Một số vấn đề pháp lý về tranh chấp liên quan đến chủ thể của hợp đồng tín dụng

Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa một bên là khách hàng và một bên là Ngân hàng thương mại là

dạng tranh chấp rất phổ biến và có xu hướng gia tăng hiện nay. Có nhiều dạng tranh chấp như tranh

chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản bảo đảm đặc biệt phải kể đến tranh chấp

liên quan việc xác định chủ thể của HĐTD. Đây là dạng tranh chấp xảy ra tương đối phổ biến, có tính

chất phức tạp Chính vì vậy, việc nắm vững các quy định pháp luật về chủ thể của HĐTD sẽ hạn chế

các tranh chấp có thể xảy ra cũng như giúp giải quyết các tranh chấp đó.

pdf 6 trang kimcuc 4300
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề pháp lý về tranh chấp liên quan đến chủ thể của hợp đồng tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề pháp lý về tranh chấp liên quan đến chủ thể của hợp đồng tín dụng

Một số vấn đề pháp lý về tranh chấp liên quan đến chủ thể của hợp đồng tín dụng
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 08 (2018) 
79 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN 
CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 
Nguyễn Thị Thùy Trang1, Nguyễn Thị Thu Trang2 
Tóm tắt 
Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa một bên là khách hàng và một bên là Ngân hàng thương mại là 
dạng tranh chấp rất phổ biến và có xu hướng gia tăng hiện nay. Có nhiều dạng tranh chấp như tranh 
chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản bảo đảm đặc biệt phải kể đến tranh chấp 
liên quan việc xác định chủ thể của HĐTD. Đây là dạng tranh chấp xảy ra tương đối phổ biến, có tính 
chất phức tạpChính vì vậy, việc nắm vững các quy định pháp luật về chủ thể của HĐTD sẽ hạn chế 
các tranh chấp có thể xảy ra cũng như giúp giải quyết các tranh chấp đó. 
Từ khóa: Hợp đồng tín dụng, tranh chấp, chủ thể của hợp đồng tín dụng. 
SOME LEGAL DISPUTES RELATED TO THE SUBJECT OF CREDIT CONTRACTS 
Abstract 
Among civil and economic disputes, the contract dispute accounts for the largest proportion, including 
credit contract dispute between a customer and a commercial bank. There are many types of disputes 
such as disputes over interest, disbursement, security asset handling especially the disputes regarding 
the determination of the subject of credit activity. This type of dispute is relatively common and 
complicated. Therefore, mastering the legal provisions on subjects of credit activity will reduce disputes 
as well as help solve those disputes. 
Key words: credit contracts, disputes, the subject of credit contracts. 
1. Đặt vấn đề 
Trong số các tranh chấp kinh doanh thương 
mại, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng 
(HĐTD) chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vụ án 
đã thụ lý và giải quyết. Đơn cử tại Tòa án nhân 
dân Thành phố Hà Nội, từ năm 2013 đến tháng 
6/2016, tổng số thụ lý tranh chấp HĐTD trên 
tổng số án kinh doanh, thương mại là 420/862 
chiếm 48,7%, tổng số giải quyết án tranh chấp 
HĐTD trên tổng số tranh chấp kinh doanh 
thương mại là 308/736 chiếm 41,8% [1]. Theo số 
liệu của Tòa án thành phố Thái Nguyên năm 
2018 giải quyết 1.393 vụ án (dân sự, thương mại, 
hôn nhân) thì có 127 vụ thương mại (trong đó 
tranh chấp HĐTD là 76 vụ chiếm 59,8% [8]. 
Bên cạnh các dạng tranh chấp khác, dạng tranh 
chấp về việc xác định chủ thể của HĐTD để đưa 
vào tham gia quá trình tố tụng chứa đựng nhiều 
yếu tố phức tạp, đặc biệt do có nhiều quy định 
liên quan như pháp luật dân sự, luật doanh 
nghiệp hay pháp luật Ngân hàng. 
Bài viết sẽ phân tích các quy định hiện hành 
về chủ thể của HĐTD và đưa ra một số phương 
hướng giải quyết các vướng mắc pháp lý liên 
quan đến vấn đề này. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng 
tại các Ngân hàng thương mại 
Hiện nay, pháp luật không quy định về khái 
niệm tranh chấp hợp đồng nói chung và khái 
niệm tranh chấp HĐTD nói riêng. Tuy nhiên, xét 
từ các tranh chấp trên thực tế thì tranh chấp 
HĐTD được hiểu là sự mâu thuẫn, bất đồng của 
các bên tham gia quan hệ HĐTD việc thực hiện 
quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Theo tác giả 
Đỗ Thị Hồng Hạnh “Tranh chấp HĐTD ngân 
hàng là những mâu thuẫn phát sinh từ việc thực 
hiện quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên 
cho vay (tổ chức tín dụng) và bên vay (khách 
hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ 
gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản bảo 
đảm...” [1]. Chúng tôi thống nhất với quan điểm 
này. Trong tranh chấp HĐTD có sự phân biệt là 
tranh chấp dân sự hay tranh chấp thương mại phụ 
thuộc vào bên vay là cá nhân hay pháp nhân và 
có mục đích lợi nhuận hay không. Song dù là 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 07 (2018) 
80 
loại tranh chấp dân sự hay thương mại thì tranh 
chấp HĐTD có một số đặc trưng sau phân biệt 
với các loại tranh chấp thương mại khác. 
Thứ nhất, tranh chấp HĐTD luôn có sự 
tham gia của một bên là ngân hàng thương mại 
(NHTM). Vì đặc trưng của HĐTD một bên chủ 
thể bắt buộc là NHTM, do vậy khi phát sinh 
tranh chấp thì NHTM phải là một bên tranh chấp 
hoặc là nguyên đơn hoặc là bị đơn. Song thực tế 
cho thấy trong phần lớn các tranh chấp HĐTD, 
nguyên đơn là NHTM. Lý do NHTM thường 
không vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng xuất 
phát từ cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của 
HĐTD, theo đó, bên cho vay (NHTM) luôn phải 
thực hiện nghĩa vụ giải ngân trước, sau đó khách 
hàng vay mới thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc 
và lãi. Thời điểm xảy ra tranh chấp thông thường 
là thời điểm sau khi giải ngân khoản tiền vay của 
ngân hàng và quá trình sử dụng tiền vay của bên 
vay. 
Thứ hai, tranh chấp xảy ra do có sự vi phạm 
nghĩa vụ của một (hoặc hai) bên chủ thể về các 
nội dung chủ yếu của HĐTD. 
Về phía bên vay, vi phạm nghĩa vụ thường 
là việc khách hàng vay không thực hiện hoặc 
thực hiện không đúng: (i) Nghĩa vụ trả nợ gốc, 
nợ lãi về thời gian; (ii) Mục đích sử dụng tiền 
vay không đúng với cam kết trong HĐTD dẫn 
đến mất khả năng thanh toán hoặc (iii) vi phạm 
nghĩa vụ bảo đảm trả nợ như: Giá trị tài sản bảo 
đảm bị sụt giảm; tài sản bảo đảm có tranh chấp; 
tài sản bảo đảm bị tẩu tán, chuyển quyền sở hữu 
sang một bên thứ ba hoặc thậm chí tài sản bảo 
đảm hoàn toàn không tồn tại 
Về phía NHTM, vi phạm nghĩa vụ có thể 
xảy ra là (i) vi phạm nghĩa vụ về tiến độ giải 
ngân; (ii) vi phạm về cách thức tính lãi suất, lãi 
phạt và phương thức thu hồi tiền gốc, lãi; (iii) vi 
phạm về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với 
những HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. 
Thứ ba, đối tượng tranh chấp của HĐTD 
suy đến cùng là tiền tệ: Hoạt động tín dụng là 
hoạt động kinh doanh tiền tệ thông qua cho vay 
của NHTM. Khi phát sinh tranh chấp dù xuất 
phát từ phía nào (bên NHTM hay bên đi vay) và 
do vi phạm nào trong các loại vi phạm về nghĩa 
vụ nêu trên thì mục đích cuối cùng của giải quyết 
tranh chấp là nhằm hướng đến thu hồi tiền vay và 
lãi suất đã giải ngân. 
Phân loại tranh chấp HĐTD có nhiều dạng, 
như: (1) Tranh chấp HĐTD về hành vi vi phạm 
nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng; 
(2) Tranh chấp về việc thực hiện biện pháp bảo 
đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản; (3) 
tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp 
đồng; (4) tranh chấp về định giá, xử lý tài sản 
bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng 
tài sản và tranh chấp về pháp luật giải quyết 
tranh chấp HĐTD. 
Trong bốn loại tranh chấp trên đây, chúng 
tôi phân tích một số dạng tranh chấp liên quan 
đến chủ thể của HĐTD và phương hướng giải 
quyết. 
3.2. Một số tranh chấp liên quan đến chủ thể của 
hợp đồng tín dụng và phương hướng giải quyết 
Các tranh chấp trong việc xác định chủ thể 
của HĐTD diễn ra tương đối phổ biến. Việc các 
bên không đáp ứng đủ các điều kiện quy định, 
hoặc trong HĐTD không phản ánh đầy đủ, chính 
xác các thông tin để thỏa mãn điều kiện quy định 
về chủ thể chắc chắn có thể gây ra những hệ lụy 
sau này, thậm chí có thể dẫn đến hợp đồng vô 
hiệu. Ngoài ra, trên thực tế có thể xảy ra một số 
tình huống pháp lý dẫn đến việc các NHTM gặp 
lúng túng trong quá trình yêu cầu khách hàng 
thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Việc nghiên cứu các 
quy định liên quan về chủ thể của HĐTD là cần 
thiết để hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra. 
3.2.1. Đối với bên cho vay là các Ngân hàng 
thương mại 
Luật các Tổ chức tín dụng đưa ra các quy 
định chung đối với chủ thể cho vay gồm: Có điều 
lệ được Ngân hàng nhà nước chuẩn y; có giấy 
chứng nhận đăng kí kinh doanh hợp pháp; có 
người đại diện đủ năng lực hành vi dân sự và 
thẩm quyền để giao kết hợp đồng [4]. Theo quy 
định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN (sau đây 
gọi tắt là Thông tư 39), các tổ chức tín dụng 
được phép cho vay thuộc phạm vi điều chỉnh của 
Thông tư này bao gồm: Ngân hàng thương mại 
(gồm NHTM nhà nước; NHTM cổ phần; Ngân 
hàng liên doanh; Ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài); Ngân hàng hợp tác xã; tổ chức tín dụng 
phi Ngân hàng (gồm công ty tài chính và công ty 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 08 (2018) 
81 
cho thuê tài chính; Tổ chức tài chính vi mô; Quỹ 
tín dụng nhân dân; Chi nhánh Ngân hàng nước 
ngoài [2]. 
Đối với NHTM về nguyên tắc nhà nước chỉ 
cấp phép cho hoạt động ngân hàng đăng ký (một 
cấp); tuy nhiên theo BLDS và các quy định pháp 
luật về ngân hàng, pháp luật thương mại cho 
phép thành lập các chi nhánh, văn phòng giao 
dịch. Chi nhánh, văn phòng giao dịch được ủy 
quyền thực hiện hoạt động từ NHTM được cấp 
phép. Đặc thù của Ngân hàng là hoạt động theo 
cơ chế chi nhánh và khách hàng thường làm việc 
trực tiếp với chi nhánh. Vậy trong HĐTD, thông 
tin về bên cho vay nếu không phản ánh đủ thông 
tin về NHTM mà chỉ phản ánh thông tin về chi 
nhánh là sự khiếm khuyết dẫn đến không bảo 
đảm tính pháp lý khi giải quyết tranh chấp: 
Thứ nhất, trong quá trình soạn thảo HĐTD, 
thông tin về bên cho vay thường bao gồm: tên 
NHTM cho vay; địa chỉ trụ sở; điện thoại, fax; 
Đại diện và các thông tin về người đại diện 
Trên thực tế, tên NHTM thường được trình bày 
gồm tên NHTM và tên Chi nhánh/Phòng giao 
dịch, ví dụ: Ngân hàng thương mại cổ phần A – 
Chi nhánh X. Tuy nhiên, nhiều Ngân hàng khi 
soạn thảo HĐTD lại lược bớt thông tin, ví dụ: 
“Bên cho vay: Chi nhánh Ngân hàng X”. Theo 
quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, Chi nhánh 
là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm 
vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng 
của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo 
ủy quyền; Văn phòng đại diện là đơn vị phụ 
thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện 
theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và 
bảo vệ các lợi ích đó (Điều 46). Chi nhánh có thể 
hoạch toán độc lập, có con dấu riêng, có tài 
khoản riêng nhưng không có tư cách pháp nhân 
[6]. Điều này xuất phát từ việc Chi nhánh hay 
phòng giao dịch của NHTM không có tài sản 
(vốn) độc lập nên không được coi là pháp nhân 
mà chỉ là “đơn vị phụ thuộc” của pháp nhân. 
Như vậy, căn cứ các quy định Bộ luật Dân 
sự, Luật Doanh nghiệp và Luật các tổ chức tín 
dụng mà HĐTD ghi bên cho vay không ghi đầy 
đủ tên NHTM, chỉ ghi tên chi nhánh, văn phòng 
giao dịch thì không được coi là chủ thể của quan 
hệ pháp luật tín dụng của HĐTD. Do vậy, hợp 
đồng này về nguyên tắc là vô hiệu. 
Thứ hai, trong HĐTD đã ghi đầy đủ tên của 
NHTM và ghi đầy đủ tên của chi nhánh đang thực 
hiện hoạt động cho vay thường ghi là “Đơn vị 
thực hiện cho vay”, nhưng không ghi rõ nội dung 
ủy quyền (giấy ủy quyền của NHTM cho chi 
nhánh); về nguyên tắc cũng là không đầy đủ, song 
nếu quá trình giải quyết tranh chấp chứng minh 
được Chi nhánh đã có giấy ủy quyền (hoặc quyết 
định ủy quyền thường xuyên) cho chi nhánh trước 
khi ký HĐTD thì được coi là hợp pháp. 
Thứ ba, Nội dung của ủy quyền của NHTM 
cho chi nhánh không thể nói chung chung là “ủy 
quyền cho chi nhánh” mà phải ghi rõ là ủy quyền 
cho cá nhân nào của chi nhánh (Giám đốc hay Phó 
giám đốc hoặc người được chỉ định); nếu giấy ủy 
quyền hoặc quyết định ủy quyền không nêu rõ cá 
nhân nào nhận ủy quyền thì HĐTD do chi nhánh 
ký sẽ vô hiệu vì về nguyên tắc chi nhánh không có 
tư cách pháp nhân do đó không được nhận ủy 
quyền của NHTM (Điều 138 BLDS). 
Khi phân tích nội dung trên, có quan hai 
điểm khác nhau: 
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu một chi 
nhánh của NHTM đã được ủy quyền hợp pháp 
(ủy quyền thường xuyên) ký kết các HĐTD khi 
xảy ra tranh chấp thì chi nhánh vẫn có thể tham 
gia trực tiếp giải quyết HĐTD với điều kiện thỏa 
mãn các yêu cầu sau: (i) một là phải tồn tại ủy 
quyền hợp pháp và có hiệu lực pháp lý giữa 
Ngân hàng cho chi nhánh; khi đó, chi nhánh sẽ 
nhân danh Ngân hàng đòi nợ chứ không phải 
nhân danh chính mình đi đòi nợ; (ii) hai là, giám 
đốc chi nhánh sẽ kí đơn khởi kiện với tư cách là 
đại diện Ngân hàng, đóng dấu chi nhánh (không 
đóng dấu Ngân hàng vì đã có giao dịch ủy quyền 
giữa Ngân hàng cho chi nhánh). 
+ Quan điểm thứ hai cho rằng trong mọi 
trường hợp, chi nhánh của NHTM đều không tự 
mình khởi kiện tranh chấp HĐTD nếu không có 
ý kiến ủy quyền bằng văn bản của NHTM vì: (1) 
Chi nhánh không phải là pháp nhân nên dấu và 
chữ ký của Giám đốc chi nhánh không có giá trị; 
(2) Đại diện pháp luật của chi nhánh là Giám đốc 
không đương nhiên là người nhận ủy quyền của 
NHTM vì việc ủy quyền trong trường hợp này là 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 07 (2018) 
82 
ủy quyền cá nhân. Chúng tôi đồng ý với quan 
điểm thứ hai. 
3.2.2. Đối với khách hàng (bên vay vốn) 
Theo quy định hiện hành, điều kiện vay vốn 
đối với khách hàng vay được ghi nhận tại Khoản 
1, Điều 7, Thông tư 39 như sau: 
“Khách hàng là pháp nhân có năng lực 
pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. 
Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có 
năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định 
của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 
tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi 
dân sự theo quy định của pháp luật.” 
Như vậy, khi bên vay có nhu cầu vay vốn để 
sử dụng vào mục đích hợp pháp, có phương án 
sử dụng vốn khả thi, có khả năng tài chính để trả 
nợ thì có thể đề nghị giao kết HĐTD với 
NHTM. Quy định về đối tượng khách hàng được 
vay vốn chỉ có thể là pháp nhân hoặc cá nhân là 
điểm mới so với Quyết định 1627/2001/QĐ-
NHNN, theo đó, chủ thể được vay vốn bao gồm: 
tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài, bao 
gồm cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, 
tổ hợp tác và các tổ chức khác có năng lực pháp 
luật dân sự. Theo quy định tại Bộ luật dân sự 
(BLDS) 2015, chủ thể tham gia quan hệ dân sự 
chỉ bao gồm pháp nhân, cá nhân [3]. Để thực 
hiện quy định mới này của BLDS, Thông tư 39 
(khoản 3 Điều 2) quy định khách hàng vay vốn 
tại tổ chức tín dụng là pháp nhân, cá nhân. 
Ngoài ra, để áp dụng thống nhất quy định 
pháp luật đối với các giao dịch cho vay được xác 
lập trước ngày Thông tư 39 có hiệu lực, Điều 34 
của Thông tư 39 cho phép tổ chức tín dụng và 
khách hàng là các tổ chức không có tư cách pháp 
nhân tiếp tục thực hiện các nội dung trong 
HDTD đã ký kết phù hợp với quy định của pháp 
luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm ký kết hợp 
đồng đó hoặc thỏa thuận sửa đổi, bổ sung HĐTD 
phù hợp với quy định tại Thông tư này. 
Bên cạnh việc xác định điều kiện trở thành 
bên vay tiền trong HĐTD, còn tồn tại một số 
tranh chấp phổ biến liên quan đến việc xác định 
chủ thể khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ví dụ 
về một số trường hợp tranh chấp như sau: 
Thứ nhất, tranh chấp xảy ra khi xác định 
nghĩa vụ trả nợ của vợ, chồng đối với khoản vay 
tại NHTM: Có thể thấy, khi cá nhân đủ năng lực 
chủ thể tham gia vào quan hệ HĐTD, cá nhân đó 
phải trực tiếp chịu trách nhiệm thực hiện đối với 
các nghĩa vụ của mình theo quy định. Đối với 
khoản vay NHTM, người nào vay tiền thì người 
đó có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Tuy nhiên, 
trường hợp chỉ một người ký kết HĐTD (đối với 
các khoản vay không có thế chấp tài sản chung), 
người còn lại hoàn toàn không biết việc vợ hoặc 
chồng mình vay tiền, nhưng kết quả là vợ chồng 
cùng phải liên đới trả nợ cho ngân hàng nếu quá 
trình giải quyết tranh chấp chứng minh được việc 
vay riêng nhưng sử dụng vào mục đích chung. 
Xem xét vấn đề này, cần nắm rõ quy định về 
trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với các 
nghĩa vụ xuất phát từ giao dịch do một bên vợ 
hoặc chồng xác lập. Theo Điều 37, Luật Hôn 
nhân và gia đình năm 2014, vợ, chồng phải cùng 
trả các khoản nợ thuộc các trường hợp sau đây: 
(1) Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm 
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; (2) 
Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, 
định đoạt tài sản chung; (3) Nghĩa vụ phát sinh 
từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát 
triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu 
nhập chủ yếu của gia đình[7] 
Như vậy, nếu giao dịch cho vay được xác 
lập giữa NHTM với một bên vợ/chồng với mục 
đích sử dụng tiền vay thuộc một trong các trường 
hợp trên thì việc cả hai vợ chồng chịu trách 
nhiệm liên đới trả nợ cho ngân hàng là một quyết 
định phù hợp với quy định pháp luật. 
Thứ hai, tranh chấp trong việc xác định 
người trả nợ khi người vay tiền chết: Về nguyên 
tắc cá nhân nào vay tiền của NHTM thì cá nhân 
đó có trách nhiệm trả nợ. Trong trường hợp 
người vay tiền của NHTM chết, để thu hồi được 
nợ thì NHTM phải xác định được tài sản của 
người vay đã chết (tài sản thừa kế, tài sản chung) 
và nghĩa vụ trả nợ của người đã chết. Tuy nhiên 
ngay cả khi xác định được tài sản của người vay 
(đã chết) cũng không đương nhiên yêu cầu thanh 
toán thu hồi nợ cho NHTM mà phải thực hiện 
thứ tự thanh toán theo quy định tại Điều 658 
BLDS. Trong trường hợp NHTM không phát 
hiện ra tài sản của người vay (đã chết) hoặc 
không phát hiện ra việc người vay chết mà 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 08 (2018) 
83 
những người thừa kế đã chia nhau tài sản thừa kế 
của người vay thì phải áp dụng quy định tại Điều 
615 BLDS. Điều 615 BLDS 2015 quy định về 
việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để 
lại, theo đó, người thừa kế (theo di chúc hoặc 
theo pháp luật) dù là cá nhân hay pháp nhân 
(pháp nhân hưởng thừa kế theo di chúc) có trách 
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi 
tài sản do người chết để lại, trừ trường hợp có 
thỏa thuận khác. Do vậy, nếu NHTM muốn xác 
định người trả nợ thay cho người chết thì phải 
xác định đúng người thừa kế theo các quy định 
của pháp luật hiện hành. Nếu di sản đã được chia 
thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản 
do người chết để lại tương ứng nhưng không 
vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ 
trường hợp có thoả thuận khác. 
Thứ ba, tranh chấp phát sinh khi xác định 
người trả nợ là pháp nhân hay người đại diện 
theo pháp luật của pháp nhân: Đây là một dạng 
tranh chấp tương đối phổ biến trên thực tế, do 
bên vay tín dụng thường là pháp nhân và phải 
thông qua người đại diện kí HĐTD với Ngân 
hàng. Theo quy định tại Điều 13, Luật Doanh 
nghiệp 2014, người đại diện theo pháp luật của 
doanh nghiệp “Là cá nhân đại diện cho doanh 
nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát 
sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho 
doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, 
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước 
Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác 
theo quy định của pháp luật”. Để xác định được 
người trả nợ NHTM là ai, cần xem xét việc cá 
nhân giao kết HĐTD nhân danh pháp nhân hay 
nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ tín 
dụng này; đồng thời chứng minh mục đích sử 
dụng tiền vay là mục đích cá nhân hay sử dụng 
để phục vụ hoạt động kinh doanh của cá nhân. 
Chỉ có thể xác định nghĩa vụ trả nợ thuộc pháp 
nhân nếu thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: thứ 
nhất, cá nhân vay tiền là người đại diện hợp pháp 
của pháp nhân; thứ hai, mục đích sử dụng tiền 
vay là để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh 
của pháp nhân. 
Thứ tư, tranh chấp phát sinh do người trả 
nợ là doanh nghiệp bị giải thể: Trong số các 
trường hợp giải thể doanh nghiệp quy định tại 
Khoản 1, Điều 201, Luật Doanh nghiệp 2014, 
trường hợp giải thể do bị thu hồi Giấy chứng 
nhận đăng ký doanh nghiệp gây ra nhiều khó 
khăn trong quá trình giải quyết các nghĩa vụ tài 
chính của doanh nghiệp. Theo quy định của Luật 
doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014, 
doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh 
toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và 
doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết 
tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Mặc 
dù về mặt nguyên tắc, các nhà làm luật bắt buộc 
doanh nghiệp phải thanh toán hết các khoản nợ của 
mình mới được phá sản (ví dụ, doanh nghiệp nợ 
Ngân hàng), tuy nhiên, theo quy định tại khoản 6 
Điều 158 Luật doanh nghiệp 2005, trường hợp 
doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký 
kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời 
hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng 
nhận đăng ký kinh doanh dù chưa thanh toán hết 
các khoản nợ [5]. Sau thời hạn sáu tháng mà cơ 
quan đăng ký kinh doanh không nhận được hồ sơ 
giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó “coi như 
đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh 
xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh 
doanh”. Như vậy, pháp luật thừa nhận doanh 
nghiệp mặc nhiên bị giải thể, để lại các nghĩa vụ tài 
chính, các khoản nợ mà doanh nghiệp chưa thanh 
toán cho các cá nhân quản lý công ty, theo đó, 
người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối 
với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công 
ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành 
viên, các thành viên Hội đồng quản trị đối với công 
ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty 
hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ 
và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán. Như 
vậy, nếu doanh nghiệp bị giải thể do bị thu hồi giấy 
chứng nhận đăng kí kinh doanh, Ngân hàng với tư 
cách chủ nợ bắt buộc phải xác định bị đơn để khởi 
kiện là các cá nhân quản lý doanh nghiệp đó. 
Hiện nay, theo Luật doanh nghiệp 2014, 
doanh nghiệp thực sự chỉ được giải thể khi thanh 
toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản. Nếu 
doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh 
toán thì phải gửi phương án giải quyết nợ đến 
các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có 
liên quan với các thông tin: Tên, địa chỉ của chủ 
nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức 
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 07 (2018) 
84 
thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải 
quyết khiếu nại của chủ nợ. Khi đó, người quản 
lý có liên quan và doanh nghiệp bị thu hồi giấy 
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cùng liên đới 
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh 
nghiệp (Khoản 2, Điều 201). Đặc biệt, nhằm đảm 
bảo tối đa quyền và lợi ích của chủ nợ khi doanh 
nghiệp bị giải thể trong trường hợp hồ sơ giải thể 
không chính xác, giả mạo, Khoản 3 Điều 204 
quy định những người quản lý doanh nghiệp như 
thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, 
thành viên Hội đồng thành viên công ty trách 
nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty phải liên 
đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh 
toán và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật 
về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 
năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp 
đến Cơ quan đăng ký kinh doanh. 
Trong bối cảnh số lượng các doanh nghiệp 
chấm dứt hoạt động ngày càng gia tăng, đặc biệt 
giải thể do bị thu hồi giấy đăng ký doanh nghiệp 
dẫn đến việc chủ nợ (NHTM) gặp khó khăn 
trong quá trình thu hồi vốn của mình. Do đó, xác 
định được chính xác bị đơn để khởi kiện là điều 
các NHTM cần hết sức lưu ý. 
4. Kết luận 
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật 
dân sự cũng như pháp luật Ngân hàng về chủ thể 
của hợp đồng tín dụng, tác giả đã chỉ ra các dạng 
tranh chấp phổ biến liên quan đến chủ thể của 
HĐTD. Từ đó, tác giả đã đưa ra các khuyến nghị 
đối với các NHTM và khách hàng vay vốn Ngân 
hàng về cách thức giải quyết các tranh chấp, góp 
phần hạn chế các rủi ro pháp lý cũng như nâng 
cao chất lượng tín dụng ở Việt Nam hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đỗ Thị Hồng Hạnh. (2017). Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngân hàng: Thực tiễn xét xử 
tại Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Truy cập ngày 17/2/2019 từ 
luat/phap-luat-kinh-doanh/giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-tin-dung-ngan-hang-thuc-tien-xet-xu-tai-toa-
an-nhan-dan-tp-ha-noi-129067.html 
[2]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .(2016). Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, ngày 30 tháng 12 năm 2016. 
[3]. Quốc hội. (2014). Bộ luật dân sự 2015, số 91/2015/QH13, ngày 24tháng 11 năm 2015 
[4]. Quốc hội. (2014). Luật các Tổ chức tín dụng, số 47/2010/QH12, ngày 16 tháng 6 năm 2010. 
[5]. Quốc hội. (2014). Luật doanh nghiệp 2005, số 60/2005/QH11, ngày 29/11/2005. 
[6]. Quốc hội. (2014). Luật doanh nghiệp 2014, số 68/2014/QH13, ngày 26/11/2014. 
[7]. Quốc hội. (2014). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, số 52/2014/QH13, ngày 19 tháng 6 năm 2014. 
[8]. Tòa án Nhân dân TP Thái Nguyên. (2018). Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, phương hướng 
nhiệm vụ công tác năm 2019. 
Thông tin tác giả: 
1. Nguyễn Thị Thùy Trang 
- Đơn vị công tác: Khoa Quản lý - Luật Kinh tế - Trường Đại học 
Kinh tế & QTKD 
- Địa chỉ email: thuytrang.lkt@gmail.com 
2. Nguyễn Thị Thu Trang 
- Đơn vị công tác: Khoa Quản lý - Luật Kinh tế - Trường Đại học 
Kinh tế & QTKD 
Ngày nhận bài: 15/10/2018 
Ngày nhận bản sửa: 21/12/2018 
Ngày duyệt đăng: 28/12/2018 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_phap_ly_ve_tranh_chap_lien_quan_den_chu_the_cu.pdf