là: chức năng buộc tội,

chức năng bào chữa và chức năng xét xử(2).

Tuy rằng có sự khác nhau trong việc tổ chức

vận hành các chức năng cơ bản, song các mô

hình TTHS đều tồn tại ba chức năng TTHS

cơ bản nêu trên(3); sự tồn tại các chức năng

cơ bản của TTHS là vấn đề thuộc phạm trù

khách quan.

pdf 9 trang kimcuc 7220
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự

Một số vấn đề về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự
3Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
1. Quyền công tố và thực hành quyền 
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 
1.1. Nguồn gốc, khái niệm quyền công tố 
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài 
nước cho thấy, sự xuất hiện quyền buộc tội là 
vấn đề thuộc phạm trù khách quan. Trong 
thời kỳ đầu sản sinh ra nhà nước, loài người 
chỉ coi tội phạm là sự thù oán của các cá 
nhân với nhau, nhưng sau đó nhà nước dần 
can thiệp, thống nhất thực thi quyền ngăn 
chặn, trừng phạt tội phạm. Cơ quan xét xử 
được nhà nước lập ra để can thiệp vào tranh 
chấp tư nhân, lấy việc xét xử thay thế cho 
báo thù tư nhân. Đồng hành cùng với hoạt 
động xét xử là hoạt động buộc tội(1). Ngày 
1  Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc 
(2002), Giáo trình công tác kiểm sát, NXB pháp luật Bắc 
Kinh (bản dịch của trường Cao đẳng kiểm sát Hà 
Nội), trang 8.
nay, các công trình nghiên cứu phổ biến cho 
thấy chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự 
(TTHS) có ba loại đó là: chức năng buộc tội, 
chức năng bào chữa và chức năng xét xử(2). 
Tuy rằng có sự khác nhau trong việc tổ chức 
vận hành các chức năng cơ bản, song các mô 
hình TTHS đều tồn tại ba chức năng TTHS 
cơ bản nêu trên(3); sự tồn tại các chức năng 
cơ bản của TTHS là vấn đề thuộc phạm trù 
khách quan. 
Công tố và tư tố là những hình thức 
khác nhau để thực hiện việc buộc tội. 
* Thạc sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ THQCT&KSXX án tham 
nhũng, VKSNDTC
2  Nguyễn Mạnh Hùng (2012); Các chức năng trong 
TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, 
Luận án tiến sỹ Luật học.
3  Nguyễn Thị Thuỷ (2014), Mô hình tố tụng hình 
sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng, 
Luận án Tiến sỹ Luật học.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ 
KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
NGUYỄN HOÀI NAM * 
Thực hành quyền công tố (THQCT) và Kiểm sát xét xử (KSXX) vụ án 
hình sự là một khâu công tác quan trọng thực hiện chức năng của ngành 
Kiểm sát nhân dân. Với mong muốn đóng góp nâng cao chất lượng công 
tác trên, tác giả bài viết phân tích góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn 
đề lý luận và đề xuất hoàn thiện pháp luật về THQCT và KSXX vụ án 
hình sự.
Từ khóa: Thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, vụ án hình sự.
Exercising the power to prosecute and Supervising the adjudication 
of criminal cases play important roles in performing the function of 
the Procuracy sector. Having a desire to contribute to enhancing the 
quality of these activities, the author would like to analyze and clarify 
some theoretical issues, at the same time propose recommendations on 
perfecting the Law on exercising the power to prosecute and supervising 
the adjudication of criminal cases.
Keywords: Exercising the power to prosecute, Supervising the 
adjudication, criminal cases.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
4 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
Trong lịch sử các nước từng thi hành một 
thời kỳ dài hình thức tố tụng kiểu “vạch 
tội”, nhà nước không chủ động truy tố 
tội phạm, mà người bị hại trực tiếp nhân 
danh cá nhân để bảo vệ lợi ích của bản 
thân mình trước tòa. Quyền này của người 
bị hại được gọi là “quyền tư tố”. Cùng với 
sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy 
nhà nước cũng như hệ thống pháp luật, 
sự nhận thức của xã hội về lợi ích công và 
lợi ích tư, về trách nhiệm của nhà nước 
đối với xã hội đã có sự thay đổi đáng kể. 
Càng về sau, giai cấp thống trị nhận ra 
rằng trong nhiều trường hợp, khi các lợi 
ích cá nhân bị xâm hại thì lợi ích công cộng 
(như trật tự công cộng, an ninh xã hội ...) 
cũng bị đe dọa hoặc bị xâm hại, do đó cần 
có sự can thiệp của nhà nước để chống lại 
các hành vi xâm phạm này. Chính vì vậy, 
vai trò của công tố ngày càng được đề cao, 
thay thế cho tư tố. Ngày nay tư tố vẫn tồn 
tại song song cùng công tố ở hầu hết các 
nước nhưng phạm vi bị thu hẹp lại(1). 
Xung quanh khái niệm quyền công tố 
(QCT) có khá nhiều quan niệm khác nhau, 
song có thể cho rằng: “QCT trong TTHS là 
quyền đại diện cho nhà nước để buộc tội 
đối với người đã thực hiện hành vi phạm 
tội”. Về bản chất, QCT là quyền “buộc tội 
công”, thuộc quyền lực công, là một bộ 
phận không thể tách rời với quyền lực nhà 
nước, được nhà nước sử dụng nhằm truy 
cứu trách nhiệm hình sự đối với người 
phạm tội. QCT mang tính quyền uy, giữa 
một bên là nhà nước (bên có quyền lực và 
đứng ra buộc tội) và người phạm tội (là 
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự). 
Nội dung QCT chính là sự buộc tội đối 
1  Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, 
Luận án Tiến sỹ Luật học
với người đã thực hiện tội phạm, được 
thể hiện dưới hình thức cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền thực hiện các hoạt động tố 
tụng nhằm truy tìm người thực hiện hành 
vi phạm tội và tiến hành buộc tội trước 
tòa án (TA). Đối tượng của QCT cần được 
xác định là tội phạm và người phạm tội. 
Đối tượng của QCT gắn bó mật thiết với 
chính sách hình sự và đường lối xử lý tội 
phạm của nhà nước. Nếu mở rộng phạm 
vi các hành vi bị coi là tội phạm được quy 
định trong Bộ luật hình sự (BLHS) hoặc 
ngược lại loại bỏ các hành vi không phải 
là tội phạm ra khỏi BLHS thì đối tượng tác 
động của QCT cũng thay đổi theo. QCT 
xuất hiện ngay từ khi có hành vi phạm tội 
xảy ra và chỉ chấm dứt khi vụ án được xét 
xử và bản án có hiệu lực pháp luật, hoặc 
có thể chấm dứt ở các giai đoạn tố tụng 
sớm hơn, ví dụ như các trường hợp cơ 
quan có thẩm quyền đình chỉ vụ án. 
1.2. Thực hành quyền công tố trong 
giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Để QCT được thực hiện nhà nước tổ 
chức ra các chủ thể thực hiện QCT, quy 
định trong luật TTHS vị trí, vai trò, nhiệm 
vụ, quyền hạn để các chủ thể đó có thể 
thực hiện QCT trong thực tiễn. Với cách 
hiểu QCT như đã trình bày trên, thì “Thực 
hành quyền công tố là hoạt động của cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng 
tổng hợp các quyền năng pháp lý do pháp 
luật quy định để buộc tội đối với người 
đã thực hiện hành vi phạm tội”. Có thể 
nói, mối quan hệ giữa QCT và THQCT 
trong TTHS là mối quan hệ biện chứng 
giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ 
chức thực hiện quyền lực ấy. QCT trong 
TTHS là quyền lực của nhà nước có nội 
dung là sự buộc tội đối với người thực 
NGUYỄN HOÀI NAM
5Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
hiện tội phạm, THQCT trong TTHS có nội 
dung là việc sử dụng tổng hợp các quyền 
năng pháp lý để thực hiện quyền buộc 
tội ấy. Trong thực tiễn, cần phân biệt giữa 
THQCT với các quyền năng cụ thể mà 
pháp luật quy định để thực hiện quyền lực 
ấy. THQCT không phải là khởi tố vụ án, ra 
lệnh bắt tạm giam, công bố cáo trạng tại 
phiên tòa,... mà THQCT là việc sử dụng 
các quyền năng pháp lý do pháp luật quy 
định này để “buộc tội đối với người đã 
thực hiện hành vi phạm tội”. Thời điểm 
cụ thể phát sinh THQCT tùy thuộc vào 
pháp luật của mỗi nước ở từng thời điểm. 
Song, về nguyên tắc chung, THQCT bắt 
đầu từ giai đoạn có các hoạt động phát 
hiện, điều tra tội phạm và kết thúc khi bản 
án, quyết định của TA có hiệu lực pháp 
luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. So 
sánh phạm vi QCT với phạm vi THQCT 
thì thấy rằng, QCT trong TTHS bắt đầu 
từ khi tội phạm xảy ra, nhưng hoạt động 
THQCT chỉ bắt đầu ở thời điểm pháp 
luật quy định các quyền năng pháp lý để 
cơ quan công tố thực nhiệm vụ truy cứu 
trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với 
người thực hiện hành vi phạm tội. Như 
vậy, phạm vi THQCT không đồng nhất 
với phạm vi QCT; THQCT thường được 
quy định trễ hơn, có phạm vi hẹp hơn so 
với phạm vi QCT. Hơn nữa, trong thực tế 
hoạt động THQCT thường không được 
tiến hành ngay khi hành vi phạm tội xảy 
ra; thậm chí trong nhiều trường hợp tuy 
có hành vi phạm tội xảy ra nhưng cơ quan 
pháp luật không phát hiện ra, không có 
các hoạt động THQCT đối với vụ việc đó. 
Để tăng cường hiệu quả THQCT thì pháp 
luật cần quy định để phạm vi THQCT 
ngày càng tiệm cận phạm vi QCT. Về mặt 
chủ thể, không được nhầm lẫn việc một số 
cơ quan nhà nước có quyền tiến hành một 
số quyền năng pháp lý như khởi tố vụ án, 
khởi tố bị can để cho rằng cũng là cơ quan 
THQCT. Có thể khẳng định, chỉ chủ thể 
nào được giao nhiệm vụ nhân danh Nhà 
nước đưa vụ án ra tòa, yêu cầu truy cứu 
trách nhiệm hình sự một cách công khai 
bằng con đường TA thì chủ thể ấy mới 
chính là cơ quan THQCT. 
THQCT có thể được thực hiện qua 
nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình 
giải quyết vụ án hình sự như: khởi tố, 
điều tra, truy tố, xét xử. Trong giai đoạn 
xét xử, VKS sử dụng quyền năng pháp 
lý pháp luật quy định, như công bố cáo 
trạng, xét hỏi, tranh luận,... để thực hiện 
sự buộc tội đối với người phạm tội trước 
TA. Các công trình nghiên cứu cho thấy có 
sự đa dạng về mô hình TTHS, với nhiều 
cách phân loại khác nhau, trong có thể 
phân loại gồm: mô hình TTHS tranh tụng, 
mô hình TTHS thẩm vấn, mô hình TTHS 
pha trộn. Tương ứng với đó, THQCT 
trong giai đoạn xét xử ở mỗi mô hình tố 
tụng cũng có những đặc điểm khác nhau, 
nhưng nhìn chung, để thực hiện nhiệm vụ 
THQCT thì THQCT ở giai đoạn xét xử có 
vai trò rất quan trọng, mang tính quyết 
định. Phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn, 
có thể nói, thực chất là sự tiếp tục của quá 
trình điều tra liên tục, tại phiên tòa cùng 
với những chứng cứ trực tiếp được trình 
bày bằng lời của các nhân chứng trước 
Tòa, các chứng cứ đã thu thập được trong 
các giai đoạn tố tụng trước đó được kiểm 
tra, xác minh lại làm căn cứ cho việc ra 
phán quyết. Do vậy, hoạt động THQCT 
trong giai đoạn xét xử có vai trò quan trọng 
để tài liệu, chứng cứ được thu thập trong 
quá trình điều tra, truy tố được sử dụng, 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
6 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
xem xét làm cơ sở cho phán quyết của tòa 
án. Trong mô hình tố tụng tranh tụng “với 
quan niệm TTHS chỉ gồm có giai đoạn xét 
xử, các chức năng buộc tội, bào chữa và 
xét xử chỉ thực sự bắt đầu tại phiên tòa sơ 
thẩm”(1) vai trò THQCT của KSV tại phiên 
tòa lại càng quan trọng hơn.
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
và kiểm sát xét xử vụ án hình sự 
2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
– Một phương thức giám sát việc thực hiện 
quyền lực nhà nước
Montesqieu đã viết: “Bất cứ ai có quyền 
đều có xu hướng lạm quyền, họ cứ sử dụng 
quyền đến khi nào gặp phải giới hạn”. Việc 
lạm dụng quyền lực quá mức được giao, 
hoặc sử dụng quyền lực được giao một 
cách trái phép để phục vụ cho lợi ích cá 
nhân vốn là xu hướng khách quan trong 
quá trình vận động, phát triển của quyền 
lực. Đây là biểu hiện của sự tha hóa quyền 
lực, dẫn đến những hậu quả vô cùng tai 
hại cho xã hội. Do tính chất đặc biệt của 
việc thực hiện quyền lực nhà nước như 
vậy, nên các nhà nước đều phải đặt ra 
vấn đề giám sát, kiểm soát quyền lực nhà 
nước(2). Xã hội càng phát triển, quyền lực 
của nhà nước càng lớn thì yêu cầu của 
giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước 
tăng lên. Trên cơ sở phạm vi của quyền 
lực nhà nước thì hoạt động giám sát việc 
thực hịên quyền lực nhà nước được tiến 
hành trên các lĩnh vực: giám sát đối với 
hoạt động của các cơ quan đại diện quyền 
lực nhà nước; giám sát đối với hoạt động 
1 Nguyễn Mạnh Hùng (2012); Các chức năng trong 
TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, 
Luận án tiến sỹ Luật học.
2  Đào Trí Úc (Chủ biên) Mô hình tổ chức và hoạt 
động của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, NXB Tư pháp năm 2007, trang 447.
của cơ quan chấp hành, điều hành; giám 
sát đối với hoạt động của các cơ quan tư 
pháp, trên mọi phương diện hoạt động, 
với nhiều phương thức khác nhau.
Lịch sử phát triển của các nước ghi 
nhận kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
của VKS là một hình thức của hoạt động 
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà 
nước. Nếu xét theo các chức năng được 
giao thực hiện, các VKS/ Viện công tố và 
những thiết chế tương tự tồn tại ở các 
nước trên thế giới có thể chia thành hai 
nhóm chủ yếu: nhóm có chức năng công 
tố và nhóm có chức năng giám sát việc 
tuân theo pháp luật. Nhóm thứ nhất gồm 
hầu hết các nước thuộc hệ thống luật châu 
Âu lục địa và thiết chế công tố viên đứng 
đầu là Tổng chưởng lý (General Attorney) 
của Mỹ. Ở các quốc gia nêu trên, cơ quan 
này có chức năng chủ yếu là truy tố người 
phạm tội hình sự và giữ QCT tại TA. 
Nhóm thứ hai gồm các nước XHCN, đa 
số các nước trước đây là quốc gia XHCN 
và nhiều nước Mỹ-latinh. Ở các nước này, 
chức năng của VKS đa dạng hơn, bao gồm 
chức năng giám sát (kiểm sát) việc tuân 
theo pháp luật và chức năng công tố(3). Do 
các điều kiện về lịch sử, kinh tế chính trị 
khác nhau, ở các nước này Nhà nước vẫn 
cần có một cơ chế giám sát việc tuân theo 
pháp luật, đặc biệt trong các hoạt động 
tư pháp, bảo đảm để pháp chế được tôn 
trọng, do đó giao cho VKS chức năng kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật. Sau khi Liên 
Xô sụp đổ năm 1991, ở các nước xã hội 
chủ nghĩa ở Đông Âu vị trí, vai trò, chức 
năng, nhiệm vụ của VKS có sự thay đổi. 
3  VKSND tối cao (2010); Bàn về chức năng giám sát 
việc thực hiện quyền lực của nhà nước và chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS ở nước ta. 
Đề tài khoa học cấp bộ.
NGUYỄN HOÀI NAM
7Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Tuy vậy, một số nước quốc gia chuyển đổi 
vẫn giao cho VKS/Viện Công tố chức năng 
giám sát việc tuân theo pháp luật, ngoài 
chức năng THQCT(1). 
2.2. Kiểm sát xét xử vụ án hình sự 
Theo nguyên lý chung, toàn bộ 
quyền lực nhà nước và từng bộ phận của 
nó, trong đó có quyền tư pháp đều phải 
được đặt dưới sự kiểm soát. Không một 
thứ quyền lực nào, với bất cứ lý do gì 
được phép nằm ngoài yêu cầu kiểm soát 
đó. Yêu cầu về việc giám sát hoạt động 
xét xử của TA và đối với các thẩm phán 
được đặt ra ở các quốc gia. Tuy nhiên, 
việc giám sát hoạt động xét xử phổ biến 
ở các nước theo thông luật (common 
law) và các nước theo hệ thống pháp luật 
châu Âu lục địa (civil law) chủ yếu qua 
cơ chế hình thành các cơ quan tư pháp, 
bổ nhiệm, miễn nhiệm, quản lý, kỷ luật 
Thẩm phán, mà không phải hoạt động 
KSXX của VKS(2). Hiện nay, ngay ở những 
nước có truyền thống tổ chức VKS có 
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp 
luật, việc quy định về chức năng KSXX 
của VKS cũng có sự thay đổi. Một số 
nước tuy vẫn tiếp tục quy định cho VKS 
có chức năng kiểm sát chung, chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong 
hoạt động của cơ quan điều tra, kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật của thừa phát 
lại, thi hành án hình sự... nhưng lại không 
quy định chức năng KSXX của VKS. Tuy 
nhiên, giống như ở nước ta, một số nước 
như Hunggari, Trung Quốc vẫn tiếp tục 
1  VKSND tối cao (2012), Đề tài khoa học cấp bộ “VKS ở 
các nước chuyển đổi và bài học kinh nghiệm đối với Việt 
Nam trong quá trình cải cách tư pháp”.
2  VKSND tối cao (2013); Nghiên cứu về quyền tư 
pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp và kiểm 
sát hoạt động tư pháp. Đề tài khoa học cấp bộ.
quy định cho VKS chức năng kiểm sát 
việc xét xử của Toà án. Theo quan điểm 
của các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho 
rằng, việc thực hiện giám sát pháp luật 
đối với công tác xét xử tại tòa hình sự là 
yêu cầu tất yếu, hay nói cách khác, việc 
tiến hành giám sát không chỉ là có thể 
thực hiện mà còn phải thực hiện, đây là 
sự thể hiện tất yếu của chức trách giám 
sát pháp luật của VKS(3). 
Có thể nói, “KSXX vụ án hình sự là 
việc áp dụng các biện pháp mà pháp luật 
quy định để kiểm sát sự tuân thủ pháp luật 
TTHS trong quá trình giải quyết các vụ án 
hình sự, của cơ quan tiến hành tố tụng và 
những người tham gia tố tụng, nhằm kịp 
thời phát hiện vi phạm và yêu cầu khắc 
phục, bảo đảm cho pháp luật được chấp 
hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. 
Về đối tượng, KSXX vụ án hình sự thì 
đương nhiên phải kiểm sát việc tuân theo 
pháp luật đối với TA, thẩm phán, hội đồng 
xét xử trong các hoạt động giải quyết vụ án 
hình sự. Ngoài ra, tham gia vào quá trình 
giải quyết vụ án của TA còn có những người 
tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá 
nhân khác; hoạt động của các chủ thể này 
ảnh hưởng đến việc xét xử của TA, do vậy 
nhằm bảo đảm việc xét xử các vụ án hình 
sự của TA được thực hiện đúng pháp luật, 
nghiêm minh, kịp thời thì VKS còn phải 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các 
đối tượng này. Về nội dung, kiểm sát hoạt 
động tư pháp là việc áp dụng các biện pháp 
mà pháp luật quy định để phát hiện các vi 
phạm pháp luật; và kháng nghị, kiến nghị, 
yêu cầu các cơ quan tư pháp, tổ chức, đơn vị 
3 Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc 
(2002), Giáo trình công tác kiểm sát, NXB pháp luật Bắc 
Kinh (bản dịch của trường Cao đẳng kiểm sát Hà 
Nội), trang 275.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
8 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
và cá nhân có liên quan khắc phục vi phạm 
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Ở đây 
cũng cần có sự phân biệt giữa KSXX với các 
quyền năng cụ thể được sử dụng để thực 
hiện KSXX. Về phạm vi, hoạt động KSXX 
được bắt đầu cùng với bắt đầu của giai đoạn 
xét xử, kết thúc khi TA đã hoàn thành việc 
xét xử và thời hạn để VKS kháng nghị, kiến 
nghị đối với bản án, quyết định của TA theo 
quy định của pháp luật đã hết. 
Một vấn đề khác cần được quan tâm 
là VKS kiểm sát việc tuân thủ pháp luật gì? 
Khi KSXX vụ án hình sự, VKS chỉ kiểm sát 
việc tuân thủ pháp luật TTHS? Hay cả luật 
hình sự và pháp luật khác?. Tuy rằng Điều 
19 Luật tổ chức VKSND năm 2014 chưa 
làm rõ vấn đề này khi quy định: Kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử 
các vụ án hình sự của Tòa án, song Điều 20 
BLTTHS năm 2015 đã quy định: VKS kiểm 
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. 
Các công trình nghiên cứu cũng cho rằng, 
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai 
đoạn xét xử là hoạt động kiểm tra, giám 
sát về tính phù hợp với pháp luật tố tụng 
của tất cả các chủ thể được pháp luật quy 
định hiện diện trong giai đoạn này với 
những chức năng, thẩm quyền, quyền và 
nghĩa vụ tố tụng tương ứng của các chủ 
thể đó(1). Tham khảo BLTTHS Trung Quốc 
năm 2012, Điều 8 quy định: “Viện kiểm 
sát nhân dân căn cứ quy định của luật 
thực hiện giám sát việc tuân theo pháp 
luật trong tố tụng hình sự”, Điều 203 quy 
định: “Khi Viện Kiểm sát nhân dân phát 
hiện Tòa án nhân dân vi phạm thủ tục tố 
tụng trong quá trình thụ lý xét xử vụ án, thì 
1  VKSND tối cao (2014), Đề tài khoa học cấp bộ 
“Kiểm sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam theo yêu 
cầu cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối với 
việc hoàn thiện pháp luật”.
Viện Kiểm sát nhân dân có quyền đưa ra 
ý kiến sửa chữa đối với Tòa án nhân dân”. 
Các nhà nghiên cứu và pháp luật thực 
định Trung Quốc cũng cho rằng: “giám 
sát của VKS thuộc về giám sát tố tụng, 
hoặc gọi là giám sát hoạt động tư pháp. 
Phạm vi giám sát này giới hạn ở TTHS, 
tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Là 
hoạt động mà trong đó VKS căn cứ vào 
quyền được pháp luật trao cho và căn cứ 
vào trình tự pháp định để phát hiện uốn 
nắn những hành vi phạm pháp trong hoạt 
động tố tụng”(2). Đến nay, chưa có nghiên 
cứu nào lý giải tại sao hoạt động KSXX 
của VKS chỉ kiểm sát việc tuân thủ pháp 
luật tố tụng mà không kiểm sát việc tuân 
thủ pháp luật nội dung. Tuy vậy, chúng 
tôi cho rằng các quy định trên là phù hợp 
bởi lẽ: Khi thực hiện KSXX VKS lại là chủ 
thể kiểm tra, giám sát còn TA là đối tượng 
bị giám sát. Nếu VKS kiểm tra, giám sát 
việc áp dụng pháp luật hình sự thì sẽ ảnh 
hưởng đến quyền độc lập xét xử của TA. 
Đối với các vấn đề về áp dụng pháp luật 
hình sự như có phạm tội không? Phạm tội 
gì? Hình phạt ra sao phải do tòa án quyết 
định, VKS chỉ thực hiện quyền “đề nghị” 
(thuộc phạm vi chức năng thực hành 
quyền công tố) chứ không có quyền “yêu 
cầu” bắt buộc tòa án phải thực hiện. Trái 
lại, trong lĩnh vực TTHS, VKS sử dụng các 
quyền năng pháp luật quy định, đối chiếu 
với pháp luật TTHS để đánh giá tính hợp 
pháp trong hoạt động xét xử của TA và 
của các chủ thể khác và kiến nghị yêu cầu 
uốn nắn hành vi phạm pháp và những 
hành vi xét xử không thỏa đáng. 
2  Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc 
(2002), Giáo trình công tác kiểm sát, NXB pháp luật Bắc 
Kinh (bản dịch của trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội), 
trang 120.
NGUYỄN HOÀI NAM
9Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
3. Thực hành quyền công tố và kiểm 
sát xét xử vụ án hình sự 
3.1. Phân biệt thực hành quyền công tố 
với kiểm sát xét xử 
Từ các phân tích ở trên có thể thấy 
rằng, THQCT và KSXX cần được xem xét 
cả những điểm chung và khác biệt như sau:
- Điểm chung: THQCT và kiểm sát 
hoạt động tư pháp (bao gồm KSXX) là hai 
chức năng hiến định của VKS. THQCT 
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai 
đoạn xét xử vụ án hình sự là do cùng một 
chủ thể thực hiện – là KSV theo dõi vụ 
án. Các hoạt động THQCT và KSXX được 
VKS thực hiện qua các quyền năng pháp 
lý cụ thể được pháp luật quy định; trong 
nhiều trường hợp VKS thực hiện một 
quyền cụ thể nào đó (ví dụ kháng nghị) 
thì đồng thời có ý nghĩa THQCT, vừa có ý 
nghĩa trong KSXX.
- Điểm khác nhau:
Mục đích chung của chức năng 
THQCT là truy cứu trách nhiệm hình sự 
và thực hiện việc buộc tội người phạm tội 
trước TA. Trong khi đó, chức năng kiểm 
sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn 
xét xử có mục đích kiểm tra, phát hiện 
vi phạm, yêu cầu khắc phục, để bảo đảm 
tính hợp pháp trong hoạt động của các 
chủ thể diễn ra trong giai đoạn này.
Khi THQCT và KSXX, VKS và KSV 
đồng thời có những vị trí rất khác nhau. 
Khi THQCT, KSV đại diện cho nhà nước 
thực hiện việc buộc tội trước tòa, còn 
Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước để 
thực hiện quyền xét xử. Trong mối quan 
hệ này KSV là người đề nghị còn Thẩm 
phán là người quyết định có chấp nhận 
hay không chấp nhận quan điểm truy tố. 
Nhưng khi KSXX, xét về quan hệ giám sát 
thì VKS lại là chủ thể giám sát còn TA là 
đối tượng bị giám sát. Trong thực tế hoạt 
động, cần có sự phân tách hợp lý của các 
vai trò này của VKS và KSV. Kiểm sát viên 
trực tiếp tham gia tố tụng phải phân biệt 
rõ hoạt động nào là THQCT, hoạt động 
nào là đại diện cho VKS thực hiện KSXX 
để có những xử lý, ứng phó tình huống 
thích hợp, đảm bảo vừa phải thực hiện 
tăng cường giám sát xét xử theo luật, kịp 
thời phát hiện, loại trừ các vi phạm trong 
giai đoạn xét xử, đồng thời phải chú ý giữ 
gìn quyền uy, sự độc lập của quyền xét xử.
Về phạm vi, hoạt động THQCT và 
KSXX cùng được phát động ở thời điểm 
bắt đầu của giai đoạn xét xử, nhưng thời 
điểm kết thúc của chúng không giống 
nhau. THQCT kết thúc khi bản án, quyết 
định của TA có hiệu lực pháp luật, không 
bị kháng cáo, kháng nghị; còn hoạt động 
KSXX của VKS kết thúc khi thời hạn 
kháng nghị, kiến nghị đối với hoạt động 
xét xử của TA và đối với hoạt động tham 
gia tố tụng của các chủ thể liên quan đã 
hết. Tuy vậy việc xác định thời điểm kết 
thúc hoạt động KSXX là rất khó khăn vì 
pháp luật thường không quy định thời 
hạn VKS phải kiến nghị yêu cầu khắc 
phục vi phạm.
Đối tượng của THQCT cần được xác 
định là tội phạm và người phạm tội, còn 
đối tượng của KSXX là việc tuân theo 
pháp luật của TA, những người tham gia 
tố tụng và những cơ quan, tổ chức, người 
liên quan khác trong quá trình xét xử vụ 
án hình sự.
3.2. Mối quan hệ giữa thực hành quyền 
công tố và kiểm sát xét xử
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
10 Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2018
THQCT và kiểm sát hoạt động 
tư pháp là hai chức năng độc lập của 
VKSND nhưng có mối quan hệ chặt chẽ 
với nhau. Hai chức năng này của VKS có 
mối quan hệ hỗn hợp, tác động lẫn nhau 
nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng 
được tiến hành một cách khách quan, 
toàn diện và đầy đủ; bảo đảm việc giải 
quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng 
pháp luật. Trong thực tiễn, THQCT và 
KSXX là những hoạt động đan xen, gắn 
chặt với nhau. Trong từng hoạt động cụ 
thể, ví dụ, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để 
chuẩn bị cho hoạt động THQCT, KSV còn 
phải kiểm tra tính hợp pháp trong hoạt 
động của TA và các chủ thể khác, kịp thời 
phát hiện vi phạm để yêu cầu khắc phục, 
đó chính là nhiệm vụ kiểm sát tuân theo 
pháp luật trong tố tụng hình sự.
THQCT và KSXX là những hoạt 
động thống nhất, bổ trợ lẫn nhau. Kiểm 
sát hoạt động tư pháp nói chung, KSXX 
nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong 
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để 
phát hiện xử lý tội phạm được chính 
xác, công bằng, đòi hỏi việc điều tra, 
truy tố, xét xử vụ án phải tuân thủ đầy 
đủ các quy định của BLTTHS, những sai 
sót, vi phạm trong hoạt động tư pháp 
cần được loại trừ; mà trong đó KSXX là 
một phương thức hữu hiệu. Quan điểm 
buộc tội của VKS tại phiên tòa đảm bảo 
tính có căn cứ khi dựa trên kết quả của 
hoạt động KSXX. Ngược lại, hoạt động 
THQCT nói riêng việc giải quyết vụ án 
nói chung được thực hiện một cách đúng 
đắn cũng chính là sự ghi nhận những 
kết quả của công tác KSXX, có tác dụng 
khuyến khích, thúc đẩy hoạt động KSXX 
vụ án hình sự.
4. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về 
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét 
xử vụ án hình sự 
* Cần sửa đổi Điều 266, 267 BLTTHS 
năm 2015, Điều 18, 19 Luật tổ chức VKSND 
năm 2014 như sau:
- Đối với Điều 266 BLTTHS năm 2015 
và Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014: 
+ Về nội dung THQCT, không 
nên liệt kê các quyền năng cụ thể của 
VKS để THQCT tại Điều 266. Cần tăng 
cường quy định các quyền năng này 
trong các điều luật, các chương, phần 
khác của BLTTHS. Tại Điều 266 chỉ quy 
định những vấn đề chung về nội dung 
THQCT: trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, 
VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng 
được pháp luật quy định nhằm truy cứu 
trách nhiệm hình sự đối với người phạm 
tội, thực hiện việc buộc tội, không để lọt 
người, lọt tội.
+ Quy định rõ phạm vi THQCT 
nói chung và phạm vi THQCT trong 
từng giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc 
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể: 
THQCT trong giai đoạn xét xử bắt đầu 
từ khi VKS chuyển quyết định truy tố 
cùng hồ sơ vụ án cho TA đến khi bản án, 
quyết định có hiệu lực pháp luật, không 
bị kháng cáo, kháng nghị. THQCT giai 
đoạn xét xử PT bắt đầu từ khi ban hành 
bản án, quyết định sơ thẩm và kết thúc 
khi có bản án, quyết định phúc thẩm. 
THQCT giai đoạn giám đốc thẩm, tái 
thẩm, bắt đầu từ khi bản án, quyết định 
sơ thẩm, phúc thẩm có hiệu lực pháp 
luật và kết thúc khi có quyết định giám 
đốc thẩm, tái thẩm.
NGUYỄN HOÀI NAM
11Số 05 - 2018 Khoa học Kiểm sát
- Đối với Điều 267 BLTTHS năm 2015 
và Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014: 
+ Về nội dung KSXX, không nên liệt 
kê các quyền năng cụ thể của VKS để 
KSXX tại Điều 267. Cần tăng cường quy 
định các quyền năng này trong các điều 
luật, các chương, phần khác của BLTTHS. 
Tại Điều 267 chỉ quy định những vấn đề 
chung về nội dung KSXX: trong giai đoạn 
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc 
thẩm, tái thẩm, VKS sử dụng tổng hợp 
các quyền năng được pháp luật quy định 
nhằm kịp thời phát hiện các vi phạm pháp 
luật TTHS trong quá trình điều tra, truy 
tố, xét xử và yêu cầu khắc phục, xử lý.
+ Quy định rõ đối tượng KSXX và 
đối tượng KSXX trong từng giai đoạn xét 
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, 
tái thẩm. Cụ thể: KSXX vụ án hình sự là 
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp 
luật TTHS đối với TA và các cơ quan tiến 
hành tố tụng khác, người tham gia tố 
tụng nhằm bảo đảm việc xét xử các vụ 
án hình sự của TA được thực hiện đúng 
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Đối 
tượng của KSXX phúc thẩm là TA cấp 
phúc thẩm, cơ quan tiến hành tố tụng 
cấp sơ thẩm và người tham gia tố tụng. 
Đối tượng của KSXX giám đốc thẩm, tái 
thẩm, là TA cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, 
cơ quan tiến hành tố tụng sơ thẩm, phúc 
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cấp dưới 
và người tham gia tố tụng.
+ Quy định rõ phạm vi KSXX và 
phạm vi KSXX trong từng giai đoạn xét 
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, 
tái thẩm. Cụ thể: KSXX bắt đầu từ khi VKS 
chuyển quyết định truy tố cùng hồ sơ vụ 
án cho TA đến khi bản án, quyết định có 
hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, 
kháng nghị, đồng thời VKS cũng kết thúc 
các hoạt động yêu cầu xử lý vi phạm (nếu 
có). KSXX giai đoạn xét xử phúc thẩm bắt 
đầu từ khi ban hành bản án, quyết định 
sơ thẩm và kết thúc khi có bản án, quyết 
định phúc thẩm, đồng thời VKS cũng kết 
thúc các hoạt động yêu cầu xử lý vi phạm 
(nếu có). KSXX giai đoạn giám đốc thẩm, 
tái thẩm bắt đầu từ khi bản án, quyết định 
sơ thẩm, phúc thẩm có hiệu lực pháp luật 
và kết thúc khi có quyết định giám đốc 
thẩm, tái thẩm, đồng thời VKS cũng kết 
thúc các hoạt động yêu cầu xử lý vi phạm 
(nếu có).
* Bổ sung các quyền năng cụ thể để VKS 
THQCT và KSXX:
- Cần bổ sung các quy định về việc 
các đối tượng của hoạt động KSXX phải 
gửi các văn bản tố tụng, thông báo về việc 
tiến hành các hoạt động tố tụng, để VKS 
thực hiện các hoạt động KSXX quy định. 
- BLTTHS cũng cần quy định trách 
nhiệm của VKS phải theo dõi và đánh 
giá được tính hợp pháp trong các quyết 
định, hành vi tố tụng của các chủ thể là 
đối tượng của hoạt động KSXX. 
- Để tăng cường trách nhiệm KSXX 
của VKS, BLTTHS cũng cần quy định việc 
phát biểu ý kiến của KSV về việc chấp hành 
pháp luật tố tụng của đối tượng KSXX, 
tương tự như quy định về việc phát biểu 
ý kiến của KSV về việc chấp hành pháp 
luật trong tố tụng dân sự, hành chính.
- Pháp luật cũng cần quy định về 
trách nhiệm và thời hạn cụ thể VKS phải 
ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi 
phạm (nếu có), không để tình trạng lựa 
chọn ban hành kiến nghị hay không một 
cách tùy nghi./.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_thuc_hanh_quyen_cong_to_va_kiem_sat_xet_xu.pdf