Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam

Sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và sở hữu công nghiệp (SHCN) nói riêng là một công cụ

đắc lực để phát triển kinh tế-xã hội. Độc quyền là nội dung mấu chốt của pháp luật bảo hộ

SHCN, nó tạo lợi thế cạnh tranh to lớn, đồng thời khuyến khích thúc đẩy các chủ thể trong

xã hội không ngừng sáng tạo ra các đối tượng SHCN mới để được bảo hộ độc quyền. Tuy

nhiên, thời hạn thẩm định đơn yêu cầu xác lập quyền SHCN ở Việt Nam hiện nay kéo dài,

chất lượng đơn thấp làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Phần

đầu tiên đề cập đến vai trò của xác lập quyền SHCN trong phát triển kinh tế-xã hội. Phần

tiếp theo phân tích và nêu một số tồn tại của hoạt động xác lập quyền SHCN và nguyên

nhân tác động; xu hướng phát triển hoạt động xác lập quyền SHCN trên thế giới. Phần

cuối là một số giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao hoạt động xác lập quyền SHCN ở

Việt Nam. Bài viết này là kết quả nghiên cứu của tác giả thông qua phân tích tài liệu, các

cuộc phỏng vấn sâu các chuyên gia làm việc tại cơ quan chuyên môn, quản lý và doanh

nghiệp. Phạm vi đơn SHCN được đề cập trong bài viết này là đơn nhãn hiệu quốc gia

(NHQG), sáng chế, giải pháp hữu ích (GPHI), kiểu dáng công nghiệp (KDCN).

pdf 14 trang kimcuc 3500
Bạn đang xem tài liệu "Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam

Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
64 
MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 
TRONG XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 
Khổng Quốc Minh1 
Cục Sở hữu trí tuệ 
Tóm tắt: 
Sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và sở hữu công nghiệp (SHCN) nói riêng là một công cụ 
đắc lực để phát triển kinh tế-xã hội. Độc quyền là nội dung mấu chốt của pháp luật bảo hộ 
SHCN, nó tạo lợi thế cạnh tranh to lớn, đồng thời khuyến khích thúc đẩy các chủ thể trong 
xã hội không ngừng sáng tạo ra các đối tượng SHCN mới để được bảo hộ độc quyền. Tuy 
nhiên, thời hạn thẩm định đơn yêu cầu xác lập quyền SHCN ở Việt Nam hiện nay kéo dài, 
chất lượng đơn thấp làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Phần 
đầu tiên đề cập đến vai trò của xác lập quyền SHCN trong phát triển kinh tế-xã hội. Phần 
tiếp theo phân tích và nêu một số tồn tại của hoạt động xác lập quyền SHCN và nguyên 
nhân tác động; xu hướng phát triển hoạt động xác lập quyền SHCN trên thế giới. Phần 
cuối là một số giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao hoạt động xác lập quyền SHCN ở 
Việt Nam. Bài viết này là kết quả nghiên cứu của tác giả thông qua phân tích tài liệu, các 
cuộc phỏng vấn sâu các chuyên gia làm việc tại cơ quan chuyên môn, quản lý và doanh 
nghiệp. Phạm vi đơn SHCN được đề cập trong bài viết này là đơn nhãn hiệu quốc gia 
(NHQG), sáng chế, giải pháp hữu ích (GPHI), kiểu dáng công nghiệp (KDCN). 
Từ khóa: Sở hữu trí tuệ; Sở hữu công nghiệp; Xác lập quyền Sở hữu công nghiệp. 
Mã số: 18051401 
1. Vai trò của xác lập quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh 
tế-xã hội 
Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, KDCN, thiết 
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, 
bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh 
tranh không lành mạnh (Điều 4.4, Luật Sở hữu trí tuệ). Theo nghĩa rộng, 
quyền SHCN là các quyền hợp pháp đối với sáng chế, KDCN, thiết kế bố 
trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật 
kinh doanh. Theo nghĩa hẹp, quyền SHCN là một dạng độc quyền được xác 
lập thông qua yêu cầu của chủ thể nhất định, được thực hiện bởi Cục Sở 
hữu trí tuệ và dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật về SHCN 
như các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn quyền SHCN, 
1 Liên hệ tác giả: minhtrm.noip@gmail.com 
 65 
thời hạn bảo hộ quyền SHCN, quá trình xác lập này được gọi là xác lập 
quyền SHCN. 
Xác lập quyền SHCN bao gồm các hoạt động như: tiếp nhận yêu cầu (nhận 
đơn SHCN); thẩm định hình thức (TĐHT); công bố trên công báo SHCN; 
thẩm định nội dung (TĐND); cấp văn bằng bảo hộ (VBBH); đăng bạ 
SHCN; và xử lý các thủ tục khác liên quan đến đơn SHCN, như sửa đổi 
đơn, chuyển giao đơn, phản đối đơn, khiếu nại liên quan đến đơn. 
Xác lập quyền là một nội dung quản lý nhà nước về SHCN. Việc xác lập 
quyền SHCN có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội nói 
chung và đặc biệt đối với doanh nghiệp nói riêng, cụ thể: 
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho chủ thể quyền trong việc sử dụng, khai 
thác, mua bán các đối tượng SHCN đã được bảo hộ, đảm bảo môi trường 
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công bằng, bảo vệ quyền lợi nhà đầu 
tư, nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ, người tiêu dùng. 
Thứ hai, tạo lợi thế cạnh tranh cho các chủ thể quyền (nhất là sáng chế), 
đồng thời thúc đẩy không ngừng việc tạo lợi thế cạnh tranh mới cho chính 
các chủ thể quyền và cho các đối thủ cạnh tranh khác. Độc quyền SHCN 
nhằm khuyến khích phát triển kinh tế thông qua thúc đẩy cạnh tranh về 
công nghệ và kinh doanh (Kamil Idris, 2003; Hisamitsu Azai, 1999). 
Thứ ba, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo (nhất là sáng chế), thúc 
đẩy bản thân chủ thể quyền, các cá nhân, tổ chức liên quan trong xã hội 
không ngừng sáng tạo ra các đối tượng SHCN mới để được bảo hộ độc 
quyền, qua đó thúc đẩy tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới, ngành công 
nghiệp mới có triển vọng về lợi ích kinh tế, điều này hình thành chu trình 
sáng tạo SHCN (Shahid Alikhan, 2000). Đối với người nắm giữ quyền 
SHCN (nhất là sáng chế), họ tạo ra lợi thế cạnh tranh và luôn chạy đua để 
cải tiến sáng chế và tạo ra sáng chế mới, họ thu được lợi nhuận từ sáng chế 
ban đầu. Do đó, tồn tại một chu trình từ một sáng chế ban đầu, đến một 
sáng chế được cải tiến hoặc sáng chế mới, các sáng chế sau lại là cơ sở cho 
sự cải tiến tiếp theo. Đối với đối thủ cạnh tranh, họ sẽ tìm cách tạo ra những 
sáng chế mới khác với các yêu cầu bảo hộ sáng chế đã biết của người khác. 
Sự cạnh tranh này tạo ra những cách thức mới thường có hiệu quả hơn hoặc 
thuận lợi hơn để sản xuất những sản phẩm tương tự hoặc tính năng, công 
dụng tương tự (Hisamitsu Azai, 1999). 
Thứ tư, thúc đẩy các hoạt động thương mại (nhất là nhãn hiệu), khuyến 
khích doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển, cung cấp hàng hóa, dịch vụ 
với chất lượng mà người tiêu dùng mong muốn nhằm duy trì hoặc tăng sự 
lựa chọn của người tiêu dùng. Doanh nghiệp không ngừng ĐMST nhằm 
nâng cao năng suất, chất lượng, tính năng, sự hấp dẫn của hàng hóa để uy 
66 
tín của sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng cao. Để cạnh tranh, các nhà sản 
xuất, cung ứng dịch vụ khác cũng phải đổi mới sáng tạo, tạo ra các hàng 
hóa cùng loại, hoặc thay thế với sự thỏa mãn cao hơn cho người tiêu dùng 
(Wiliam M Lander & Richard A. Posner, 1988). 
Thứ năm, thúc đẩy việc tiêu dùng các sản phẩm tại một vùng địa lý cụ thể 
(nhất là chỉ dẫn địa lý), đó là các sản phẩm với những tính năng nhất định 
(chất lượng, danh tiếng hoặc những đặc tính khác của sản phẩm) mà chỉ ở 
vùng địa lý đó mới có. Do đó, có thể dùng chỉ dẫn địa lý để thúc đẩy phát 
triển kinh tế-xã hội của vùng miền và quốc gia thông qua việc sử dụng chỉ 
dẫn địa lý ở quy mô chiến lược để xúc tiến sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ra 
nước ngoài (Kamil Idris, 2003). 
Thứ sáu, phát huy tối ưu lợi thế của quá trình kinh doanh thông qua việc tạo 
điều kiện cho chuyển giao công nghệ và thu hút đầu tư trực tiếp nước 
ngoài; kích thích nghiên cứu và triển khai tại các trường đại học, cơ sở 
nghiên cứu; xúc tác cho công nghệ mới, và kinh doanh mới; hỗ trợ cách 
thức doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tích lũy TSTT 
và tham gia giao dịch, thương mại hóa trên cơ sở các đối tượng quyền 
SHCN đó (Kamil Idris, 2003). 
Mặc dù việc xác lập quyền SHCN có vai trò quan trọng như phân tích ở 
trên, nhưng nó chỉ được thể hiện tốt nhất khi hoạt động xác lập quyền 
SHCN được thực hiện một cách có hiệu quả. Chính vì vậy, hoạt động xác 
lập quyền SHCN cần được thường xuyên rà soát, phát hiện những tồn tại và 
làm rõ nguyên nhân để đề ra những giải pháp khắc phục; cũng như xác định 
những thách thức đặt ra trong bối cảnh mới của hội nhập quốc tế để ứng 
phó, là yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về SHCN. 
2. Một số tồn tại trong hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở 
Việt Nam hiện nay 
Năm 2005, Luật SHTT được ban hành và có hiệu lực từ năm 2006, nhờ đó 
công tác quản lý SHTT đã được tăng cường. Các văn bản hướng dẫn thi 
hành Luật cũng như việc tổ chức các hoạt động SHTT nói chung, quản lý 
SHCN nói riêng từng bước được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy các hoạt 
động SHTT, trong đó có công tác xác lập quyền SHCN. Sau 10 năm thi 
hành Luật SHTT, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nhu 
cầu về bảo hộ SHCN cũng không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng bình 
quân hàng năm của đơn NHQG, sáng chế, GPHI và KDCN tương ứng là: 
8,02%, 9,31%, 5,49% và 6,61%; Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 
của VBBH đối với NHQG, sáng chế, GPHI, KDCN lần lượt là: 9,01%, 
8,73%, 7,31%, 12,16% (Bảng 1): 
 67 
Bảng 1. Đối tượng sở hữu công nghiệp giai đoạn 2006-2017 
 NHQG Sáng chế GPHI KDCN 
Số lượng đơn SHCN và VBBH: 
- Đơn SHCN 380.645 46.603 3.963 25.166 
- VBBH 224.738 12.783 1.101 16.636 
Tăng trưởng bình quân hàng năm (%): 
- Đơn SHCN 8,02 9,31 5,49 6,61 
- VBBH 9,01 8,73 7,31 12,16 
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016;và 
tổng hợp, tính toán của tác giả 
Theo quy định tại Điều 119 Luật SHTT, trong trường hợp không phát sinh 
các thủ tục khác liên quan đến đơn, thời hạn có kết quả TĐND lần đầu đối 
với nhãn hiệu không quá 09 tháng, kể từ ngày công bố đơn; đối với KDCN 
không quá 07 tháng, kể từ ngày công bố đơn; đối với sáng chế, GPHI 
không quá 18 tháng, kể từ ngày công bố đơn nếu yêu cầu TĐND được nộp 
trước ngày công bố đơn hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu TĐND nếu yêu 
cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn. Bảng 2 cho thấy, tổng lượng đơn 
NHQG, sáng chế, GPHI, KDCN chưa kết thúc TĐND tích lũy hàng năm 
(đơn SHCN chưa kết thúc TĐND, bao gồm đơn đang được TĐND dở dang, 
đơn đến thời hạn nhưng chưa được TĐND và đơn chưa đến thời hạn 
TĐND) tăng lên. Tính đến hết năm 2017, đơn NHQG, sáng chế, GPHI, 
KDCN chưa kết thúc TĐND lần lượt là 93.591 - 22.815 - 917 - 2.924 đơn. 
Từ so sánh đơn SHCN chưa kết thúc TĐND với đơn SHCN đã kết thúc 
TĐND cho thấy với giả định số lượng đơn SHCN đã kết thúc TĐND hàng 
năm (sau năm 2017) bằng năm 2017 và các điều kiện khác không thay đổi 
thì để TĐND xong các đơn SHCN chưa kết thúc TĐND đối với NHQG cần 
3,48 năm, sáng chế cần 6,63 năm, GPHI cần 2,38 năm, KDCN cần 1,11 
năm. Nói theo cách khác, đối với đơn SHCN nộp sau năm 2017, thời gian 
chờ đợi từ khi đơn SHCN được tiếp nhận cho đến khi đơn SHCN đó được 
TĐND đối với NHQG là 3,48 năm, sáng chế là 6,63 năm, GPHI là 2,38 
năm, KDCN là 1,11 năm. Thời hạn này có xu hướng kéo dài khi mà số 
lượng đơn SHCN được nộp mới hàng năm đang tăng lên. Số lượng đơn 
SHCN chưa kết thúc TĐND có xu hướng ngày càng tăng trong nhiều năm, 
nếu không làm rõ các nguyên nhân và có giải pháp hữu hiệu, quyết liệt thì 
tình trạng này sẽ ngày càng trầm trọng, khó giải quyết. 
68 
Bảng 2: Tình trạng thẩm định đơn nội dung hàng năm 
Năm 
Sáng chế GPHI KDCN NHQG 
Đơn 
đã 
kết 
thúc 
TĐND 
Đơn 
chưa 
kết 
thúc 
TĐND
Tỷ lệ 
đơn 
giữa 
2 cột 
(2)/
(1) 
(lần)
Đơn đã 
kết 
thúc
 TĐND 
Đơn 
chưa 
kết 
thúc 
TĐ 
ND 
Tỷ lệ 
đơn 
giữa 2 
cột 
(5)/(4)
(lần)
Đơn 
đã 
kết 
thúc 
TĐND
Đơn 
chưa 
kết 
thúc 
TĐND
Tỷ lệ
đơn 
giữa 2
cột 
(8)/(7)
(lần)
Đơn đã 
kết 
thúc 
TĐND 
Đơn 
chưa 
kết 
thúc 
TĐND 
Tỷ lệ 
đơn 
giữa 2 
cột 
(11)/ 
(10) 
(lần) 
 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) 
Trước 
2006 
2.337 251 1014 21255 
2006 934 3.542 3,79 102 348 3,41 1.581 984 0,62 10.560 41.236 3,90 
2007 952 4.946 5,20 132 394 2,98 1.429 1.278 0,89 18.951 47.725 2,52 
2008 961 6.786 7,06 121 485 4,01 1.861 1.098 0,59 30.075 46.141 1,53 
2009 1.286 8.339 6,48 108 566 5,24 1.467 1.367 0,93 29.368 45.036 1,53 
2010 1.295 10.177 7,86 94 664 7,06 1.461 1.488 1,02 23.311 48.825 2,09 
2011 1.795 12.088 6,73 157 763 4,86 1.493 1.737 1,16 30.460 46.663 1,53 
2012 2.098 14.003 6,67 203 787 3,88 1.544 1.997 1,29 29.363 46.049 1,57 
2013 2.495 15.495 6,21 252 777 3,08 1.715 2.317 1,35 26.849 49.155 1,83 
2014 2.867 16.860 5,88 224 817 3,65 2.185 2.313 1,06 27.801 53.273 1,92 
2015 2.588 19.172 7,41 243 904 3,72 1.620 2.672 1,65 25.561 63.894 2,50 
2016 3.209 21.016 6,55 320 988 3,09 2.288 2.986 1,31 26.821 77.140 2,88 
2017 3.440 22.815 6,63 385 917 2,38 2.646 2.924 1,11 26.882 93.591 3,48 
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016;và 
tổng hợp, tính toán của tác giả 
Một tồn tại cơ bản khác, đó là tình trạng chất lượng đơn còn thấp, chưa đáp 
ứng được yêu cầu. Bảng 3 cho thấy chất lượng đơn SHCN, bao gồm cả chất 
lượng hình thức đơn2 và chất lượng nội dung đơn3 còn thấp: so với đơn yêu 
cầu đăng ký, tỷ lệ đơn có thông báo thiếu sót cao, nhất là đơn KDCN 
(50,19%), GPHI (40,83%), sáng chế (42,83%); tỷ lệ đơn dự định từ chối 
bảo hộ cũng cao, nhất là đơn sáng chế (67,19%); tỷ lệ văn bằng được cấp 
thấp, nhất là đơn sáng chế (27,43%), đơn GPHI (27,78%). 
2 Chất lượng hình thức đơn là mức độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu về hình thức đơn theo quy định của pháp luật. 
3 Chất lượng nội dung đơn là mức độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu về điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật. 
 69 
Bảng 3. Đánh giá chất lượng đơn SHCN theo tiến trình thẩm định giai đoạn 
2006-2017 
Đối tượng NHQG 
Sáng 
chế 
GPHI KDCN 
A. Tỉ lệ đơn thẩm định hình thức so với đơn yêu cầu đăng ký (%): 
- Tỉ lệ đơn bị từ chối về hình thức 1,03 2,64 10,14 4,42 
- Tỉ lệ đơn có thông báo thiếu sót 14,84 40,76 40,83 50,19 
B. Tỉ lệ đơn thẩm định nội dung đơn so với đơn yêu cầu đăng ký (%): 
- Tỉ lệ đơn có quyết định từ chối 16,73 13,11 23,32 13,85 
- Tỉ lệ đơn dự định từ chối 23,08 67,19 42,32 22,65 
C. Tỉ lệ văn bằng bảo hộ (%): 
- So với đơn yêu cầu đăng ký 59,04 27,43 27,78 66,11 
- So với đơn đã kết thúc TĐND 73,44 53,44 47,03 78,14 
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016; và 
tổng hợp, tính toán của tác giả 
Để làm rõ nguyên nhân của các tồn tại trên, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 
sâu, trao đổi với các cán bộ trực tiếp làm việc tại các đơn vị chức năng 
thuộc Cục SHTT, các chuyên gia bên ngoài Cục và các doanh nghiệp. Tổng 
hợp và phân tích các ý kiến phỏng vấn cho thấy có một số nguyên nhân chủ 
yếu sau đây: 
2.1. Nguyên nhân tác động tới việc đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích 
lũy hàng năm tăng lên, dẫn đến đơn SHCN không được TĐND đúng thời 
hạn 
Có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích 
lũy hàng năm tăng lên, đó là những nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân 
gián tiếp. Dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu: 
(i) Quy chế thẩm định đơn SHCN chưa được cập nhật, sửa đổi, bổ sung các 
tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định để phù hợp với yêu cầu mới của thực 
tiễn: 
Cục SHTT đã ban hành các quy chế thẩm định đơn SHCN nhằm mục đích 
sử dụng nội bộ cho các thẩm định viên (TĐV), như: Quy chế thẩm định đơn 
KDCN (ban hành theo Quyết định số 2381/QĐ-SHTT ngày 08/12/2009), 
Quy chế thẩm định đơn sáng chế (ban hành theo Quyết định số 487/QĐ-
SHTT ngày 31/03/2010), Quy chế thẩm định đơn nhãn hiệu (ban hành theo 
Quyết định số 709/QĐ-SHTT ngày 29/04/2010). Tuy nhiên, các quy chế 
này mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn chung về nghiệp vụ thẩm định mà 
70 
chưa đi sâu vào việc hướng dẫn thẩm định các trường hợp cụ thể hoặc điển 
hình hoặc ngoại lệ. Các quy chế này cũng không được cập nhật sửa đổi, bổ 
sung các tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định đang được áp dụng. Việc quy 
chế thẩm định đơn SHCN chưa hoàn thiện đã làm cho các TĐV khó khăn 
trong việc áp dụng, vận dụng, đồng thời gây ra sự không thống nhất trong 
thẩm định, dẫn đến kéo dài thời gian trong quy trình thẩm định. 
(ii) Đối với đơn NHQG, hệ thống phân loại hàng hóa và dịch vụ dùng để 
đăng ký nhãn hiệu chưa được hoàn thiện, gây khó khăn và thiếu chuẩn xác 
trong TĐHT đơn nhãn hiệu, làm tăng thời gian TĐHT đơn nhãn hiệu. Qua 
đó, gián tiếp làm giảm thời gian của TĐV dành cho việc TĐND đơn: Việt 
Nam áp dụng và cập nhật hàng năm bảng phân loại quốc tế về hàng hóa, 
dịch vụ (phân loại Ni-xơ). Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam chưa xây dựng 
bảng phân loại cho hàng hóa, dịch vụ đặc thù tại Việt Nam, nghĩa là chưa 
có bảng danh mục hàng hóa, dịch vụ Ni-xơ mở rộng bao gồm danh mục 
hàng hóa, dịch vụ theo phân loại Ni-xơ và danh mục theo đặc thù của Việt 
Nam.  ... tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN nên chất lượng nội dung đơn 
SHCN còn nhiều hạn chế. 
3. Xu hướng phát triển hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp 
trên thế giới 
Để có thể đề xuất giải pháp khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập 
quyền SHCN một cách hữu hiệu, ngoài việc làm rõ những tồn tại và nguyên 
nhân trong hoạt động SHCN, cần phân tích được các xu thế quốc tế tác 
động đến hoạt động này của Việt Nam. 
Với sự phát triển bùng nổ và nhanh chóng của KH&CN, như: Sự ra đời các 
hệ thống vật lý trong không gian ảo; mạng lưới internet kết nối vạn vật 
(IoT); internet kết nối dịch vụ (IoS); cùng với sự tích hợp của các công 
nghệ này và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, và 
sinh học đã tạo ra một bước ngoặt lớn cho nhân loại và thế giới đang bước 
vào cuộc cách mạng công nghiệp lần tư với những đột phá mới về 
KH&CN. Nhiều phát hiện mới được công bố, nhiều sản phẩm mới được ra 
đời, dẫn đến xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới như internet kết nối 
vạn vật, phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ thần kinh, vệ 
 73 
tinh nano/micro, vật liệu nano, chế tạo đắp dần (in 3D), sinh học tổng hợp, 
công nghệ Blockchain. Do đó, các nguyên tắc bảo hộ cho các đối tượng 
mới được tạo lập hoặc điều chỉnh và linh hoạt (OECD, 2016; Roland 
Berger, 2014; Klaus Schwab, 2016). 
Hoạt động xác lập quyền SHCN có xu hướng ngày càng nhanh chóng và 
hiệu quả hơn (Lester C. Thurow, 1997). Thủ tục nộp đơn SHCN ngày càng 
linh hoạt và ít tốn kém, nhất là ở cấp độ quốc tế (OECD, 2004). Hệ thống 
nộp đơn điện tử đang được áp dụng và thay thế hệ thống cũ; xu hướng ứng 
dụng mạng lưới internet kết nối vạn vật, internet kết nối dịch vụ trong quản 
trị SHCN ngày càng tăng, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong tra cứu, thẩm định 
đơn SHCN cũng đang được nghiên cứu áp dụng. Đặc biệt, xu hướng hợp 
tác giữa các cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia trong việc chia sẻ thông tin kết 
quả tra cứu và thẩm định sáng chế nhằm hài hòa hệ thống thẩm định đơn 
sáng chế, rút ngắn thời gian và tăng hiệu quả thẩm định (OECD, 2004; The 
Patent Cooperation Treaty, 2009, 2010). 
Xác lập quyền SHCN ngày càng trở nên toàn cầu hóa với các tiêu chuẩn 
thống nhất, với mức độ bảo vệ cao hơn (National Research Council, 1993). 
Các nước phát triển tin tưởng rằng họ có lợi ích về mặt kinh tế từ các quyền 
SHCN và thông qua các hiệp định thương mại tự do, các nước phát triển 
luôn gây sức ép, áp lực cho các nước đang phát triển nhằm tăng cường 
quyền SHCN, buộc các nước đang phát triển phải có khả năng xác lập 
quyền SHCN cho tất cả các đối tượng SHCN với tiêu chuẩn cao, nhanh 
chóng và hiệu quả (Barton, J. H. et all, 2007). 
Những phân tích trên đây cho thấy những tác động của các xu thế lớn trên 
thế giới đang đặt ra những thách thức mới đối với các nước đang phát triển 
như Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải 
có những thích ứng linh hoạt và hiệu quả trong quản lý SHTT nói chung 
cũng như SHCN nói riêng. 
4. Một số giải pháp khắc phục tồn tại hoạt động xác lập quyền sở hữu 
công nghiệp ở Việt Nam 
Từ những phân tích về tồn tại, làm rõ những nguyên nhân và tác động của 
các xu thế lớn trên thế giới đến hoạt động SHCN, tác giả đề xuất một số 
giải pháp nhằm khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập quyền SHCN 
ở Việt Nam như sau: 
Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến xác lập quyền 
SHCN trên nguyên tắc xác lập quyền SHCN theo yêu cầu của xã hội. Do 
đó, cần sửa đổi, bổ sung các các tiêu chuẩn bảo hộ mới cho các đối tượng 
quyền SHCN đang có; bổ sung các đối tượng mới được xem xét bảo hộ 
dưới dạng quyền SHCN (nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi, cách thức sử 
dụng nhãn hiệu mới) cùng tiêu chuẩn bảo hộ tương ứng (điều kiện bảo hộ, 
nội dung và giới hạn quyền SHCN, thời hạn bảo hộ tương ứng). 
74 
Thứ hai, sửa đổi và ban hành quy chế thẩm định đơn SHCN: hoàn thiện lại 
quy chế thẩm định đơn nhãn hiệu, sáng chế, KDCN, CDĐL theo các tiêu 
chuẩn và điều kiện thẩm định đang được áp dụng, sao cho các quy chế này 
được sử dụng như một cẩm nang thẩm định, một công cụ đào tạo thiết thực 
cho các TĐV, tạo sự thống nhất trong thẩm định và như một tài liệu tham 
khảo cho các chuyên gia tư vấn SHCN và các đại diện SHCN. Các quy chế 
này không chỉ hướng dẫn chung về nghiệp vụ thẩm định mà còn đi sâu vào 
việc hướng dẫn thẩm định các trường hợp cụ thể hoặc điển hình. Các quy 
chế này cần được thường xuyên rà soát để cập nhật sửa đổi, bổ sung các 
tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định, và bổ sung các trường hợp điển hình 
mới đang được áp dụng. 
Thứ ba, hoàn thiện và ban hành bảng phân loại sản phẩm, dịch vụ dùng để 
đăng ký nhãn hiệu: bảng phân loại sản phẩm, dịch vụ này cần được xây 
dựng, hoàn thiện theo nguyên tắc lấy bảng phân loại Ni-xơ làm cơ sở và bổ 
sung các sản phẩm, dịch vụ đặc thù của Việt Nam. Cục SHTT cần định kì 
cập nhật danh mục mới phát sinh và công bố rộng rãi trên hệ thống thông 
tin SHCN, đồng thời ban hành quy định về việc sử dụng danh mục sản 
phẩm/dịch vụ theo tên/ mã đã được công bố. Đây cũng là cơ sở để việc nộp 
đơn điện tử được thuận lợi dựa trên việc mã hóa các danh mục chuẩn đã 
công bố (người nộp đơn chỉ việc chọn các mã có sản phẩm, dịch vụ tương 
ứng). 
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: một mặt, hỗ trợ hoàn 
thiện quy trình thẩm định, rút ngắn thời gian xử lý đơn, tạo điều kiện để xã 
hội tiếp cận được thông tin SHTT; đồng thời nâng cao năng lực hội nhập và 
hợp tác quốc tế về SHTT. Để ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả cần 
chú trọng: phát triển cơ sở dữ liệu SHCN; thiết lập, duy trì, cập nhật mạng 
thông tin quốc gia về SHCN; xây dựng công cụ tra cứu SHCN đáp ứng nhu 
cầu tra cứu cơ bản của công chúng, đặc biệt phát triển các công cụ tra cứu 
chuyên sâu về thông tin SHCN nhằm đáp ứng nhu cầu phức tạp về thẩm 
định đơn, nghiên cứu triển khai và khai thác tài sản trí tuệ; Ứng dụng công 
nghệ thông tin nhằm quản trị, xây dựng cổng thông tin điện tử về SHCN và 
phục vụ thu thập thông tin SHCN. Cục SHTT cần sớm hoàn thiện công cụ 
IPAS về phần mềm, phần cứng, quản trị vận hành hệ thống sao cho tất cả 
các quá trình xác lập quyền SHCN và liên quan đều được quản lý và thẩm 
định mặc định trên hệ thống. Công cụ IPAS mới này cần được phân quyền 
theo từng cấp độ quản lý; tiến trình thẩm định phải được truy cập công 
khai; phát triển hệ thống quản trị việc nộp đơn điện tử trực tuyến (việc nộp 
đơn, thanh toán phí/lệ phí SHCN, trả kết quả và tiếp nhận công văn, tình 
trạng đơn SHCN hay tiến trình thẩm định đơn SHCN đều được thực hiện 
trực tuyến và công khai). Xây dựng chương trình tra cứu riêng phục vụ việc 
thu nhập thông tin SHCN, giúp nâng cao hoạt động thống kê, công bố, cung 
cấp các thông tin thống kê SHCN chất lượng. 
 75 
Thứ năm, chủ động tham gia các cơ chế quốc tế về chia sẻ thông tin và 
công nhận lẫn nhau: nghiên cứu để tham gia hợp tác quốc tế song phương 
và đa phương (khu vực và quốc tế) như: các chương trình chia sẻ kết quả tra 
cứu và thẩm định sáng chế như chương trình hợp tác thẩm định đơn sáng 
chế Asean (ASPEC), Công cụ tra cứu tập trung của WIPO dành cho sáng 
chế (công cụ WIPO CASE), Sáng kiến hợp tác sáng chế “Patent 
Prosecution Highway” (PPH), Hệ thống chia sẻ hồ sơ sáng chế toàn cầu 
(Global Dossier System). Nghiên cứu khả năng ký kết các thỏa thuận hợp 
tác quốc tế về sử dụng và công nhận lẫn nhau kết quả tra cứu và thẩm định 
với một số cơ quan sáng chế quốc gia và khu vực. 
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về 
SHCN: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về SHCN cần thực hiện 
đồng bộ và chủ động ở các địa phương; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các 
cơ quan Bộ, ngành khác nhau ở trung ương; năng cao nhận thức của doanh 
nghiệp trong việc phát triển và bảo vệ TSTT; ưu tiên việc phổ biến, giáo 
dục, pháp luật về SHCN cho nhóm đối tượng là các doanh nghiệp, viện 
nghiên cứu, trường đại học. Đồng thời với công tác tuyên truyền, phổ biến 
pháp luật về SHTT, cần đưa kiến thức về SHCN vào chương trình giảng 
dạy chính thức trong các trường đại học; khuyến khích thành lập chuyên 
ngành đào tạo về SHTT trong các trường đại học công nghệ và kinh tế. 
Thứ bảy, phát triển hệ thống hỗ trợ SHCN, nhất là các đại diện SHCN: cần 
có chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống hỗ trợ SHCN hiệu quả, nhất là đại 
diện SHCN như tăng về số lượng và chất lượng các đại diện SHCN; tăng 
cường đào tạo nghiệp vụ đại diện SHCN, quy định kiểm tra nghiệp vụ đại 
diện SHCN định kỳ; tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các cá nhân 
hành nghề đại diện SHCN. Hệ thống này hoạt động có hiệu quả sẽ giúp cho 
các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân thuận lợi trong việc lập hồ sơ đơn 
SHCN có chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý. 
Thứ tám, đẩy mạnh hoạt động khai thác về thông tin SHCN: để nâng cao 
chất lượng nội dung đơn cần thành lập các tổ chức cung cấp dịch vụ tra 
cứu, đánh giá thông tin SHCN phục vụ nghiên cứu, đào tạo và triển khai; 
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Viện nghiên cứu về SHCN; 
tiến tới xã hội hóa dịch vụ thông tin SHCN, đặc biệt là thông tin sáng chế 
để đảm bảo khả năng tiếp cận, tra cứu, khai thác nguồn TTSC phục vụ việc 
tìm kiếm sáng chế, công nghệ sẵn có để áp dụng trong sản xuất, kinh doanh 
và định hướng nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; ưu tiên khai thác 
thông tin sáng chế nước ngoài, nhất là các sáng chế/GPHI đang có hiệu lực 
bảo hộ nhưng không đăng ký bảo hộ tại Việt Nam. 
Giải quyết dứt điểm tình trạng đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích lũy 
hàng năm tăng lên là nhiệm vụ hết sức khó khăn hiện nay, cần được các 
cấp lãnh đạo chú trọng, quan tâm và có biện pháp quyết liệt thực hiện. 
Ngoài việc thực hiện những giải pháp nêu trên, cần có giải pháp về tổ chức 
và nhân lực, cụ thể cần phân tích, cân đối giữa nhu cầu xã hội và năng lực 
76 
của các đơn vị chức năng, tăng cường chất lượng và số lượng nhân viên 
nghiệp vụ cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xác lập quyền 
SHCN. Đồng thời, xây dựng công tác dự báo đơn SHCN và liên quan như: 
xây dựng công tác dự báo đơn SHCN và liên quan như sửa đổi đơn, phản 
đối đơn, chuyển giao đơn; dự báo đơn SHCN và liên quan, qua đó dự báo 
lượng đơn quy đổi và xác định tổng lượng đơn vị lao động tiêu hao cần 
thiết; từ đó xác định được số thẩm định viên cần thiết và số thẩm định viên 
mới cần đào tạo hàng năm. Trên cơ sở dự báo tổng lượng đơn SHCN quy 
đổi, kết hợp với xác định vị trí việc làm, xem xét lại định mức phù hợp cho 
từng vị trí, từng chức danh thẩm định và định mức quy đổi theo từng loại 
đơn nhằm xác định tối ưu định mức lao động và định mức quy đổi. 
Tóm lại, để ứng phó hiệu quả từ tác động của các xu thế lớn trên thế giới 
đối với quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng, cơ quan quản lý về 
SHTT cần tiến hành những nghiên cứu phân tích những tác động cụ thể của 
các xu thế lớn trên thế giới đối với quản lý SHTT ở Việt Nam; đánh giá 
thực trạng của hệ thống SHTT trước các yêu cầu mới về hoạt động SHTT 
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ 
thống quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng nhằm khai thác được 
những lợi thế mà các xu thế này mang lại, đồng thời ứng phó được các 
thách thức mới đặt ra. 
Để khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập quyền SHCN ở Việt Nam 
cần tiến hành những nghiên cứu phân tích các nguyên nhân tác động, các xu 
thế lớn trên thế giới đối với hoạt động này. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù 
hợp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả của hoạt động xác lập quyền 
SHCN. Các giải pháp nên trên cần thực hiện đồng bộ, trong đó đặc biệt ưu 
tiên thực hiện giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; sửa đổi 
và ban hành quy chế thẩm định đơn SHCN; đẩy mạnh hoạt động khai thác 
về thông tin SHCN./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005. 
2. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi số 36/2009/QH12 ngày 19/06/2009. 
3. WIPO, 2001. Cẩm nang Sở hữu trí tuệ: Chính sách, Pháp luật và Áp dụng, Cục Sở hữu 
trí tuệ biên dịch “Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use” và xuất bản. 
4. Bộ Khoa học và Công nghệ, 2017, “Dự thảo Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật 
sở hữu trí tuệ”, Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội ngày 
19/05/2017, Hồ Chí Minh ngày 23/05/2017. 
5. Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016, Hà Nội. 
 77 
6. Shahid Alikhan, 2000. Lợi ích kinh tế-xã hội của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở các 
nước đang phát triển, Cục Sở hữu trí tuệ biên dịch “Socio-economic benefits of 
intellectual property protection in developing countries” và xuất bản. 
7. Kamil Idris, 2003. Sở hữu trí tuệ - Một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế, Cục Sở 
hữu trí tuệ biên dịch “Intellectual Property: A Power Tool for Economic Growth” và 
xuất bản. 
8. Phạm Tuấn Anh, 2011. Quản lý nhà nước về Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Khoa học 
và Kỹ thuật, Hà Nội. 
Tiếng Anh 
9. OECD, 2004. Patents and innovation: trends and policy challenges, OECD 
Publications, Paris, France. 
10. OECD, 2016. OECD Science, Technology and Innovation Outlook 2016, OECD 
Publishing, Paris, France. 
11. National Research Council, 1993. Global Dimensions of Intellectual Property Rights 
in Science and Technology, The National Academies Press, Washington, D.C. 
12. Lester C. Thurow, 1997. “Needed: a new system of intellectual property rights”, 
Harvard Business Review, September-October 1997, 95-103. 
13. Wiliam M Lander & Richard A. Posner, 1988. “The economics of Trademark Law”, 
The Trademark Reporter No. 78, May-June 1988, pp. 270-271. 
14. Hisamitsu Azai, 1999. Intellectual Property Policies for the Twenty-First Century-
The Japanese Experience in Wealth Creation, WIPO publication, WIPO. 
15. Barton, J. H., Abbott, F. M., Correa, C. M., Drexl, J., Foray, D. and Marchant, R., 
2007. Views on the Future of the Intellectual Property System, ICTSD Programme on 
Intellectual Property Rights and Sustainable Development, International Centre for 
Trade and Sustainable Development, Geneva, Switzerland 
16. The Patent Cooperation Treaty, 2009. “Pilot of Patent Prosecution Highway Program 
to use PCT Work Products”, PCT Newsletter, No. 12/2009, pp. 1. 
17. The Patent Cooperation Treaty, 2010. “The Trilateral Offices commence PCT-Patent 
Prosecution Highway Pilot”, PCT Newsletter, No. 02/2010, pp. 2. 
18. The Patent Cooperation Treaty, 2010. “Factors to be considered when deciding 
whether or not to file a demand for international preliminary examination” (Views of 
David Reed), Practical Advice, PCT Newsletter, No. 04/2010, pp. 8ff. 
19. Convention Establishing the World Intellectual Property Organization, 
 Access date 11.06.2014. 
20. Roland Berger, 2014. Think Act Industry 4.0: The new industrial revolution How 
Europe will succeed, Roland Berger Strategy Consultants, 
, Access date 
04.10.2017. 
21. Klaus Schwab, 2016. The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to 
respond, The World Economic Forum, 
<https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-
means-and-how-to-respond/>, Access date 01.11.2017.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ton_tai_va_giai_phap_khac_phuc_trong_xac_lap_quyen_so.pdf