Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh

Quyền về đời sống riêng tư và quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền

nhân thân của cá nhân được BLDS ghi nhận và bảo vệ. Chủ thể thực hiện hành vi

xâm phạm quyền về đời sống riêng tư và quyền của cá nhân đối với hình ảnh có thể

phải chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này,

tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền

riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh.

pdf 9 trang kimcuc 5520
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh

Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh
60
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm 
bồi thường
Trên thực tế, hành vi xâm phạm các 
quyền nhân thân của cá nhân nói chung, 
quyền riêng tư và quyền của cá nhân đối 
với hình ảnh nói riêng có thể được thực 
hiện với nhiều mức độ khác nhau, từ ít 
nghiêm trọng đến nghiêm trọng. Chủ thể 
xâm phạm các quyền này cũng phải gánh 
chịu các loại trách nhiệm pháp lý khác 
nhau, trong đó có thể bao gồm trách nhiệm 
bồi thường thiệt hại. Song, cũng như việc 
áp dụng trách nhiệm pháp lý khác, việc áp 
dụng trách nhiệm bồi thường cũng dựa 
trên những điều kiện nhất định. Trước đây, 
BLDS năm 2005 và Nghị quyết số 03/2006/
NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng 
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng 
dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về 
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Nghị 
quyết số 03/2006) đều quy định 4 điều kiện 
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại 
ngoài hợp đồng là: (i) Có thiệt hại xảy ra; 
(ii) Có hành vi trái pháp luật; (iii) Có mối 
quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và 
hành vi trái pháp luật; (iv) Có lỗi cố ý hoặc 
vô ý của người gây thiệt hại. 
Hiện nay, Điều 584 BLDS năm 2015 
quy định “căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi 
thường theo hướng không dựa trên cơ sở lỗi 
như trong quy định của BLDS năm 2005 mà 
tiếp cận theo hướng, người nào có hành vi xâm 
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân 
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp 
khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải 
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật 
khác có liên quan quy định khác”1. Theo đó, 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 
đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường 
1 Đinh Trung Tụng (chủ biên, 2016), Bối cảnh xây 
dựng và một số nội dung mới chủ yếu của BLDS 
năm 2015 (so sánh với BLDS năm 2005), sách tham 
khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.55.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN 
RIÊNG TƯ, QUYỀN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH 
NGUYỄN VĂN HỢI*
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
Quyền về đời sống riêng tư và quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền 
nhân thân của cá nhân được BLDS ghi nhận và bảo vệ. Chủ thể thực hiện hành vi 
xâm phạm quyền về đời sống riêng tư và quyền của cá nhân đối với hình ảnh có thể 
phải chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này, 
tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền 
riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh. 
Từ khoá: Quyền riêng tư, quyền đối với hình ảnh, bồi thường thiệt hại.
Ngày nhận bài: 14/01/2020; Ngày biên tập xong: 10/02/2020; Ngày duyệt đăng: 
17/02/2020.
Rights in private life and personal rights for images are recognized and 
protected by the 2015 Civil Code. The subject who infringes the right in private 
life and personal rights for images shall bear various types of legal liabilities. 
However, within this paper, the author only mentions to several matters on 
damage compensation due to infringing private and personal rights for images.
Keywords: Private rights, rights for images, damage compensation.
61Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
NGUYỄN VĂN HỢI
thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh sẽ 
phát sinh khi người yêu cầu bồi thường 
chứng minh được 03 điều kiện là: (i) Có 
thiệt hại thực tế xảy ra; (ii) Hành vi trái luật 
xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá 
nhân đối với hình ảnh; (iii) Có mối quan hệ 
nhân quả giữa hành vi trái luật xâm phạm 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
hình ảnh với thiệt hại xảy ra.
1.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra
Đây là điều kiện tiên quyết nhất khi 
xem xét việc có áp dụng trách nhiệm bồi 
thường thiệt hại đối với chủ thể có liên 
quan hay không. Bởi vì, cho dù đối tượng 
bị xâm phạm là các lợi ích về vật chất hay 
các lợi ích về tinh thần thì mục đích của 
việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại là nhằm bù đắp tổn thất mà người bị 
thiệt hại phải gánh chịu. Do đó, nếu không 
có thiệt hại thực tế xảy ra thì việc khắc 
phục thiệt hại sẽ không đặt ra và trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ không được 
áp dụng. Song, để có thể xác định chính 
xác điều kiện này có xảy ra hay không, cần 
phải nhìn nhận chính xác về thiệt hại và 
các loại thiệt hại tương ứng với từng đối 
tượng bị xâm phạm. “Thiệt hại được hiểu là 
sự giảm bớt những lợi ích vật chất và phi vật 
chất của một chủ thể xác định được trên thực tế 
bằng một khoản tiền cụ thể”2. Ở một góc nhìn 
khác, “thiệt hại lại được hiểu là những tổn thất 
thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm 
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài 
sản của cá nhân, tổ chức”3.
2 Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại 
ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, 
Nxb Hà Nội, Hà Nội, tr.38.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình 
Luật Dân sự (tập 2), Nxb Công an Nhân dân, Hà 
Nội, tr.262.
BLDS không đưa ra định nghĩa về 
thiệt hại mà chỉ quy định về cách xác định 
thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, 
danh sự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. 
Nghị quyết số 03/2006 cũng không định 
nghĩa thiệt hại, nhưng lại xác định thiệt hại 
bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại 
do tổn thất về tinh thần. Trong đó “thiệt hại 
do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu 
là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị 
xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính 
mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần 
gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, 
buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút 
hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu 
nhầm.. và cần phải được bồi thường một khoản 
tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu”4. 
Như vậy, khi quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm phạm, 
thiệt hại có bao gồm thiệt hại về tinh thần 
hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc 
chứng minh của người bị thiệt hại. Theo 
đó, nếu người bị thiệt hại chứng minh được 
hành vi xâm phạm quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh đã xâm phạm 
đến “danh dự, nhân phẩm hoặc uy tín” của 
mình thì thiệt hại sẽ bao gồm cả thiệt hại về 
vật chất và cả thiệt hại về tinh thần. 
Đối với thiệt hại về vật chất (chi phí 
hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu 
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt 
hại khác do luật quy định), người bị thiệt 
hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu 
rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, 
mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng 
từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản 
chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị 
4 Xem điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị 
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của 
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao 
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về 
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
62
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
thiệt hại5.
Đối với thiệt hại về tinh thần (trong 
trường hợp hành vi xâm phạm quyền 
riêng tư, quyền đối với hình ảnh đã gây 
tổn hại về danh dự, nhân phẩm hoặc uy tín 
cho cá nhân) thì không phải chứng minh. 
Bởi đây là thiệt hại đương nhiên được bồi 
thường khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị 
xâm phạm.
1.2. Có hành vi trái luật xâm phạm 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
hình ảnh
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền 
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế 
theo quy định của luật trong trường hợp cần 
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật 
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của 
cộng đồng”6. Đồng thời, Điều 21 Hiến pháp 
còn ghi nhận “Mọi người có quyền bất khả 
xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân 
và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, 
uy tín của mình”. Trong BLDS năm 2015, 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
hình ảnh cùng với các quyền nhân thân 
khác của cá nhân là những quyền thuộc 
“nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá 
nhân”7. Đồng thời, “Năng lực pháp luật dân 
sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường 
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy 
định khác”8. 
Với những quy định trên cho thấy, 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối 
với hình ảnh là những quyền Hiến định 
5 Xem mục 5 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán 
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một 
số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại 
ngoài hợp đồng.
6 Xem khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
7 Xem khoản 1 Điều 17 BLDS năm 2015
8 Xem Điều 18 BLDS năm 2015
và chỉ bị hạn chế bởi các văn bản luật do 
Quốc hội ban hành. Do đó, các trường hợp 
sử dụng hình ảnh của cá nhân và việc thu 
thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông 
tin liên quan đến đời sống riêng tư của cá 
nhân mà không được cá nhân đồng ý và 
cũng không thuộc các trường hợp được 
luật cho phép đều bị coi là hành vi xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh. 
BLDS năm 2015 không định nghĩa 
hành vi xâm phạm quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh và cũng 
không xác định các hành vi bị coi là xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh, mà chỉ quy định về các 
trường hợp được sử dụng hình ảnh, được 
thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông 
tin liên quan đến đời sống riêng tư của cá 
nhân. Cụ thể như sau:
Các trường hợp được sử dụng hình 
ảnh của cá nhân9: (i) Được sự đồng ý của 
cá nhân đó hoặc người đại diện theo pháp 
luật của họ; (ii) Hình ảnh được sử dụng vì 
lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; 
(iii) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt 
động công cộng, bao gồm hội nghị, hội 
thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn 
nghệ thuật và hoạt động công cộng khác 
mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân 
phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Các trường hợp được thu thập, lưu giữ, 
sử dụng, công khai thông tin liên quan đến 
đời sống riêng tư của cá nhân: (i) Được sự 
đồng ý của cá nhân; (ii) Được luật quy định.
Theo quy định tại Điều 7 Luật Tiếp cận 
thông tin năm 2016, thông tin liên quan đến 
đời sống riêng tư của cá nhân thuộc nhóm 
thông tin công dân được tiếp cận có điều 
kiện. Những điều kiện để được tiếp cận 
thông tin của cá nhân cũng phù hợp với các 
9 Xem Điều 32 BLDS năm 2015
63Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
NGUYỄN VĂN HỢI
quy định liên quan đến quyền riêng tư của 
cá nhân được ghi nhận tại Điều 38 BLDS 
năm 2015, bao gồm hai trường hợp cụ thể 
như sau: (i) Thông tin liên quan đến bí mật 
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp 
cận trong trường hợp được người đó đồng 
ý; (ii) Trong quá trình thực hiện chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người 
đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định 
việc cung cấp thông tin liên quan đến bí 
mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật 
cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp 
cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của 
cộng đồng theo quy định của luật có liên 
quan mà không cần có sự đồng ý theo quy 
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Trên thực tế, việc một người sử dụng 
hình ảnh, thu thập, lưu giữ, sử dụng, công 
khai thông tin liên quan đến đời sống 
riêng tư của người khác có thể với nhiều 
mục đích khác nhau, trong đó có thể có cả 
mục đích thương mại. Mặt khác, việc sử 
dụng hình ảnh, thu thập, lưu giữ, sử dụng, 
công khai thông tin liên quan đến đời sống 
riêng tư của người khác có thể mang lại 
những ảnh hưởng xấu, nhưng cũng có thể 
mang lại những tác động tích cực đến đời 
sống của họ như có thể khiến họ trở nên 
nổi tiếng, thu nhập tăng. Song, với những 
phân tích ở trên cho thấy quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh là các 
quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân, 
không thể chuyển giao, không thể định giá. 
Đó là những yếu tố gắn liền với đời sống 
tinh thần của cá nhân. Việc đánh giá tính 
tích cực hay tiêu cực của việc tự ý sử dụng 
hình ảnh, thu thập, lưu giữ, sử dụng, công 
khai thông tin liên quan đến đời sống riêng 
tư của cá nhân sẽ mang tính chủ quan và 
phụ thuộc và mỗi cá nhân khác nhau. Do 
vậy, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân, 
hành vi thu thập, lưu giữ, sử dụng, công 
khai thông tin liên quan đến đời sống riêng 
tư của cá nhân mà không thuộc các trường 
hợp được pháp như đã mô tả ở trên đều bị 
coi là hành vi xâm phạm quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh. 
1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa 
hành vi trái luật xâm phạm quyền riêng 
tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh với 
thiệt hại xảy ra
Ngoài việc chứng minh có hành vi 
trái luật xâm phạm quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh và thiệt hại 
thực tế xảy ra, người yêu cầu bồi thường 
thiệt hại còn phải chứng minh mối quan 
hệ nhân quả giữa hành vi trái luật và thiệt 
hại xảy ra. Theo đó, phải chứng minh hành 
vi xâm phạm quyền riêng tư, quyền của 
cá nhân đối với hình ảnh xảy ra trước, 
thiệt hại xảy ra sau và hành vi là nguyên 
nhân dẫn đến thiệt hại. Tuy nhiên, BLDS 
năm 2015 cũng ghi nhận quy định về 
nghĩa vụ khắc phục thiệt hại, có ảnh hưởng 
đến việc xác định mối quan hệ nhân quả 
giữa hành vi trái luật và thiệt hại xảy ra. 
Theo đó, “bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm 
không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do 
không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để 
ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình”10. 
Tức là, mặc dù có thể tồn tại hành vi xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh, song khi hành vi đó được 
thực hiện, người bị xâm phạm quyền có thể 
áp dụng ngay các biện pháp cần thiết, hợp 
lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại nhưng lại 
không áp dụng các biện pháp này, dẫn đến 
thiệt hại xảy ra thì họ sẽ không được bồi 
thường những thiệt hại này. 
Tuy vậy, khi yêu cầu bồi thường thiệt 
hại, người yêu cầu chỉ cần chứng minh mối 
quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
10 Xem khoản 5 Điều 585 BLDS năm 2015
64
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
hình ảnh mà không cần phải chứng minh 
việc có áp dụng các biện pháp ngăn chặn, 
hạn chế thiệt hại hay không. Việc chứng 
minh người bị xâm phạm quyền không 
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, hạn chế 
thiệt hại thuộc về người chịu trách nhiệm 
bồi thường, song họ cũng chỉ phải thực 
hiện nghĩa vụ này khi họ muốn giải phóng 
khỏi một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm 
bồi thường.
Tuy nhiên, đối với từng loại thiệt hại 
khác nhau, việc xác định mối quan hệ 
nhân quả cũng khác nhau. Đối với thiệt hại 
về vật chất (chi phí để hạn chế, khắc phục 
thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị 
giảm sút), người yêu cầu bồi thường phải 
có chứng cứ để chứng minh thiệt hại thiệt 
tế xảy ra và là hậu quả tất yếu của hành vi 
xâm phạm. Đối với thiệt hại về tinh thần 
(trong trường hợp hành vi xâm phạm 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối 
với hình ảnh mà làm tổn hại đến danh dự, 
nhân phẩm, uy tín của cá nhân) thì người 
yêu cầu bồi thường không cần phải chứng 
minh, bởi đây là thiệt hại đương nhiên mà 
người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy 
tín của cá nhân phải bồi thường ngay cả 
khi không có thiệt hại về vật chất.
2. Yếu tố lỗi và vai trò của yếu tố lỗi 
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do 
xâm phạm quyền riêng tư, quyền của cá 
nhân đối với hình ảnh
BLDS năm 2015 không quy định riêng 
về l ... g, trách nhiệm 
bồi thường do xâm phạm quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh nói 
riêng11. Tuy nhiên, việc xác định lỗi và hình 
thức lỗi của các bên (bên phải bồi thường 
và bên được bồi thường) vẫn có những vai 
trò nhất định trong việc giải quyết các vấn 
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
hình ảnh nói riêng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nếu xác định thiệt hại xảy 
ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại không 
phát sinh. Nội dung này được ghi nhận tại 
khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015 là một 
căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại. Khi người bị thiệt hại hoàn toàn 
có lỗi, tức là người gây thiệt hại hoặc chủ 
thể có liên quan sẽ được coi là không có 
lỗi. Điều này có thể dẫn đến cách hiểu rằng 
“người gây thiệt hại hoặc chủ thể có liên 
quan sẽ chỉ phải bồi thường nếu có lỗi”, tức 
là “lỗi là một trong các điều kiện phát sinh 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 
đồng”. Song cách hiểu này không chính 
xác, bởi theo quy định của BLDS năm 2015, 
11 Xem thêm Đinh Trung Tụng (chủ biên, 2016), 
tlđd, tr.55.
65Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
NGUYỄN VĂN HỢI
việc chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường 
không có lỗi hoặc có lỗi vô ý chỉ được coi 
là căn cứ để xem xét giảm mức bồi thường, 
tức là ngay cả khi không có lỗi vẫn có thể 
phải bồi thường. Khẳng định này có thể 
được minh chứng thông qua bốn trường 
hợp cụ thể như sau:
(i) Người gây thiệt hại hoàn toàn có 
lỗi, người bị thiệt hại không có lỗi thì trách 
nhiệm bồi thường sẽ phát sinh.
(ii) Người gây thiệt hại có một phần 
lỗi, người bị thiệt hại cũng có một phần 
lỗi đối với thiệt hại xảy ra, trách nhiệm bồi 
thường thiệt hại sẽ phát sinh. Tuy nhiên, 
phần thiệt hại do lỗi của người bị thiệt hại 
gây ra thì người gây thiệt hại sẽ không 
phải bồi thường.
(iii) Người gây thiệt hại không có lỗi, 
người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi thì trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại được loại trừ 
theo khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015.
(iv) Người gây thiệt hại không có lỗi, 
người bị thiệt hại không có lỗi thì trách 
nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn phát sinh. 
Song, người chịu trách nhiệm bồi thường 
có thể được giảm mức bồi thường.
Thứ hai, xác định lỗi của các bên góp 
phần xác định mức bồi thường khi người 
bị thiệt hại cũng có lỗi12 hoặc thiệt hại do 
nhiều người cùng gây ra13. Theo quy định 
tại Điều 585 BLDS, trường hợp người bị 
thiệt hại cũng có lỗi để thiệt hại xảy ra thì 
không được bồi thường phần thiệt hại do 
lỗi của mình gây ra. Ngoài ra, theo quy 
định tại Điều 587 BLDS, khi nhiều người 
cùng gây thiệt hại cho một người thì trước 
hết phải căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi 
người để xác định mức bồi thường mà 
12 Xem khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015.
13 Xem Điều 587 BLDS năm 2015.
từng người phải gánh chịu.
Thứ ba, việc xác định lỗi là căn cứ để 
xem xét giảm mức bồi thường khi người 
chịu trách nhiệm bồi thường không có lỗi 
hoặc có lỗi vô ý14. Đây cũng là một trong 
các nguyên tắc bồi thường thiệt hại được 
ghi nhận tại Điều 585 BLDS. Theo đó, nếu 
người chịu trách nhiệm bồi thường chứng 
minh được mình không có lỗi hoặc có lỗi 
vô ý mà thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả 
năng kinh tế của họ thì có thể được xem xét 
để giảm mức bồi thường.
Thứ tư, việc xác định lỗi của người gây 
thiệt hại là căn cứ xác định trách nhiệm 
hoàn trả khi người của pháp nhân, người 
làm công, người học nghề gây thiệt hại15. 
Khi người của pháp nhân, người làm công, 
người học nghề gây thiệt hại khi đang thực 
hiện nhiệm vụ pháp nhân giao thì pháp 
nhân, người sử dụng người làm công, 
người học nghề phải bồi thường cho người 
bị thiệt hại. Việc yêu cầu người gây thiệt 
hại hoàn lại khoản tiền đã bồi thường chỉ 
đặt ra khi chứng minh được họ có lỗi trong 
việc gây ra thiệt hại.
3. Xác định thiệt hại được bồi thường
Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 
BLDS năm 2015, quyền riêng tư, quyền của 
cá nhân đối với hình ảnh và nhiều quyền 
nhân thân khác bị xâm phạm cũng có thể 
được bồi thường bởi đây là các “quyền, lợi 
ích hợp pháp” của cá nhân. Song BLDS năm 
2015 không quy định cụ thể về thiệt hại 
được bồi thường khi quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm phạm. 
Các quy định về xác định thiệt hại hiện nay 
chỉ hướng đến việc xác định thiệt hại khi tài 
sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân 
phẩm, uy tín bị xâm phạm. Vậy khi quyền 
14 Xem khoản 2 Điều 585 BLDS năm 2015.
15 Xem Điều 597 và Điều 600 BLDS năm 2015.
66
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình 
ảnh bị xâm phạm mà có đầy đủ các căn cứ 
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thì 
thiệt hại được xác định theo căn cứ nào? 
Như đã phân tích ở trên, hành vi xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh cũng có thể dẫn đến 
những tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy 
tín của cá nhân. Do đó, việc xác định thiệt 
hại khi quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh bị xâm phạm có thể xảy ra 
các trường hợp như sau:
(i) Trường hợp thứ nhất, hành vi xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh gây tổn hại đến danh 
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân mang 
quyền thì việc xác định thiệt hại sẽ tuân 
theo quy định tại Điều 592 BLDS về xác 
định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, 
uy tín bị xâm phạm, trong đó bao gồm cả 
những thiệt hại về vật chất và cả những 
thiệt hại về tinh thần. 
(ii) Trường hợp thứ hai, hành vi xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh không gây tổn hại đến 
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 
mang quyền. Lúc này, không có quy định 
cụ thể và trực tiếp nào có thể được áp dụng 
để xác định thiệt hại được bồi thường. 
Song người bị xâm phạm đã phải bỏ chi 
phí để khắc phục thiệt hại thì việc xác định 
thiệt hại có thể dựa vào những giấy tờ hợp 
lệ mà người bị thiệt hại xuất trình khi yêu 
cầu bồi thường. Vậy thiệt hại về tinh thần 
có được đặt ra hay không? Việc áp dụng 
quy định về xác định thiệt hại như thế nào 
trong trường hợp này sẽ đều gây ra bất lợi 
cho ít nhất một bên. Nếu không áp dụng 
quy định về bù đắp tổn thất tinh thần cho 
người bị xâm phạm quyền thì khó có thể 
tính đến chuyện áp dụng nguyên tắc bồi 
thường toàn bộ, bởi quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh là các quyền 
nhân thân không định giá được. Nếu áp 
dụng quy định buộc bù đắp tổn thất về tinh 
thần thì sẽ không công bằng với bên phải 
bồi thường bởi chỉ khi xâm phạm danh dự, 
nhân phẩm, uy tín thì việc bù đắp tổn thất 
về tinh thần mới mặc nhiên được đặt ra. 
Theo quan điểm của tác giả, cho dù 
hành vi xâm phạm quyền riêng tư, quyền 
của cá nhân đối với hình ảnh có gây tổn 
hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của 
người mang quyền hay không thì việc bù 
đắp tổn thất về tinh thần cũng nên được 
đặt ra. Bởi vì, quyền riêng tư và quyền của 
cá nhân đối với hình ảnh là các quyền nhân 
thân không gắn với tài sản và không định 
giá được thành tiền. Khi các quyền này bị 
xâm phạm, không thể có một công thức 
chung để tính toán những ảnh hưởng tích 
cực hay tiêu cực và mức độ lớn hay nhỏ 
của hành vi xâm phạm đối với đời sống 
của người bị xâm phạm. Việc đặt ra khoản 
bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ góp phần 
giảm bớt phần nào những hậu quả mà 
có thể họ phải gánh chịu từ hành vi xâm 
phạm. Tuy nhiên, để có thể áp dụng được 
quy định này, cách tốt nhất hiện nay là áp 
dụng tương tự như xác định thiệt hại khi 
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 
tại Điều 592 BLDS năm 2015. 
Như vậy, cho dù quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm 
phạm ở mức độ nào thì thiệt hại được bồi 
thường cũng có thể gồm những loại sau:
(i) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc 
phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết 
cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc 
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của 
người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu 
thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh 
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền 
tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá 
trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc 
67Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
NGUYỄN VĂN HỢI
chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác 
minh sự việc, cải chính trên các phương 
tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ chức 
xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú 
hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và 
các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn 
chế, khắc phục thiệt hại (nếu có)16.
(ii) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị 
giảm sút17:
Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, 
uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm có 
thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân 
phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm 
phạm phải thực hiện những công việc để 
hạn chế, khắc phục thiệt hại, nên khoản thu 
nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm 
sút, thì họ được bồi thường khoản thu 
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
Việc xác định thu nhập thực tế của người 
bị xâm phạm và việc xác định thu nhập thực 
tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm 
phạm được thực hiện theo hướng dẫn xác 
định thu nhập bị mất, bị giảm sút khi sức 
khoẻ bị xâm phạm tại tiểu mục 1.2 mục 1 
Phần II Nghị quyết số 03/2006.
(iii) Thiệt hại khác do luật quy định. 
Tức là ngoài những thiệt hại về vật chất 
được xác định ở trên, người bị xâm phạm 
quyền còn có thể được bồi thường các thiệt 
hại khác nếu luật có liên quan có quy định 
và có bằng chứng để chứng minh thiệt hại 
đã xảy ra trên thực tế.
(iv) Khoản tiền khác để bù đắp tổn thất 
về tinh thần. Đây là khoản thiệt hại mặc 
nhiên được bồi thường (không cần chứng 
16, 17 Xem mục 3 phần II Nghị quyết số 03/2006/
NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm 
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng 
một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại 
ngoài hợp đồng.
minh) khi hành vi xâm phạm quyền riêng 
tư, quyền của cá nhân đối với hình ảnh đã 
gây tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín 
cho cá nhân mang quyền. Mức bồi thường 
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên 
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được 
thì mức tối đa cho một người có danh dự, 
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không 
quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà 
nước quy định.
4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi 
thường
Trên thực tế hiện nay tồn tại hai luồng ý 
kiến khác nhau liên quan đến thời hiệu khởi 
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm 
phạm quyền nhân thân nói chung, quyền 
riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình 
ảnh nói riêng. Luồng ý kiến thứ nhất cho 
rằng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền của cá nhân 
đối với hình ảnh là yêu cầu bảo vệ quyền 
nhân thân không gắn với tài sản nên không 
áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định 
tại khoản 1 Điều 155 BLDS. Luồng ý kiến 
thứ hai cho rằng, quyền yêu cầu bồi thường 
thiệt hại là quyền tài sản nên vẫn áp dụng 
thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt 
hại, bất kể đối tượng bị xâm phạm dẫn đến 
thiệt hại là gì.
Theo quan điểm của tác giả, quyền yêu 
cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm 
phạm hay do các quyền nhân thân (trong 
đó bao gồm quyền riêng tư, quyền của cá 
nhân đối với hình ảnh) bị xâm phạm thì 
cũng đều là quyền tài sản. Bởi vì, cần phải 
tách biệt đối tượng bị xâm phạm (quyền 
riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình 
ảnh) với hậu quả xảy ra (thiệt hại). Khi 
quyền riêng tư, quyền của cá nhân đối với 
hình ảnh bị xâm phạm, các chủ thể được 
thực hiện các biện pháp bảo vệ, nhưng với 
các mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào hậu 
68
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
quả xảy ra. Khi hành vi xâm phạm quyền 
riêng tư, quyền của cá nhân đối với hình 
ảnh đã dẫn đến thiệt hại, tức là có một 
quyền dân sự mới được xác lập, quyền này 
có tên là quyền yêu cầu bồi thường thiệt 
hại18. Và đương nhiên, quyền này có liên 
quan nhưng lại độc lập với quyền riêng tư, 
quyền của cá nhân đối với hình ảnh (đối 
tượng bị xâm phạm). Đặc biệt, trong thời 
đại ngày nay, cho dù thiệt hại xảy ra do bất 
cứ đối tượng nào bị xâm phạm thì thiệt hại 
cũng được quy ra tiền hoặc các loại tài sản 
có giá trị tương đương. Chính vì vậy, quyền 
yêu cầu bồi thường mang bản chất của một 
quyền tài sản, nên việc áp dụng thời hiệu 
khởi kiện yêu cầu bồi thường là phù hợp.
BLDS không quy định riêng biệt về thời 
hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại 
do xâm phạm quyền riêng tư, quyền của 
cá nhân đối với hình ảnh mà chỉ quy định 
chung về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi 
thường. Theo quy định tại Điều 588 BLDS 
năm 2015: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi 
thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người 
có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi 
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. 
Theo quy định này, khi người có quyền 
yêu cầu bồi thường thiệt hại biết hoặc buộc 
phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình 
bị xâm phạm thì họ phải thực hiện quyền 
yêu cầu bồi thường trong thời hiệu 3 năm. 
Khi đã quá 3 năm kể từ ngày quyền, lợi ích 
bị xâm phạm mà người có quyền mới khởi 
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại thì có thể 
xảy ra một trong các hậu quả sau:
18 Theo quy định tại Điều 8 BLDS năm 2015, quyền 
dân sự được xác lập từ một trong các căn cứ đó là 
“bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật”. Do đó, khi 
cá nhân bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm 
phạm quyền riêng tư, quyền đối với hình ảnh thì 
sẽ phát sinh quyền yêu cầu bồi thường, và quyền 
này là quyền về tài sản.
(i) Toà án ra quyết định đình chỉ giải 
quyết vụ án dân sự khi “đương sự có yêu 
cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp 
sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết 
vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”19.
(ii) Toà án vẫn giải quyết vụ án dân sự 
theo quy định nếu đương sự không có yêu 
cầu áp dụng thời hiệu hoặc có yêu cầu áp 
dụng thời hiệu sau khi Toà án cấp sơ thẩm 
ra bản án, quyết định giải quyết vụ án.
(iii) Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi 
thường thiệt hại vẫn còn và Toà án vẫn 
giải quyết vụ án dân sự theo quy định nếu 
người có quyền chứng minh được khoảng 
thời gian không tính vào thời hiệu khởi 
kiện như: Sự kiện bất khả kháng hoặc 
trở ngại khách quan làm cho chủ thể có 
quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không 
thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời 
hiệu; Chưa có người đại diện trong trường 
hợp người có quyền khởi kiện, người có 
quyền yêu cầu là người chưa thành niên, 
mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn 
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị 
hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người 
chưa thành niên, người mất năng lực hành 
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận 
thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế 
năng lực hành vi dân sự chưa có người đại 
diện khác thay thế20.
(iv) Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự 
đã hết nhưng có thể được bắt đầu lại trong 
trường hợp sau đây: Bên có nghĩa vụ đã 
thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ 
của mình đối với người khởi kiện; Bên có 
nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong 
một phần nghĩa vụ của mình đối với người 
khởi kiện; Các bên đã tự hòa giải với nhau./.
19 Xem điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng 
dân sự năm 2015
20 Xem Điều 156 BLDS năm 2015.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_boi_thuong_thiet_hai_do_xam_pham_quyen_rien.pdf