Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ
Có thể thấy vai trò của âm nhạc đối với đời sống xã
hội là thiết yếu và quan trọng đặc biệt đối với trẻ, nó
không những chỉ tác động sâu sắc đến thế giới tinh thần
mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở mỗi em.
Khi nghe nhạc, sự chú ý quan sát, lắng nghe, sự nhạy bén
về thị giác và thính giác ở trẻ được tăng cường. Tiếp xúc
với âm nhạc trẻ còn được rèn luyện một số kĩ năng về
giao tiếp, kĩ năng vận động, hợp tác Qua các bài hát,
trẻ còn được rèn luyện phát âm một cách chính xác hơn
để từ đó mở rộng vốn từ trong lĩnh vực phát triển ngôn
ngữ. Âm nhạc còn giúp cho trí tưởng tượng ở trẻ càng trở
nên phong phú đa dạng hơn.
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 67 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢM THỤ ÂM NHẠC CỦA TRẺ Nguyễn Anh Việt - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ngày nhận bài: 01/12/2017; ngày sửa chữa: 02/12/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017. Abstract: At present, with increasing development of the society, there are many opportunities for children to approach to music. Children have good capacity in perceiving music through pitch, length, volume, melody, rhythm, etc. In addition, according to age and experience, children understand complex elements such as timbre, harmony, instrument, etc. It can be said that sense of music of children is developed since early ages. Therefore, parents should pay attention to and encourage their children to promote the potential and competence. This article provides some knowledge to help parents guide their children to develop the music capacity. Keywords: Music, sense of music, children. 1. Mở đầu Có thể thấy vai trò của âm nhạc đối với đời sống xã hội là thiết yếu và quan trọng đặc biệt đối với trẻ, nó không những chỉ tác động sâu sắc đến thế giới tinh thần mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở mỗi em. Khi nghe nhạc, sự chú ý quan sát, lắng nghe, sự nhạy bén về thị giác và thính giác ở trẻ được tăng cường. Tiếp xúc với âm nhạc trẻ còn được rèn luyện một số kĩ năng về giao tiếp, kĩ năng vận động, hợp tác Qua các bài hát, trẻ còn được rèn luyện phát âm một cách chính xác hơn để từ đó mở rộng vốn từ trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Âm nhạc còn giúp cho trí tưởng tượng ở trẻ càng trở nên phong phú đa dạng hơn. Theo một số tài liệu đã chỉ ra rằng những đứa bé khi còn ở trong bụng mẹ đã có biểu hiện đối với âm nhạc và hơn nữa chúng có thể cảm nhận âm nhạc sau khi sinh. Từ khi còn là thai nhi, cơ quan thính giác cũng đã khá nhạy cảm. Những âm thanh từ cơ thể người mẹ như tiếng thở, nhịp đập của tim, tiếng mẹ nói hoặc các âm thanh khác từ bên ngoài đều có thể kích thích các cơ quan đặc biệt là cơ quan thính giác của thai nhi. Đến khoảng 28-32 tuần tuổi, thai nhi đã có thể có những phản ứng, cử động nhẹ nhàng đối với sự kích thích của âm thanh từ bên ngoài. Khi tiếp xúc với các loại âm thanh từ khi còn trong bụng mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến độ nhạy cảm và sở thích âm nhạc của trẻ sau này. Mặc dù thai nhi chỉ có thể nghe được những âm thanh đơn giản có tần số sóng âm thấp và cũng có thể các âm thanh đó không phản ánh đúng với âm thanh thực do sóng âm khi truyền qua nước ối (giống như khi ta nghe âm thanh dưới nước). Tuy vậy, bé vẫn có thể nhận ra đường nét giai điệu và tiết tấu của lời nói hoặc âm nhạc và trở thành những âm thanh gần gũi quen thuộc. Một vài kết quả nghiên cứu cho thấy các bé tỏ ra thích thú hơn với ngữ điệu của những câu chuyện được mẹ nhắc lại nhiều lần thành tiếng trong những tháng cuối của thai kì. Các em bé sơ sinh có khả năng nhận ra giọng nói của cha mẹ mình do sự yêu thương ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Như vậy, có thể nói khi vừa được sinh ra, các em bé đã có sự nhạy cảm nhất định đối với âm thanh. Đây có thể coi là nền tảng chuẩn bị cho những trải nghiệm âm nhạc của bé sau này và cũng chính là vấn đề mà bài báo muốn đề cập tới. 2. Nội dung nghiên cứu Cảm thụ là quá trình giác quan tiếp nhận sự kích thích của sự vật bên ngoài, nhận biết được cái tế nhị bằng cảm tính tinh vi. Những cảm nhận của trẻ được lưu lại trong đầu và có thể được bộc lộ ra bên ngoài những gì chúng cảm thấy được. Những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề phát triển trẻ em. Ngoài việc chăm sóc, dinh dưỡng, y tế thì việc phụ huynh cho con tiếp xúc với âm nhạc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ của trẻ. Âm nhạc là một trong những yếu tố giúp kích thích trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo, tăng khả năng cảm nhận tinh tế và giúp trẻ bộc lộ cảm xúc của mình một cách chân thật nhất, tự nhiên nhất. Độ tuổi mầm non là độ tuổi mà trẻ đã có thể có những cảm nhận nhất định về âm nhạc qua việc làm quen với phím đàn, với một vài nhạc cụ quen thuộc. Cũng có thể là một vài câu hát, hay tự đánh một vài nốt nhạc đơn giản cùng với giáo viên và cùng các bạn. Giáo viên có thể chơi những trò chơi âm nhạc để cho trẻ thấy sự lôi cuốn và hấp dẫn từ âm nhạc, giúp trẻ cảm thấy âm nhạc thật gần gũi, dễ dàng. Phương pháp dạy cho trẻ ở độ tuổi này là việc kết hợp giữa việc học mà chơi và mục đích cuối cùng là tiến tới việc trẻ biết cảm thụ âm nhạc. Thông qua những giai điệu không lời giúp bé phát triển trí tuệ, sự sáng tạo, trẻ có thể tưởng tượng một cách tự do thông qua những cảm xúc của bản thân. Khả năng ngôn ngữ của bé cũng sẽ được phát triển tốt khi trẻ tập hát trước khi học chữ. Những trò chơi âm nhạc trong VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 68 quá trình học tập cảm thụ âm nhạc sẽ giúp các bé phát triển khả năng vận động thể chất. Âm nhạc là một trong những yếu tố giúp các bé tự nhiên biểu lộ tình cảm, cảm xúc một cách chân thật và đúng mực. Trong lớp cảm thụ âm nhạc, các bé có thể được tiếp xúc với các bạn trong nhóm giúp cho các bé có thêm các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng phối kết hợp tốt và các bé sẽ trở nên tự tin hơn. Do đặc điểm tâm, sinh lí của lứa tuổi nên việc giáo dục học sinh mẫu giáo được tiến hành theo cách “Học mà chơi, chơi mà học”. Vì vậy, giáo dục âm nhạc cho lứa tuổi này góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ. 2.1. Một số yếu tố cơ bản của âm nhạc mà trẻ có thể nhận biết 2.1.1. Cao độ Cao độ (hay độ cao) là độ cao thấp của âm thanh được đo bằng tần số dao động (tần số dao động càng nhiều thì âm thanh càng cao và ngược lại). Trong âm nhạc người ta đã sắp xếp các âm thanh tự nhiên theo trật tự từ thấp đến cao và được kí hiệu bằng chữ cái hoặc trên khuông nhạc. Đây là sự thể hiện mức độ đơn giản của giai điệu trong âm nhạc. Đối với trẻ từ 0-3 tuổi cũng đã có biểu hiện về âm nhạc, tuy nhiên biểu hiện này hết sức sơ đẳng và đơn giản. các âm thanh tác động đến trẻ như mọi âm thanh khác. Trẻ có thể nhận biết được bất kì âm thanh nào phát ra mà trẻ nghe được. Lúc đầu trẻ chỉ cảm thấy đó tiếng động và phản ứng tức thời là quay về phía có âm thanh, chú ý lắng nghe, chờ đợi âm thanh tiếp theo và có những biểu hiện thích thú, hưng phấn. Những âm thanh mà bé có thể cảm nhận được chỉ mang tính bản năng đó là các âm thanh như mọi tiếng động khác mà chưa có sự phân biệt giữa âm thanh mang tính chất tiếng động (tiếng ồn- có độ cao không xác định) và âm thanh có tính nhạc (có độ cao xác định). Tuy nhiên, trẻ sẽ thích các âm thanh có tính nhạc hơn bởi tính chất nhẹ nhàng mềm mại mà trẻ dễ tiếp nhận. Trẻ từ 3-5 tuổi có khả năng nhận biết cao độ và âm sắc của các nhạc cụ cũng phụ thuộc vào sự hoàn thiện của cơ quan thính giác. Trẻ có khả năng nghe và thấy được những âm thanh được sắp xếp theo trình tự (7 âm) hoặc sự xáo trộn các âm không theo trình tự. Đối với trẻ thông thường thì dừng lại ở việc trẻ nghe và cảm nhận được âm thanh đó bên trong mà chưa có biểu hiện ra bên ngoài nhiều. Đối với trẻ có năng khiếu âm nhạc thì những gì nghe thấy sẽ được thể hiện ra bên ngoài bằng thái độ, hành động, cử chỉ thông qua việc hát lại những cao độ đã nghe được có trẻ thực hiện một cách chính xác tuyệt đối các độ cao này. Trẻ trên 5 tuổi đã có nhận thức tốt hơn so với các lứa tuổi trên nên khả năng cảm nhận tốt hơn, biểu hiện đã khá rõ ràng và thuần thục. Vì vậy ở lứa tuổi này trẻ sẽ được quan tâm chủ yếu đến vấn đề năng khiếu nhiều hơn. Đặc biệt có những trẻ có thể nhớ được nốt la thanh mẫu trong đầu (A chuẩn = 440 Hz - dùng cho âm nhạc các nước trên thế giới). Nếu được tiếp xúc thường và luyện tập một cách bài bản thì những biểu hiện, phản ứng, sự nhạy bén, khả năng của trẻ dần được hình thành và ngày càng tăng lên theo thời gian. 2.1.2. Trường độ Trường độ là độ dài ngắn của âm thanh phụ thuộc vào thời gian dao động của nguồn phát âm, tầm cữ dao động càng rộng thì thời gian ngân vang càng kéo dài. Độ dài cũng có các kí hiệu nhằm quy định sự dài ngắn khác nhau của âm thanh, khoảng thời gian âm thanh được ngân vang trong không gian. Đây cũng là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên âm nhạc. Ví dụ: Nốt tròn ; Nốt trắng có độ dài bằng nửa nốt tròn; Nốt đen có độ dài bằng nửa nốt trắng; Nốt móc đơn có độ dài bằng nửa nốt đen; Nốt móc kép có độ dài bằng nửa nốt móc đơn; Nốt móc tam (móc ba) có độ dài bằng nửa nốt móc kép Trẻ có thể nghe được âm thanh có trường độ khác nhau, tùy thuộc vào sự phát triển của cơ quan thính giác. Khi trẻ lớn lên các cơ quan này cũng phát triển theo nên khả năng nhận biết rõ ràng, ổn định và ngày một hoàn thiện hơn. Trẻ có thể cảm nhận rõ rệt một vài âm thanh có độ dài ngắn khác nhau liên tiếp nhau tuy nhiên không quá nhiều hoặc không quá nhanh. Có thể thấy ở trẻ từ 0-3 tuổi, sự tập trung với những âm thanh có độ dài đơn giản là xuất phát từ cảm nhận tự nhiên mang tính bản năng chứ chưa hề có sự rèn luyện. Ví dụ khi chơi với trẻ người lớn thường tặc lưỡi để trẻ chú ý và chúng hưởng ứng rất nhiệt tình thông qua việc quơ tay, đạp chân Với những trẻ từ 3-5 tuổi, cảm nhận về trường độ trở nên rõ nét hơn. Với các âm thanh dài ngắn chúng muốn bắt chước và thể hiện lại tương đối chính xác. Nhìn chung, trẻ trên 5 tuổi sự nhận biết độ dài các âm thanh dễ dàng và bắt chước lại thành thạo hơn rất nhiều. 2.1.3. Tiết tấu Tiết tấu là hệ thống mối tương quan về các độ dài giữa các âm thanh nối tiếp nhau. Tiết tấu chính là mặt biểu hiện phức tạp của trường độ bởi nó còn liên quan tới nhịp độ trong âm nhạc. Nếu trường độ là những âm thanh rời rạc thì tiết tấu là sự kết hợp nhiều âm thanh đó VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 69 theo quy luật nhất định. Ngay từ trong bụng mẹ trẻ đã có thể cảm nhận tiết tấu một cách khá nhậy cảm thông qua những âm thanh bên ngoài mà nó nghe được. Biểu hiện đơn giản nhất là những cử động trong bụng và chính người mẹ có thể thấy khá rõ điều này. Khả năng của trẻ từ 0-3 tuổi có thể cảm nhận được nhịp điệu ổn định. Khi cho nghe những bản nhạc có tiết tấu vui nhộn thì biểu hiện của trẻ là cười và cử động tay, chân vô thức liên tục theo tiết tấu một cách vô cùng hào hứng. Trẻ 3-5 tuổi có thể cảm nhận được nhiều dạng tiết tấu ở những nhịp điệu đơn giản. Trẻ có thể phân biệt được các dạng tiết tấu khác nhau, có thể phân loại các dạng tiết tấu nhanh, chậm, vừa dựa theo nhịp điệu của bản nhạc. Biểu hiện đầu tiên khi lắng nghe những bản nhạc có tiết tấu chậm là trẻ rất cách chăm chú sau đó trẻ chỉ đu đưa người nhẹ nhàng theo tiết tấu hoặc nhịp. Còn bản nhạc sôi động bé bắt đầu nhún nhảy, lắc lư theo nhạc mặc dù không ai tác động. Điều này cho thấy trẻ đã có khả năng cảm nhận và phân biệt các dạng tiết tấu khác nhau đặc biệt là những tiết tấu vui tươi sôi động. Đối với trẻ trên 5 tuổi các biểu hiện về sự cảm nhận tốt hơn rất nhiều. Độ tuổi này có nhu cầu cảm nhận các bài hát, các bản nhạc có tiết tấu phức tạp hơn từ đó chúng và muốn thực hiện vỗ tay, giậm chân hoặc gõ theo những loại tiết tấu phức tạp đó. Đối với trẻ có năng khiếu, việc thực hiện các bài tập về tiết tấu của chuyên ngành âm nhạc thường là khá tốt. Đây sẽ là cơ sở phát hiện ra những trẻ có khả năng về âm nhạc để kịp thời bồi dưỡng, đào tạo theo hướng chuyên nghiệp. 2.1.4. Giai điệu Giai điệu là sự nối tiếp các âm thanh thành một bè có tổ chức về phương diện điệu thức, tiết nhịp, tiết tấu. Giai điệu chính là hình thức biểu hiện cao nhất của cao độ kết hợp với tiết tấu (gồm nhiều âm thanh kết hợp với nhau). Nội dung âm nhạc có thể được thể hiện bằng một giai điệu, một ý nhạc hoàn chỉnh giống với sự hoàn chỉnh của một câu, đoạn trong văn học. Vì vậy mà đường nét giai điệu là yếu tố thu hút nhiều sự chú ý nhất của những người nghe nhạc. Rất nhiều thí nghiệm đã cho thấy khả năng nhận biết đường nét giai điệu ở trẻ. Trẻ có thể nhận ra khi một giai điệu thay đổi đường nét (ví dụ giai điệu đi lên thay vì đi xuống) vì thế trẻ có thể nhớ một nét giai điệu hoàn chỉnh như người lớn. Các nhà khoa học cũng chú ý rất nhiều đến mối liên hệ giữa ngôn ngữ và âm nhạc, bởi lời nói bổng trầm cũng có những đặc tính về đường nét giai điệu và tiết tấu như âm nhạc. Càng được tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ, lời nói có vần điệu thì càng tăng khả năng cảm nhận đường nét giai điệu trong âm nhạc. Sự cảm nhận về đường nét giai điệu phụ thuộc nhiều vào độ tuổi và thời gian mà trẻ được tiếp xúc. Ở trẻ từ 0-3 tuổi, sự cảm nhận về giai điệu được biểu hiện rõ nhất qua việc chú ý của trẻ. Đặc biệt các đường nét giai điệu hay sẽ khiến trẻ tập trung hơn, sự hứng thú cũng rõ ràng hơn rất nhiều. Trẻ thường thể hiện sự cảm nhận đó thông qua những phản ứng, cử chỉ thích thú nhưng biểu hiện này chỉ mới đánh giá về mặt bản năng. Trẻ từ 3-5 tuổi có thể nhận biết được các giai điệu đơn giản dựa trên sự thay đổi trật tự các âm thanh. Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu có những biểu hiện theo cách riêng của chúng. Có trẻ nhún nhảy, hào hứng vỗ tay theo điệu nhạc một cách tự phát nhưng cũng có trẻ lại tập trung và có ý thức hơn nhắm vào đường nét giai điệu để hát nhẩm theo một cách chính xác. Sự cảm thụ âm nhạc còn biểu hiện ở việc trẻ muốn nghe nhạc gì? Ví dụ có những bài hát trẻ thích và muốn nghe thường xuyên nhưng có những bài hát trẻ không hề muốn nghe. Điều này càng khẳng định trẻ có cảm xúc, cảm nhận khá rõ ràng đối với âm nhạc. Ngoài sự cảm nhận và thực hiện những giai điệu đơn giản (chỉ có 3-5 nốt), có những trẻ có cảm nhận và ghi nhớ những giai điệu dài hơn. Còn trẻ 5 tuổi trở lên có thế nhớ được nét giai điệu dài hay câu nhạc dài. Trẻ thường thích nghe một câu nhạc hay một đoạn nhạc hoàn chỉnh bởi điều đó sẽ giúp cho việc ghi nhớ dễ dàng và trọn vẹn hơn. Trẻ có thể cảm nhận phân biệt được tính chất âm nhạc khác nhau của mỗi giai điệu như: giai điệu vui tươi, náo nhiệt, giai điệu nhẹ nhàng sâu lắng và đa phần là trẻ thích những giai điệu, bài hát có tiết tấu vui hoạt, sôi nổi. Giai điệu cũng là một trong những yếu tố để xác định mức độ năng khiếu, khả năng về âm nhạc của trẻ. Nếu trẻ có khả năng ghi nhớ và nhẩm lại những giai điệu ấy một cách chính xác thì trẻ được đánh giá là có năng khiếu về âm nhạc. 2.1.5 Cường độ Cường độ (độ mạnh) là độ to nhỏ của âm thanh phụ thuộc vào tầm cữ của nguồn phát âm (biên độ dao động càng lớn thì âm thanh càng to và ngược lại). Một bản nhạc không phải lúc nào cũng đều đặn một mức độ mà luôn có sự thay đổi về cường độ và cũng không chỉ đơn giản là to và nhỏ. Mặt biểu hiện cao nhất của trường độ trong âm nhạc còn gọi là sắc thái. Sắc thái thể hiện rõ tính chất âm nhạc mềm mại hay mạnh mẽ, gay gắt hay sâu lắng Trẻ có thể nhận biết âm thanh to, nhỏ khi phát ra điều này biểu hiện khá rõ nét ở các bản nhạc cổ điển, khi được nghe trẻ sẽ nhận biết một cách rõ ràng. Hầu hết trẻ đều có những cảm nhận về độ mạnh nhẹ của âm thanh, điều này thể hiện rõ trong cách hát của trẻ, VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 70 lúc trẻ hát to nhưng có chỗ trẻ hát nhỏ tùy thuộc vào từng bài hát cụ thể. Thông thường, khi nghe nhạc, những âm thanh to, mạnh mẽ đều tạo nên sự tập trung đối với trẻ, chúng không những thích nghe những âm thanh to mà còn cố tình tạo ra những âm thanh ấy nhằm thỏa mãn ý thích của mình nhằm tạo chú ý và hưởng của người khác. 2.2. Một số yếu tố phức tạp hơn mà trẻ có thể nhận biết 2.2.1. Âm sắc Âm sắc là màu sắc của âm thanh. Màu sắc ở đây là sự trong, đục, khàn gay gắt, êm dịu, chói tai... của âm thanh. Mỗi nhạc cụ, mỗi vật phát âm đều có âm sắc khác nhau dù là có cùng một cao độ. Âm sắc thể hiện ngay trong giọng người phân biệt đơn giản là giọng nam - nữ. Giọng nữ lại chia thành các loại cơ bản cao, vừa (Soprano, Mezzo soprano, Anto); giọng nam cũng chia cơ bản thành cao, trung, trầm (terno, baritone, bass). Phức tạp hơn cả là màu sắc các nhạc cụ khi diễn tả bằng lời không thể diễn đạt hết được mà chỉ có thể thông qua việc nghe để phân biệt các loại nhạc cụ Ví dụ, tiếng kèn tiếng sáo, các loại đàn dây, các loại nhạc cụ gõ Trẻ từ 0-3 tuổi cũng đã có những cảm nhận về âm sắc ở mức độ đơn giản đó là trẻ có thể phân biệt được giọng nói của người thân trong gia đình: Ông, bà, cha, mẹ; hay trẻ có thể nhận biết tiếng kêu của các con vật: chim, chó, mèo, gà Trẻ từ 3-5 tuổi thì biểu hiện cao hơn, đó là sự phân biệt được giọng nam hay nữ, giọng cao hay thấp. Cả hai độ tuổi trên chưa có sự cảm nhận rõ nét về âm sắc của các nhạc cụ. Trẻ từ 5 tuổi trở lên thì ngoài sự phân biệt về giọng người và tiếng kêu của các loài vật, trẻ bước đầu có thể nhận biết được một số loại nhạc cụ quen thuộc và âm sắc của nhạc cụ ấy. Tuy nhiên điều này phần lớn phụ thuộc vào vốn hiểu biết cũng như việc tiếp xúc của trẻ về các loại nhạc cụ ấy. Qua các bài tập thử nghiệm trên trẻ, chúng tôi nhận thấy nhìn chung các em có thể nhận và phân biệt một số nhạc cụ khi được giới thiệu (điều này đôi khi cũng tùy thuộc vào trí nhớ của trẻ); mức độ khó dần với những trẻ lớn hơn, khi đã có nhiều “trải nghiệm” hơn. 2.2.2. Hòa âm Hòa âm là sự kết hợp các âm thành chồng âm và có sự liên hệ nối tiếp nhau có quy luật của các chồng âm đó. Nói tóm lại, hòa âm là môn học nghiên cứu về sự cấu tạo và nối tiếp của các hợp âm theo một quy luật nhất định. Hòa âm “chắp cánh” cho giai điệu thêm bay bổng, tăng hiệu quả diễn đạt cho giai điệu. Nếu không có hòa âm giai điệu chỉ là một câu nhạc đơn giản, đơn lẻ mà khó có hấp dẫn được người nghe. Vì vậy, hòa âm là một yếu quan trọng không thể thiếu để cấu thành nên âm nhạc, giúp âm trẻ có thể nhớ một nét giai điệu, một câu nhạc hay một đoạn nhạc nào đó trong việc cảm thụ âm nhạc và sự phức tạp của hòa âm cũng là những tiêu chí để nhận biết trẻ có năng khiếu. Đối với trẻ trong giai đoạn đầu của cảm thụ âm nhạc thì hòa âm là một khái niệm rất xa vời, tuy nhiên trẻ vẫn có thể cảm nhận, phân biệt được sự pha trộn của các âm thanh là mềm mại, hòa hợp hay gay gắt căng thẳng Mặt biểu hiện dễ thấy nhất của hòa âm đó chính là phần đệm của một giai điệu hay bài hát nào đó. Trẻ nghe giai điệu đơn lẻ (1 bè) cũng đã có những cảm nhận và thích nhưng khi đưa phần đệm vào nét giai điệu ấy thì trẻ sẽ cảm thấy hứng thú hơn rất nhiều, đặc biệt là những giai điệu có phần đệm tươi vui hoạt bát. Âm hưởng vang lên trẻ có thể thấy được cái hay của âm nhạc dù chưa hiểu biết gì nhiều nhưng sẽ là nguồn kích thích sự hứng thú, đam mê khiến chúng muốn tiếp cận môn âm nhạc nhiều hơn. Biểu hiện đơn giản nhất khi cho trẻ nghe các hợp âm thông qua nhạc cụ đàn phím đó là làm chúng thấy hay, dễ chịu, hay các hợp âm sẽ khiến trẻ thấy chói tai nhưng sẽ vẫn thấy thích thú. Các yếu tố này là những yếu tố cơ bản nhất trong quá trình cảm nhận âm nhạc. Những nhận thức ở cấp độ cao hơn như về thang âm, điệu thức, giọng, hòa âm thông thường không có được ở trẻ nhỏ. Phần lớn trẻ em dưới 5 tuổi khó có thể hát chuẩn xác trong một giọng ổn định hoặc phân biệt các giai điệu ở một giọng. Tuy nhiên, vẫn có một số ít trẻ đặc biệt có thể thực hiện khá tốt và thậm chí là rất nhạy cảm với các âm thanh. Người lớn mới có thể nghe được các chuyển biến về hòa âm trong một bản nhạc nên phải đến khoảng bảy tuổi trở lên, trẻ mới có khả năng này. Như vậy, để phát triển khả năng nhận thức những yếu tố này, trẻ cần một thời gian nghe và tiếp xúc nhiều với âm nhạc. Các vấn đề như điệu thức, giọng, hòa âm đều là những khái niệm khó hiểu nên việc cần được tiếp xúc nhiều thông qua học tập trẻ sẽ dần hiểu và cảm nhận tốt hơn về các hình thức biểu hiện của âm nhạc. 3. Kết luận Ở Việt Nam, các lớp cảm thụ âm nhạc không còn là mới mẻ, nhưng các bậc phụ huynh vẫn chưa thực sự quan tâm, chú ý đến khả năng của con mình. Không đơn thuần là một lớp năng khiếu, một sân chơi lành mạnh cho trẻ mà nó còn giúp ích rất nhiều cho việc phát triển trí tuệ của các con. (Xem tiếp trang 96) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 92-96 96 giai đoạn; được khuyến khích nêu lên các ý tưởng để cải thiện những mặt còn hạn chế của sản phẩm. SV nắm được quy tắc đánh giá trên cơ sở tôn trọng bạn, góp ý và nhận xét trên tinh thần xây dựng để thực hiện tốt hơn ở lần sau. NL đánh giá của SV được đánh giá bằng điểm số. - NL phát triển bản thân: Thông qua các dự án, SV thể hiện được khả năng sáng tạo của mình, tự cập nhật kiến thức về một số lĩnh vực môi trường, nghệ thuật, giáo dục môi trường và vận dụng các kiến thức đó vào nhiệm vụ xây dựng chương trình nghệ thuật vì môi trường, phân tích vấn đề môi trường. Nhờ đó, SV lĩnh hội được những kiến thức, kĩ năng nhất định trong việc tổ chức hoạt động giáo dục môi trường cho trẻ mầm non, biết trình bày một vấn đề về môi trường, có trách nhiệm với việc tuyên truyền, giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ và cho cộng đồng. 3. Kết luận Vận dụng DHDA trong dạy học học phần “Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non” có thể giải quyết hiệu quả vấn đề môi trường cho SV. Kết thúc dự án, SV có thể xây dựng một sản phẩm vật chất hoặc trí tuệ, đưa ra chủ đề mới hoặc hướng triển khai mới cho dự án đã có để tiếp tục thực hiện những dự án tiếp theo. Qua đó, SV có thể áp dụng phương pháp DHDA trong việc giáo dục trẻ mầm non bảo vệ môi trường và phát triển được một số NL cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp sau này. Tài liệu tham khảo [1] Noémi Szállassy (2008). Project Method, As One of The Basic Methods of Environmental Education. Acta Didactica Napocensia, Vol.1, No.2, Babes- Bolyai University, Cluj - Napoca, Romania. [2] Trịnh Văn Biều - Phan Đồng Châu Thủy - Trịnh Lê Hồng Phương (2011). Dạy học dự án - Từ lí luận đến thực tiễn. Tạp chí Khoa học, số 28, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. [3] Hoàng Thị Phương (2014). Giáo trình giáo dục môi trường cho trẻ mầm non. NXB Đại học Sư phạm. [4] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2014). Chương trình chi tiết giáo dục đại học (theo học chế tín chỉ), ngành đào tạo: Giáo viên mầm non - Hệ chính quy (Tài liệu lưu hành nội bộ). [5] Michael Knoll (2014). Project Method. In: Encyclopedia of Educational Theory and Philosophy, ED: D. C. Phillips, Thousend Oaks, CA: Sage (2014), pp 665-669. [6] Đỗ Hương Trà (chủ biên, 2015). Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh (Quyển 1 -Khoa học tự nhiên). NXB Đại học Sư phạm. [7] Đinh Văn Vang (2009). Giáo trình tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢM THỤ (Tiếp theo trang 70) Nên chăng chúng ta cần có cách nhìn khác để các bé được thỏa sức sáng tạo và phát triển trí tưởng tượng phong phú của mình đối với nghệ thuật nhất là âm nhạc. Thành công của việc cho trẻ cảm thụ âm nhạc là giúp trẻ có một tình yêu đối với âm nhạc, thẩm mĩ âm nhạc. Cảm thụ âm nhạc là bước khởi đầu hiệu quả trong việc tạo ra những điều kiện tốt nhất để trẻ có thể tiếp xúc, lĩnh hội những tri thức, tinh hoa văn hóa của thế giới. Trẻ thơ rất nhạy cảm với âm nhạc, ngay ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ đã biết cảm thụ và thích thú với những hoạt động mang tính nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. bởi đó là một thế giới kì diệu đầy cảm xúc. Thông qua các hoạt động âm nhạc, trẻ phát triển nhạc cảm, mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh, phát triển các kĩ năng vận động, phát triển kĩ năng nghe và cải thiện kĩ năng giao tiếp Âm nhạc không chỉ giúp trẻ phát triển trí thông minh, khích lệ tư duy sáng tạo, tăng khả năng cảm nhận tinh tế những nét đẹp trong cuộc sống mà còn giúp trẻ bộc lộ cảm xúc của mình với thế giới xung quanh. Âm nhạc có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống con người nói chung trẻ nhỏ nói riêng, vì vậy các bậc phụ huynh, những người làm công tác giáo dục âm nhạc cần phải quan tâm nhiều hơn nữa để trẻ được phát triển một cách toàn diện hơn. Tài liệu tham khảo [1] Ngô Thị Nam - Phạm Thị Hòa (2008). Giáo dục âm nhạc (tập 1,2). NXB Giáo dục [2] Hoàng Hoa (2008). Giáo trình Hòa âm ứng dụng. NXB Đại học Sư phạm [3] Phạm Tú Hương (2004). Lí thuyết âm nhạc cơ bản. NXB Đại học Sư phạm. [4] Hoàng Phê (chủ biên, 1994). Từ điển tiếng Việt. NXB Khoa học xã hội - Trung tâm Từ điển học Hà Nội. [5] Nhiều tác giả (1993). Phát hiện, đào tạo bồi dưỡng năng khiếu, tài năng văn hóa nghệ thuật. NXB Văn hóa - Thông tin. [6] Hồng Đăng (1972). Các nhạc khí trong dàn nhạc giao hưởng. NXB Văn hóa. [7] Nguyễn Thị Ánh Tuyết (chủ biên, 2013). Giáo trình Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư phạm.
File đính kèm:
- mot_so_van_de_ve_cam_thu_am_nhac_cua_tre.pdf