Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội

Hệ thống các tạp chí khoa học ở Việt Nam hiện nay khá phong phú cả về số lượng, nội

dung và định kỳ. Tuy nhiên, đằng sau sự phát triển tưởng như là mạnh mẽ ấy, hệ thống này vẫn

bộc lộ nhiều vấn đề đòi hỏi phải có các giải pháp tổng thể để giải quyết. Bài viết này, bằng cách

nhìn nhận tổng quan về hệ thống các tạp chí khoa học tại Việt Nam tham gia phản biện khoa học

và phản biện xã hội, đồng thời khảo sát cụ thể trên một số trường hợp, sẽ chỉ ra một số thực trạng

phát triển của hệ thống này, cả về ưu điểm và nhược điểm. Từ đó đề xuất một số giải pháp để giải

quyết vấn đề. Về mặt chuyên môn, bài viết được tiếp cận dưới góc độ và quan điểm của ngành báo

chí và truyền thông.

pdf 10 trang thom 06/01/2024 1860
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội

Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 
 29
Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia 
phản biện khoa học và phản biện xã hội 
Phan Văn Kiền* 
Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, 
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội 
Nhận ngày 01 tháng 3 năm 2015 
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 3 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 5 năm 2015 
Tóm tắt: Hệ thống các tạp chí khoa học ở Việt Nam hiện nay khá phong phú cả về số lượng, nội 
dung và định kỳ. Tuy nhiên, đằng sau sự phát triển tưởng như là mạnh mẽ ấy, hệ thống này vẫn 
bộc lộ nhiều vấn đề đòi hỏi phải có các giải pháp tổng thể để giải quyết. Bài viết này, bằng cách 
nhìn nhận tổng quan về hệ thống các tạp chí khoa học tại Việt Nam tham gia phản biện khoa học 
và phản biện xã hội, đồng thời khảo sát cụ thể trên một số trường hợp, sẽ chỉ ra một số thực trạng 
phát triển của hệ thống này, cả về ưu điểm và nhược điểm. Từ đó đề xuất một số giải pháp để giải 
quyết vấn đề. Về mặt chuyên môn, bài viết được tiếp cận dưới góc độ và quan điểm của ngành báo 
chí và truyền thông. 
Từ khóa: Tổ chức và xây dựng tạp chí, thực trạng tạp chí khoa học, tạp chí khoa học. 
1. Thực trạng∗ 
 1.1. Số lượng phong phú 
Có thể thấy rằng, hệ thống tạp chí ở Việt 
Nam hiện nay rất phong phú về số lượng và 
phân bố trên từng lĩnh vực. Riêng tạp chí in, ở 
Việt Nam hiện có 528 tờ. Trong 592 tờ tạp chí 
này, được phân loại ra thành nhiều dòng tạp chí 
(tạp chí chuyên ngành, tạp chí chỉ dẫn – giải trí, 
tạp chí thông báo...). 
Riêng dòng tạp chí khoa học, ở hầu hết cơ 
quan nghiên cứu của mỗi ngành đều có tạp chí 
_______ 
∗ĐT.: 84-983414354 
 Email: fankien@gmail.com 
của ngành mình. Trong mỗi ngành, thậm chí 
còn được phân ra từng chuyên ngành hẹp để 
xuất bản tạp chí riêng. Thí dụ: Ở tạp chí Khoa 
học của Đại học Quốc gia Hà Nội, dưới tên gọi 
là Tạp chí khoa học, mỗi chuyên ngành hẹp lại 
được chia ra thành các chuyên san như Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, Khoa học Tự nhiên, 
Khoa học trái đất, Luật – Kinh tế, Toán học... 
Với số lượng tạp chí phong phú như vậy, 
nếu tất cả các tạp chí đều đảm bảo được yêu cầu 
về nội dung và hình thức của mỗi dòng tạp chí 
thì có thể đáp ứng rất tốt nhu cầu thông tin, thảo 
luận, trao đổi của công chúng ở mỗi dòng. 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 30 
Không chỉ về số lượng tạp chí, số lượng bài 
viết trên các tạp chí cũng tăng lên theo thời 
gian. Kết quả khảo sát trên 4 tạp chí nghiên cứu 
về Kinh tế cho thấy sự tăng lên về số lượng bài 
viết trên các tạp chí tại Việt Nam [1-3]: 
Tên tạp chí Năm 2010 Năm 2011 Tỷ lệ tăng (%) 
Nghiên cứu kinh tế 39 48 18,8 
Kinh tế và dự báo 135 177 23,7 
Thông tin tài chính 153 170 10 
Tổng 327 395 17,2 
Bảng 1. Số lượng bài viết trên 3 tạp chí nghiên cứu về kinh tế từ 2010 đến 2011. 
1.2. Tính liên ngành cao, tính định kỳ rõ 
Điều này có thể thấy rõ trong từng dòng tạp 
chí, đặc biệt là ở dòng tạp chí khoa học. Tính 
liên ngành ở đây thể hiện dưới hai khía cạnh: 
Dùng các phương pháp liên ngành để giải quyết 
các nội dung của ngành mình và dùng phương 
pháp cơ bản của ngành mình để giải quyết các 
nội dung liên ngành. 
Trong các dòng tạp chí tại Việt Nam hiện 
nay, đặc biệt là dòng tạp chí khoa học, biểu hiện 
tính liên ngành thứ hai (dùng các phương pháp 
cơ bản của ngành để nghiên cứu các nội dung 
liên ngành) được thể hiện khá rõ rệt. 
Sự kết hợp khá chặt chẽ này, nếu được thực 
hiện đảm bảo tính khoa học và đúng quy trình 
chất lượng của nó thì giá trị của mỗi tạp chí sẽ 
được tăng lên rất nhiều so với việc chỉ dùng 
phương pháp nghiên cứu cơ bản của ngành 
mình cho nội dung của ngành. 
Mặc dù cả báo và tạp chí đều có sự tương 
đồng về tính định kỳ, bởi đây là nguyên tắc cơ 
bản của hoạt động báo chí có từ trước đó. 
Nhưng ở mỗi loại hình lại có sự khác nhau. 
Tính định kỳ của báo thường ngắn hơn và có ở 
thời điểm nhất định, có khi tính bằng giờ (đối 
với báo in), có khi tính bằng giây, bằng phút 
(đối với phát thanh, truyền hình, báo điện tử). 
Tính định kỳ tạp chí dài hơn báo, tạp chí 
không xuất hiện nhiều hơn một tuần một lần, có 
khi là nửa tháng, một tháng, thậm chí một quý 
hoặc sáu tháng. Vì vậy thời điểm xuất bản định 
kỳ cho mỗi số không bị ràng buộc như báo. 
Ở dòng tạp chí nghiên cứu, tính định kỳ 
càng thưa bởi để đảm bảo tính chất nghiên cứu 
của nó, các tạp chí đòi hỏi phải có các bài mang 
tính chất nghiên cứu và có nội dung mới. Điều 
này không thể thực hiện theo hàng tuần, thậm 
chí hàng tháng. Có những tạp chí có lượng gửi 
bài của các chuyên gia, cộng tác viên rất phong 
phú nhưng vẫn chỉ ra được mỗi năm 4 số bởi 
tính chọn lọc bài viết khá khắt khe của tòa soạn 
như Tạp chí Khoa học của ĐHQGHN. 
Một số tạp chí nghiên cứu vì không có đủ 
lượng bài mang tính nghiên cứu nhưng đến định 
kỳ vẫn phải ra, đã dùng tin tức thông thường 
của báo chí và cả những bài báo thông thường 
đăng trên tạp chí của mình (thí dụ tạp chí Thanh 
Niên của Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam, 
tạp chí Người làm báo của Hội Nhà báo Việt 
Nam...). Vấn đề này sẽ được làm rõ ở sau. 
Có hai dạng định kỳ. Đó là định kỳ của bản 
báo, thường gọi là định kỳ chung cho cả số tạp 
chí đã được đăng ký cấp giấy phép. Định 
kỳ này không có sự thay đổi, nếu có thay đổi 
cần có sự đồng ý và phê duyệt của cơ quan 
chủ quản và cơ quan quản lý. Định kỳ của từng 
chuyên mục, hay gọi là định kỳ của vấn đề. 
Định kỳ này do tòa soạn quyết định, nó có thể 
thây đổi nếu vấn đề, chuyên mục không còn 
phù hợp hoặc hấp dẫn nữa. Sự thay đổi các 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 31
chuyên mục trên tạp chí không nhiều bởi các 
vấn đề nghiên cứu tương đối ổn định, ít thay đổi 
1.3. Tính chất thông tin, cổ vũ, tuyên truyền 
đang lấn át tính chất phản biện, tranh luận 
Với lượng tạp chí phong phú như đã nêu ở 
trên, nếu đảm bảo được các yêu cầu về chất 
lượng và nội dung nghiên cứu thì các dòng tạp 
chí ở Việt Nam sẽ thực hiện rất tốt vai trò tham 
gia vào quá trình tư vấn, phản biện và giám 
định xã hội. 
Tuy nhiên, một thực trạng ở rất nhiều tạp 
chí, đặc biệt là tạp chí khoa học là tính chất 
thông tin, cổ vũ, tuyên truyền cho các chủ 
trương, chính sách, văn bản... của Đảng, Nhà 
nước và các chính sách của từng ngành vẫn 
đang lấn át những bài viết mang tính phản biện 
thực sự hoặc thảo luận, tranh luận về một vấn 
đề mang tính học thuật. 
Cũng dùng các phương pháp nghiên cứu, 
cũng đụng chạm đến các nội dung liên ngành, 
nhưng các tạp chí khoa học hiện nay dường như 
đang “tránh” hoặc “sợ” khi chạm tới các vấn đề 
tranh luận mang tính học thuật. 
Thí dụ: Trên các tạp chí Khoa học về chính 
trị, các tạp chí phân tích rất sâu, rất kỹ và khá 
nhiều về sự đúng đắn của các chủ trương, chính 
sách được ban hành, các văn bản luật và dưới 
luật được phổ biến... nhưng những bài viết 
mang tính phản biện xã hội sâu sắc thì đang 
xuất hiện rất hạn chế. Tất nhiên, phản biện 
trong khoa học phải có bằng chứng và phân tích 
thấu đáo. Bởi vậy, nhược điểm này có thể do 
hai nguyên nhân: Hoặc là đội ngũ nghiên cứu ở 
Việt Nam chưa đủ trình độ để phản biện các 
vấn đề đó. Hoặc là các tạp chí còn “sợ” sự nhạy 
cảm khi đụng chạm đến vấn đề chính trị. Đã 
chọn hướng an toàn thì tốt nhất là không đăng 
các vấn đề nhạy cảm. 
Chính điều này đã làm giảm đi tính đặc 
trưng rõ rệt của các tạp chí nghiên cứu, biến hệ 
thống tạp chí này trở thành một loại hình thông 
tin tuyên truyền,cổ vũ cho các chính sách hơn là 
phản biện lại các chính sách để hoàn thiện nó. 
 Một ví dụ khảo sát trên 4 tạp chí về khoa 
học chính trị (Tạp chí Cộng sản, tạp chí Lý luận 
Chính trị, tạp chí Khoa giáo và tạp chí Kinh tế 
và Chính trị thế giới) cho thấy kết quả phản 
biện bị các nội dung khác lấn át [1,4-7]. 
244
11
157
32
183
4
109
0
0
50
100
150
200
250
TC Cộng
sản
TC Lý luận
Chính trị
TC Khoa
giáo
TC Kinh tế &
Chính trị TG
Bài viết có nội dung khác Bài viết có nội dung phản biện chính trị
Biểu đồ 1. Số lượng bài viết có nội dung phản biện chính trị và nội dung khác 
của 4 tạp chí trong năm 2010. 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 32 
253
7
162
25
200
7
103
0
0
50
100
150
200
250
300
TC Cộng sản TC Lý luận Chính
trị
TC Khoa giáo TC Kinh tế &
Chính trị TG
Bài viết có nội dung khác Bài viết có nội dung phản biện chính trị
Biểu đồ 2. Số lượng bài viết có nội dung phản biện chính trị và nội dung khác 
 của 4 tạp chí trong năm 2011. 
1.4. Tính diễn đàn và tính hệ thống yếu 
Kết cấu tổng thể chung của một tạp chí 
nghiên cứu thường có 3 phần: Công bố các 
nghiên cứu mới; trao đổi, tranh luận, thẩm định 
về các nghiên cứu đã công bố trước đó; giới 
thiệu sự kiện khoa học mới. 
Tính diễn đàn của tạp chí khoa học được thể 
hiện rất rõ trong phần thứ hai của kết cấu chung 
này. Các trao đổi mang tính chuyên môn, các 
tranh luận học thuật là động lực để giải quyết 
các vấn đề tới ngọn ngành của chúng. Đó cũng 
là một biểu hiện rất rõ của tính phản biện đặc 
thù mang tính chức năng trong các tạp chí 
nghiên cứu. 
Sự tranh luận, trao đổi, thẩm định về các 
vấn đề nghiên cứu đã công bố trước đó cũng 
góp phần làm cho tính hệ thống và liên tục 
trong từng tạp chí nghiên cứu được thể hiện rõ. 
Nếu không đảm bảo được yêu cầu này, các số 
tạp chí sẽ rời rạc, đứt mạch. Trong khoa học, 
không có tính hệ thống là một trong những 
nguyên nhân dẫn đến phản biện lệch chiều. 
Trên các tạp chí nghiên cứu của Việt Nam 
hiện nay, dường như phần thứ nhất (công bố các 
nghiên cứu mới) mới là phần chính của các tạp 
chí. Số trang giới thiệu các sự kiện khoa học có 
nhưng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Còn phần trao 
đổi, tranh luận học thuật thì gần như vắng bóng. 
Điều này khiến cho hầu hết các số tạp chí 
chỉ là những nơi công bố các nghiên cứu của 
các nhà khoa học, thậm chí của một người bắt 
đầu nghiên cứu, đang cần công bố các nghiên 
cứu của mình theo quy định của các cơ quan 
quản lý. Tất nhiên, không thể xem nhẹ nội dung 
này, nhưng chỉ chú trọng vào nó thì khiến cho 
các tạp chí chỉ là nơi đăng một chiều các công 
bố. Quy trình phản biện, thẩm định lại các vấn 
đề để tạo nên tính diễn đàn và tính hệ thống 
theo chiều dọc của nội dung nghiên cứu bị mất. 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 33
1.5. Mất cân đối trong số lượng, chồng chéo 
nội dung giữa tạp chí các ngành 
Đây là một thực trạng trên tạp chí các tạp 
chí nghiên cứu. Thực trạng này xuất phát từ hai 
nguyên nhân: Công chúng của loại hình tạp chí và 
đội ngũ chuyên gia tham gia viết bài cho tạp chí. 
Ở nguyên nhân thứ nhất, các tạp chí nghiên 
cứu là dòng tạp chí rất kén độc giả. Bởi vậy, 
tính phổ biến của dòng tạp chí này chắc chắn 
hạn chế hơn nhiều so với các dòng tạp chí khác 
như tạp chí chỉ dẫn – giải trí chẳng hạn. Công 
chúng phục vụ của các dòng tạp chí lên đến 
hàng tỷ nhưng công chúng của tạp chí nghiên 
cứu chỉ dừng lại ở đội ngũ tri thức với số lượng 
ngày càng tăng nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ rất 
khiên tốn. Trong đội ngũ trí thức là độc giả của 
các tạp chí khoa học, tỷ lệ giữa các ngành cũng 
phân bố không đồng đều, dẫn đến nhu cầu ra 
đời và phát triển của các tạp chí nghiên cứu ở 
từng chuyên ngành hẹp cũng bị lệch. 
Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là do 
đội ngũ tri thức ở Việt Nam không đồng đều 
giữa cách ngành cả về độ tuổi nghiên cứu và độ 
tuổi của ngành. Là đất nước chịu hậu quả nặng 
nề của chiến tranh, Việt Nam đi lên từ đói 
nghèo lạc hậu, bởi vậy nên các ngành khoa học 
được chú trọng phát triển tùy vào tình hình phát 
triển của đất nước theo từng giai đoạn. 
Ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng Xã 
hội chủ nghĩa, chủ trương tập trung ưu tiên các 
khoa học cơ bản đã khiến cho sự “lên ngôi” của 
các ngành khoa học cơ bản. Nhưng đến giai 
đoạn phát triển mạnh mẽ mọi mặt để tăng 
trưởng kinh tế, các ngành khoa học ứng dụng 
bắt đầu được ưu tiên phát triển. Tuy nhiên, lúc 
này, đội ngũ các nhà khoa học đã có thâm niên 
nghiên cứu và được đào tạo cơ bản - lực lượng 
chính tham gia viết bài trên các tạp chí - lại 
thuộc các ngành khoa học cơ bản. 
Sự chênh lệch này khiến cho nhiều tạp chí 
chuyên ngành ở Việt Nam ra đời nhưng không 
có đội ngũ chuyên gia đủ tầm để tham gia viết 
bài và thảo luận các nội dung nghiên cứu. 
Thực trạng này có thể thấy rõ trong số 
lượng tạp chí giữa 1 chuyên ngành khoa học cơ 
bản là Sử học và một chuyên ngành ứng dụng 
mới được phát triển là Báo chí – truyền thông. 
Hiện nay, số lượng tạp chí nghiên cứu về Sử 
học – Chính trị lên tới hàng chục. Có thể kể sơ 
qua: Tạp chí Sử học, tạp chí Nghiên cứu lịch 
sử, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch sử 
quân sự, tạp chí Dân tộc học, tạp chí Lịch sử 
Đảng, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, tap chí 
Nghiên cứu Đông Nam Á... Sự phát triển của 
các tạp chí về Sử học – Chính trị được thể hiện 
rõ trong việc phân chuyên ngành hẹp nghiên 
cứu rất sâu. 
Còn chuyên ngành Báo chí – Truyền thông 
thì ngoài một số tạp chí đăng chung về chuyên 
ngành khoa học xã hội, số lượng tạp chí nghiên 
cứu dành riêng cho chuyên ngành chỉ vỏn vẹn 2 
tạp chí (Người làm báo của Hội nhà báo Việt 
Nam và tạp chí Lý luận chính trị và Truyền 
thông của Học viện Báo chí và Truyên truyền). 
Chưa kể, trong mỗi tạp chí này thì tính thông 
tin, tuyên truyền còn lấn át tính nghiên cứu. 
Thực trạng chồng chéo nội dung giữa các 
tạp chí chuyên ngành cũng là một vấn đề cần 
xem xét trong hệ thống tạp chí nghiên cứu hiện 
nay. Thực trạng này xảy ra giữa các tạp chí 
nghiên cứu của các ban Đảng và tạp chí của các 
ngành trực thuộc các Bộ. Trên thực tế, mỗi hệ 
thống có một chức năng, nhiệm vụ chính trị rõ 
ràng: Các cơ quan Ban Đảng thực hiện việc 
giám sát, theo dõi và chỉ đạo việc thực hiện các 
chủ trương, chính sách, đường lối. Các cơ quan 
Nhà nước thực hiện việc điều hành, lãnh đạo 
trực tiếp việc thực hiện các chủ trương, chính 
sách, đường lối đã được thống nhất. 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 34 
Trong mỗi hệ thống có các cơ quan giống 
nhau nhưng khác nhau hoàn toàn về công việc. 
Tuy nhiên, trong mỗi hệ thống của các Ban 
Đảng và các cơ quan quản lý Nhà nước lại lần 
lượt xuất hiện các tạp chí nghiên cứu tương tự 
nhau. Sự trùng lặp này sẽ không có vấn đề gì 
nếu mỗi hệ thống xác định rõ nhiệm vụ của 
mình. Tuy nhiên, trên thực tế, hai hệ thống tạp 
chí này đang có sự chồng chéo nhau trong các 
nội dung nghiên cứu. Sự chồng chéo này khiến 
cho các tạp chí vốn đã yếu về tính phản biện, 
nay việc công bố các nghiên cứu mới lại bị 
trùng lặp nhau, thậm chí công bố lại các nghiên 
cứu tương tự nhau về các nội dung. 
1.6. Quy trình thẩm định tác phẩm chưa chặt chẽ 
Với hệ thống lên tới hàng trăm tạp chí 
nghiên cứu nhưng số lượng tạp chí thực hiện quy 
trình thẩm định bằng phản biện kín không nhiều. 
Một thực trạng là ở hầu hết các tạp chí, việc 
chọn lựa bài, quyết định bài đăng nằm trong tay 
Ban Biên tập và người phụ trách tạp chí, phụ 
trách trang. Điều này khiến cho việc thẩm định 
nội dung nghiên cứu bị nới lỏng, thậm chí bỏ 
qua bởi đội ngũ trong Ban Biên tập và biên tập 
viên không thể nắm hết được mọi chuyên ngnàh 
trong lĩnh vực mình. 
Hơn nữa, đội ngũ này ở một số tạp chí có 
kinh nghiệm về quản lý nhưng kiến thức 
chuyên môn lại không sâu. Bởi vậy, việc thẩm 
định chất lượng khoa học của bài viết bị thả 
lỏng, dẫn tới chất lượng khoa học của các tạp 
chí này cũng chưa được đảm bảo. 
Nghiên cứu này sẽ khảo sát một số hệ thống 
tạp chí nghiên cứu tiêu biểu để tìm hiểu về quá 
trình thẩm định bài viết của các tạp chí này. 
1.7. Dung lượng tạp chí quá mỏng, dung lượng 
bài viết ngắn và bị khống chế 
Đó là một thực trạng có thể thấy rất rõ trên 
từng số tạp chí nghiên cứu ở Việt Nam. Một tạp 
chí nghiên cứu ở nước ngoài có khi lên đến 
hàng nghìn trang. Nhưng tạp chí nghiên cứu ở 
Việt Nam ít có các tạp chí quá 100 trang. 
Không chỉ dừng lại ở trang tạp chí, dung 
lượng bài viết trên các tạp chí nghiên cứu ở 
Việt Nam cũng quá ngắn. Một bài nghiên cứu 
thuộc chuyên ngành khoa học xã hội dao động 
từ 10 – 20 trang, ở Việt Nam, con số này là 7 – 
8 trang. Thực trạng này khiến cho các bài viết 
công bố trong các tạp chí giống với các tóm tắt 
nghiên cứu hơn là các nghiên cứu được trình 
bày chi tiết, cụ thể. 
Nguyên nhân của thực trạng cũng xuất phát 
từ hai phía: Năng lực thực hiện nghiên cứu của 
người công bố nghiên cứu không đủ khả năng 
để trình bày chi tiết và cũng chưa có thói quen 
đi đến cùng của vấn đề nghiên cứu. Bởi vậy nên 
nhiều nghiên cứu chỉ vĩnh viễn dừng lại ở công 
bố kết quả bước đầu. 
Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là sự 
khống chế dung lượng chữ trong mỗi bài 
nghiên cứu. Thông thường, trong quy cách gửi 
bài do các tạp chí đặt ra đều khống chế số lượng 
trang. Số lượng này không giống nhau giữa các 
tạp chí nhưng ít có bài viết nào vượt quá số 
lượng 50 trang. Trong khi đó, có những công bố 
nghiên cứu trên tạp chí nước ngoài lên tới 100 
trang. 
Sự khống chế này bắt nguồn từ số lượng 
trang trong mỗi số tạp chí quá mỏng vì tính 
định kỳ trong nhiều tạp chí nghiên cứu ở Việt 
Nam quá dày, trong khi nhân lực thiếu, trình độ 
yếu, kinh phí in ấn và nhuận bút thấp, số lượng 
bài viết ít. Do vậy, để đảm bảo dung lượng 
trang và tạp chí ra được đúng định kỳ, các tạp 
chí khống chế số trang công bố. Sự khống chế 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 35
này ở các tạp chí nghiên cứu tại Việt Nam quá 
nghiệt ngã, khiến cho ít có công bố nào có thể 
có cơ hội đi đến cùng của nghiên cứu. 
 2. Giải pháp 
2.1. Cần một chiến lược quy hoạch tổng thể về 
tạp chí và tạp chí khoa học 
Đã đến lúc các cơ quan quản lý báo, tạp chí 
Việt Nam nghĩ tới một chiến lược quy hoạch lại 
hệ thống tạp chí khoa học. Thực trạng chồng 
chéo về nội dung, mập mờ giữa tính chất 
nghiên cứu và tính chất thông tin của các tạp 
chí khiến cho năng lực nghiên cứu và công bố 
nghiên cứu để tham gia vào quá trình tư vấn, 
phản biện và giám sát xã hội của hệ thống tạp 
chí nghiên cứu tại Việt Nam bị hạ thấp. 
Cần có một giải pháp phân luồng các dòng 
tạp chí rõ hơn bằng cách xây dựng bộ quy định 
về tiêu chí nội dung, hình thức và dung lượng... 
của các dòng tạp chí. Giải pháp này sẽ khiến 
cho các dòng tạp chí nghiên cứu đảm bảo được 
tính thống nhất và đồng đều về chất lượng 
nghiên cứu. 
Cũng cần có một giải pháp để phân luồng 
các dòng tạp chí có sự chồng chéo về nội dung 
nghiên cứu. Cần có một hệ thống tiêu chí về nội 
dung để phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và 
nội dung của các tạp chí cùng trong một hệ 
thống chiều ngang về nội dung. 
2.2. Xây dựng hệ thống cố vấn, cộng tác viên, 
các nhà khoa học... 
Đội ngũ các nhà khoa học, những người 
nghiên cứu và đang tham gia nghiên cứu, giảng 
dạy đai học tại Việt Nam khá đông đảo. Tuy 
nhiên, số lượng người viết nghiên cứu và công 
bố các nghiên cứu trên các tạp chí chuyên 
ngành lại rất hạn chế, đặc biệt là đội ngũ nghiên 
cứu trẻ. Một thống kê nhỏ tại trường Đại học 
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc 
gia Hà Nội thông qua cuốn “Danh mục các 
công trình khoa học xã hội và nhân văn” [8] từ 
năm 2006 – 2010 và kết quả là có 71/221 tác 
giả là cán bộ trẻ có nghiên cứu khoa học được 
công bố, chiếm 32% tổng số tác giả. Trong khi đó, 
theo số liệu thống kê từ phòng Tổ chức cán bộ, 
hiện tại, số cán bộ trẻ của trường ĐHKHXH&NV 
là 237/486 cán bộ, chiếm gần 49 %. 
Trừ đi những sai số thuộc về thiếu sót của 
số liệu Danh mục như có những cán bộ trẻ có 
nghiên cứu và công bố nghiên cứu mà không có 
tên trong cuốn danh mục này, cũng như có 
những cán bộ không còn trẻ có rất nhiều nghiên 
cứu và công bố nghiên cứu nhưng cũng không 
có tên trong danh mục này (tất nhiên, chúng tôi 
hiểu là số lượng cán bộ trẻ có công bố nghiên 
cứu nhưng không có tên trong Danh mục vẫn 
nhiều hơn cán bộ không còn trẻ có công bố 
nghiên cứu nhưng không có tên trong danh mục 
này), chúng ta có thể thấy ngay con số chênh 
lệch giữa tỷ lệ cán bộ trẻ - cán bộ không trẻ và 
cán bộ trẻ có công bố nghiên cứu khoa học và cán 
bộ không trẻ có công bố nghiên cứu khoa học. 
Trong Danh mục các công trình nghiên cứu 
khoa học Xã hội và Nhân văn này, phần lớn 
nghiên cứu khoa học của cán bộ trẻ được công 
bố vẫn là trên các tạp chí, các hội thảo khoa học 
trong nước. Số lượng hội thảo, tạp chí quốc tế 
(tính chung cho tạp chí và hội thảo nước ngoài 
nói chung chứ chưa tính đến tạp chí có tên 
trong danh bạ của Viện Thông tin Khoa học - 
ISI) lại nhỏ hơn nữa. Những tác giả có nghiên 
cứu khoa học công bố trong các hội thảo, tạp 
chí quốc tế lại chủ yếu là những người vừa bảo 
vệ thành công luận án tiến sĩ/thạc sĩ ở nước 
ngoài. Và trong những nghiên cứu được công 
bố trong Danh mục này, phần lớn vẫn là những 
tham luận tham gia tại các hội nghị khoa học do 
các trường đại học quốc tế tổ chức. Dường như, 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 36 
đó là yêu cầu bắt buộc phải có để họ có thể đủ 
điều kiện bảo vệ luận án của mình theo quy 
định chung. Những giảng viên trẻ có từ 3 bài 
báo/tham luận trở lên tại các hội nghị khoa học 
hay tập san quốc tế vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. 
Khảo sát các nghiên cứu của cán bộ trẻ 
trường ĐHKHXH&NV, (Đại học Quốc gia Hà 
Nội) trong cuốn Danh mục này, chúng tôi ghi 
nhận được chưa đầy 10 cán bộ trẻ có từ 10 
nghiên cứu trở lên được công bố trong nước và 
quốc tế (bao gồm bài báo khoa học, tham luận 
khoa học, đề tài nghiên cứu, sách). Đó là 
Phạm Thị Thu Giang (Đông phương học); Trần 
Bách Hiếu (Khoa học Chính trị); Nguyễn Văn 
Chiều (Khoa học Quản lý); Phạm Đức Anh, 
Đinh Thị Thùy Hiên, Đặng Hồng Sơn (Lịch 
sử); Nguyễn Thị Minh Hằng (Tâm lý học); 
Lương Thùy Liên (Triết học); Hoàng Thu 
Hương (Xã hội học) [1]. 
Các cán bộ trẻ còn lại có tên trong Danh 
mục này đều chưa có quá 10 nghiên cứu trong 
vòng 4 năm trở lại đây. Đó có thể coi là một 
con số ít ỏi trong khi các điều kiện để công bố 
nghiên cứu khoa học đối với cán bộ trẻ hiện nay 
không hề hạn chế hay khó khăn. 
Thực trạng này đặt ra một yêu cầu là cần 
phải tiếp tục xây dựng một hệ tiêu chí rõ ràng 
cho yêu cầu đối với một nhà nghiên cứu trong 
số lượng các công bố khoa học hàng năm trên 
các tạp chí chuyên ngành. Hệ tiêu chí này đi 
vào thưc tiễn sẽ góp phần xóa bỏ tình trạng có 
những giảng viên không nghiên cứu mà vẫn 
giảng dạy tại nhiều trường đại học. Đồng thời, 
giúp các tạp chí chuyên ngành có nguồn bài vở 
chất lượng hơn để chọn lọc khi đăng. 
2.3. Xây dựng chiến lược nội dung tốt 
Hiện tại, các tạp chí chuyên ngành vẫn hoạt 
động theo hình thức: Các cộng tác viên, chuyên 
gia gửi bài nghiên cứu để công bố tới tòa soạn, 
tòa soạn tập hợp và thẩm định, nếu đạt yêu cầu 
thì cho công bố. Chưa tính đến việc quy trình 
thẩm định chưa đạt yêu cầu thì việc nhận bài 
một cách thụ động như thế sẽ khiến cho nội 
dung nghiên cứu chỉ tập trung vào một mạch 
duy nhất là khung nội dung của ngành nghiên 
cứu. Như vậy, trong nội biên của mỗi chuyên 
ngành hẹp, các vấn đề nghiên cứu vẫn chỉ là 
những nghiên cứu lẻ, manh mún từ các tác giả 
chứ chưa có một hệ thống thực sự. 
Để giải quyết thực trạng này, đòi hỏi các tạp 
chí phải xây dựng cho mình những chiến lược 
nội dung theo định kỳ để các chuyên gia nắm 
được giới hạn nghiên cứu cũng như tòa soạn có 
kế hoạch đặt bài vở cho các chuyên gia uy tín 
trong từng lĩnh vực. 
Hiện nay, đội ngũ chuyên gia có chuyên 
môn sâu trong từng lĩnh vực tập trung chủ yếu 
tại các viện nghiên cứu, các trường đại học. Một 
thực trạng là, ngoài các tạp chí nghiên cứu hiện có 
tại các trường, các viện, các tạp chí nghiên cứu 
theo ngành dọc gần như chưa có một sự liên kết 
nào với các đơn vị nói trên để có những kế hoạch 
xây dựng các nội dung nghiên cứu hay các kết 
hoạch dài hạn trong nội dung nghiên cứu. 
Thực trạng này khiến cho nội dung cần 
công bố thì vẫn thiếu, trong khi chiến lược 
nghiên cứu, trọng tâm nghiên cứu không được 
xây dựng mà tại các viện, các trường, nội dung 
nghiên cứu vẫn không được công bố. 
Bởi vậy, cần xúc tiến ngay sự liên kết này 
để giải quyết nhiều vấn đề tồn tại tại các tạp chí 
chuyên ngành. 
2.4. Xây dựng đội ngũ biên tập, tổ chức tòa 
soạn chuyên nghiệp 
Đội ngũ tham gia biên tập, tổ chức tòa soạn 
tại các tạp chí nghiên cứu hiện nay chưa được 
đào tạo bài bản về cả nghiệp vụ chuyên môn 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 37
sâu của ngành nghiên cứu lẫn nghiệp vụ tổ chức 
xây dựng tòa soạn tạp chí. 
Hiện nay, đội ngũ này vẫn rơi vào một 
trong hai trường hợp: Các chuyên gia có chuyên 
môn về lĩnh vực chuyên ngành hẹp lại thiếu 
kiến thức, chuyên môn về xây dựng tạp chí và 
tổ chức hoạt động tòa soạn tạp chí. Ngược lại, 
những người được đào tạo bài bản và có kỹ 
năng tổ chức hoạt động và xây dựng tòa soạn 
tạp chí lại không đáp ứng được yêu cầu về 
chuyên môn theo lĩnh vực hẹp. 
Bởi vậy, cần có một giải pháp tổng thể về 
nhân lực cho các tòa soạn tạp chí nghiên cứu 
chuyên ngành. Phương án được đề xuất là tổ 
chức các khóa bồi dưỡng về tổ chức và hoạt động 
tòa soạn cũng như tổ chức và xây dựng tạp chí 
cho đội ngũ có chuyên môn sâu tại các tạp chí. 
2.6. Xây dựng chuyên ngành tổ chức và xây 
dựng tạp chí 
Việt Nam hiện có hơn 9 cơ sở đào tạo về 
báo chí truyền thông chính thống (Học viện 
Báo chí Tuyền truyền, Đại học KHXH&NV Hà 
Nội, Đại học KHXH&NV TPHCM, Đại học 
Khoa học Huế, Đại học Văn hóa Nghệ thuật 
Quân đội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Vinh, 
Đại học Đà Nẵng, Đại học Văn hóa Hà Nội...). 
Trong 9 cơ sở đào tạo này, Học viện Báo chí 
tuyên truyền chọn hình thức đào tạo theo 
chuyên ngành hẹp. Tuy nhiên, sự phân chia này 
chỉ theo loại hình báo chí. Do vậy, mảng đào 
tạo chuyên sâu về Tổ chức xây dựng tạp chí 
chưa có đơn vị nào chú trọng. 
Tại Khoa Báo chí và Truyền thông, trường 
ĐHKHXH&NV Hà Nội có tổ chức giảng dạy 
môn học “Tổ chức và xây dựng tạp chí” cho tất 
cả các hệ đào tạo đại học của khoa. Tuy nhiên, 
nội dung này cũng chỉ dừng lại ở mức độ một 
chuyên đề với 2 tín chỉ học, chưa giải quyết được 
những đòi hỏi về đặc thù và kỹ năng mà một 
người tổ chức xây dựng tạp chí cần trang bị. 
Một giải pháp được nhóm nghiên cứu đề 
xuất là: Xây dựng một khung chương trình đào 
tạo chuyên ngành Tổ chức xây dựng tạp chí (có 
thể trên cơ sở nâng cấp từ môn học “Tổ chức và 
Xây dựng tạp chí” tại trường ĐHKHXH&NV 
Hà Nội) thành một ngành học độc lập, cung cấp 
nhân lực chuyên nghiệp cho các tạp chí nói 
chung và các tạp chí nghiên cứu nói riêng. 
Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phải có 
một dự án đầu tư và xây dựng đội ngũ nhân lực 
giảng dạy cũng như nguồn tuyển sinh. Đầu ra 
của chuyên ngành này sẽ bổ sung tích cực vào 
những nhược điểm mà hệ thống tạp chí nói 
chung và hệ thống tạp chí khoa học tại Việt 
Nam nói riêng đang có. 
3. Kết luận 
Mặc dù đóng vai trò vô cùng quan trọng 
trong việc phát triển sự nghiệp khoa học công 
nghệ cũng như tham gia vào quá trình phản 
biện, giám sát xã hội bằng khoa học, nhưng 
dưới góc độ tiếp cận của báo chí học, các tạp 
chí khoa học ở Việt Nam về cơ bản vẫn đang 
thiếu và chưa đạt chuẩn về chất lượng. Hiện 
nay, hệ thống tiêu chuẩn đánh giá ISI và Scopus 
là hệ thống tiêu chuẩn phổ biến và được công 
nhận trên toàn thế giới. Tuy nhiên, sau rất nhiều 
năm cố gắng, năm 2014, hệ thống tạp chí khoa 
học ở Việt Nam mới có 2 tạp chí được cấp chỉ 
số Scopus là tạp chí Nghiên cứu Nano và tạp 
chí Toán học. 
Để hướng tới một mục tiêu tiêu chuẩn quốc 
tế, hệ thống tạp chí khoa học Việt Nam cần phải 
thay đổi nhiều vấn đề cả về nội dung, hình thức, 
chất lượng, quy mô và quy trình thực hiện. 
Những tham góp của bài viết này, tuy chưa hẳn 
P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 38 
là toàn diện nhưng sẽ là một góc nhìn nên được 
các tạp chí khoa học chú ý. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế năm 2012 
[2] Tạp chí Kinh tế và dự báo năm 2014 
[3] Tạp chí Thông tin tài chính năm 2010 
[4] Tạp chí Tạp chí Cộng sản năm 2012 
[5] Tạp chí Lý luận Chính trị năm 2010 
[6] Tạp chí Khoa giáo năm 2008 
[7] Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới năm 2009 và 
2014 
[8] Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN (2010), Danh 
mục các công trình khoa học xã hội và nhân văn, 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 
Problems of Scientific and Social Criticism in Vietnamese 
Scientific Journals Today 
Phan Văn Kiền 
Faculty of Journalism and Communication, VNU University of Social Sciences and Humanities, 
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: The system of science journals in Vietnam is quite abundant in terms of quantity, 
contents and frequency. However, behind this seemingly strong development, this system still exposes 
many problems which requires comprehensive solutions. Begining with a systematic and critical 
overview of the system, this paper studies in particular some cases to point out its actual situation, then 
proposes a potential solutions to change and develop of the Vietnamese scientific journals. In this 
paper, the problems are approached from the viewpoint of journalism studies. 
Keywords: Journal publishing, magazine publishing, actual situation of the Vietnamese journals, 
journal of science. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_cua_cac_tap_chi_khoa_hoc_viet_nam_tham_gia_pha.pdf